Hiện nay, ở Việt Nam, hợp đồng tương lai và các giao dịch trên
thị trường tương lai còn là những khái niệm khá mới mẻ với
nhiều các nhân, tổ chức. Nhưng ở các nước có thị trường tài
chính phát triển, nó đã hình thành, phát triển khá lâu đời, cùng
tồn tại song song và đóng vai trò quan trọng không kém so với thị
trường chứng khoán. Bài viết này xin giới thiệu sơ lược về hợp
đồng tương lai và cách thức để tham gia giao dịch trên thị trường
này.
35 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 908 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tìm hiểu về hợp đồng tương lai và thị trường tương lai trên thị trường quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tìm hiểu về hợp đồng tương lai và
thị trường tương lai trên thị
trường quốc tế
Hiện nay, ở Việt Nam, hợp đồng tương lai và các giao dịch trên
thị trường tương lai còn là những khái niệm khá mới mẻ với
nhiều các nhân, tổ chức. Nhưng ở các nước có thị trường tài
chính phát triển, nó đã hình thành, phát triển khá lâu đời, cùng
tồn tại song song và đóng vai trò quan trọng không kém so với thị
trường chứng khoán. Bài viết này xin giới thiệu sơ lược về hợp
đồng tương lai và cách thức để tham gia giao dịch trên thị trường
này.
1. Trước hết, ta cần phân biệt sự khác biệt giữa hợp đồng
tương lai và hợp đồng kỳ hạn
Hợp đồng tương lai cũng như hợp đồng kỳ hạn, khác với options
(có quyền không cần thực hiện hợp đồng) ở chỗ là có sự bắt
buộc phải thực hiện hợp đồng vào ngày giao hàng đã thỏa thuận
trước. Bên mua của hợp đồng được gọi là bên giữ thế trường vị
(long position) của hợp đồng, bên bán của hợp đồng được gọi là
bên giữ thế đoản vị (short position) của hợp đồng. Cả hai loại hợp
đồng đều được ấn định rõ loại hàng hóa, số lượng, chất lượng,
giá tương lai, ngày giao hàng và địa điểm giao hàng. Cả hai đều
là một trò chơi có tổng bằng 0, khoản lời của bên này chính là
khoản lỗ của bên kia. Tuy vậy, giữa chúng cũng có một vài điểm
khác biệt sau:
- Hợp đồng tương lai là hợp đồng được tiêu chuẩn hóa, chỉ có giá
là được thỏa thuận, mỗi hợp đổng đều được quy định một số
lượng hàng hóa nhất định (gọi là contract size),ngày giao hàng và
nơi giao hàng được ấn định cụ thể trên thị trường, không có sự
đàm phán giữa hai bên tham gia vào hợp đồng. Ngược lại,mọi
đều khoản của hợp đồng kỳ hạn đều có thể được thỏa thuận,
đàm phán giữa hai bên.
- Hợp đồng tương lai được giao dịch trên các thị trường tương
lai. Các bên có thể kết thúc hoặc chấm dứt vị thế của mình một
cách dễ dàng. Bên giữ thế trường vị (người mua) có thể kết thúc
vị thế của mình bằng cách bán lại hợp đồng tương lai với cùng
loại hàng hóa và cùng ngày giao hàng. Ngược lại,bên giữ thế
đoản vị (người bán) cũng có thể kết thúc vị thế của mình bằng
cách mua một hợp đồng tương lai tương tự. Ngược lại, ngoài thị
trường hợp đồng kỳ hạn lãi suất và thị trường kỳ hạn ngoại tệ,
hầu hết các thị trường kỳ hạn đều rất kém thanh khoản.
- Khả năng bị phá vỡ hợp đồng trong hợp đồng tương lai thấp
hơn nhiều so với hợp đồng kỳ hạn,thậm chí nó là con số 0. Các
trung tâm thanh toán bù trừ (clearing house) sẽ đóng vai trò như
là một bên trung gian cho cả người bán và người mua.Nghĩa
là,nếu Bên A muốn mua một hợp đồng tương lai, anh ta có thể
mua nó từ trung tâm thanh toán bù trừ;nếu bên B muốn bán một
hợp đồng tương lai, anh ta có thể bán nó cho trung tâm thanh
toán bù trừ.Trung tâm thanh toán bù trừ là một bên trong hợp
đồng tương lai, nó luôn công bằng cho cả người bán và người
mua theo những qui tắc đã được đặt ra
- Chỉ 1-5% số hợp đồng tương lai trên thị trường thực sự được
giao dich (diễn ra việc giao hàng giữa các bên), còn lại hầu như
chỉ diễn ra sự thanh toán lãi lỗ giữa các bên. Ngược lại, hầu hết
mọi hợp đồng kỳ hạn đều diễn ra việc giao hàng thực sự giữa các
bên.
- Hợp đồng tương lai được tái thanh toán hằng ngày, và được ấn
định, ghi nhận trên thị trường, nên các khoản lời lỗ được nhận
biết hằng ngày. Còn hợp đồng kỳ hạn chỉ có thể nhận biết rõ lời
lỗ vào ngày giao hàng trong tương lai. Vì vậy, khả năng xuất hiện
một khoản lỗ lớn vào ngày giao hàng là rất cao, nên khả năng
người bị lỗ sẽ tìm cách để phá vỡ hợp đồng cũng rất cao à rủi ro
phá vỡ hợp đồng kỳ hạn là cao hơn rất nhiều so với hợp đồng
tương lai (hầu như là con số 0). Do đó, để tham gia vào các hợp
đồng tương lai, cần có một khoản tiền ký quỹ trong tài khoản và
ấn định tới thị trường để đảm bảo việc tuân thủ hợp đồng giữa
các bên.
2. Những yêu cầu về ký qũy (margin)
Để tham gia giao dịch các hợp đồng tương lai, người giao dịch
cần một khoản tiền ký gửi để đảm bảo các bên tuân theo những
điều kiện của hợp đồng. Khoản tiền này được gọi là tiền ký quỹ.
Mỗi sở giao dịch tương lai sẽ đưa ra những yêu cầu ký quỹ ban
đầu (initial margin) tối thiểu để có thể giao dịch ở đó. Khoản ký
quỹ ban đầu là khoản tiền phải gửi vào trong tài khoản giao dịch
(hay còn gọi là tài khoản ký quỹ) khi muốn mua hay bán. Khoản
ký quỹ ban đầu này phụ thuộc vào mỗi sở giao dịch, mỗi loại
hàng hóa,và giá tương lai của hàng hóa đó đang được giao dịch
ở hiện tại và các dữ liệu trong quá khứ.
Sau một thời gian giao dịch, nếu nếu tiền trong tài khoản giảm tới
bằng hoặc dưới mức ký quỹ duy trì (maintenance margin) theo
qui định (mức này tùy thuộc vào qui định của các sở giao dịch và
loại hàng hóa giao dịch), thì phải chuyển thêm tiền vào tài khoản
để đưa tiền trong tài khoản về mức ký quỹ ban đầu.
Ví dụ: Để giao dịch một hợp đồng tương lai dầu mỏ 100 thùng
dầu bạn cần một số tiền ký quỹ ban đầu (initial margin) là $1000,
mức ký quỹ duy trì (maintenance margin) là $750, giả sử bạn ở
thế bên mua của hợp đồng, sau đó ngày mai giá dầu tương lai
thay đổi bất lợi cho bạn,tức giảm $2,7/thùng à bạn lỗ $2,7*100 =
$270. Lúc này tiền trong tài khoản của bạn còn $730, dưới mức
$750, để được tiếp tục tham gia giao dịch, bạn cần phải gửi vào
tài khoản ký quỹ $270 để trở về mức ký quỹ ban đầu là
$1000.Khoản tiền $270 để đáp ứng giấy gọi ký quỹ (margin call)
được gọi là khoản bù đắp ký quỹ (variation margin). Một người
giao dịch mà không thực hiện nhanh theo giấy gọi theo một
khoản thời gian qui định sẽ bị thanh lý hay chấm đứt vị trí bởi
FCM (Futures commission merchant).
Lưu ý: Khi bạn nhận được giấy gọi ký quỹ thì bạn phải thực hiện
nó, ngay cả khi giá tương lai của ngày tiếp theo thay đổi theo
hướng có lợi cho bạn. Tức là, cũng với ví dụ trên, giả sử giá hợp
đồng tương lai của dầu giảm $2,7/thùng vào ngày t. Ngày t +1,
bạn ở thế người mua sẽ nhận được một giấy gọi, lúc này sẽ
không xét đến giá dầu tương lai của ngày t +1. Dù giá dầu tương
lai có tăng trên $0,2/thùng vào cuối ngày t, bạn vẫn phải gửi $270
vào tài khoản của mình.
Các FCM thường đưa ra các mức yêu cầu ký quỹ ban đầu hoặc
mức ký quỹ duy trì cao hơn mức mà các sở giao dịch tương lai
qui định. Các mức này cũng thường khác nhau tùy thuộc vào
người tham gia giao dịch để phòng hộ hay để dầu cơ hay để
hưởng chênh lệch nhỏ. Những người đầu cơ thường bị yêu cầu
các mức ký quỹ cao hơn 2 đối tượng kia để đảm bảo thanh toán
cho các khoản lỗ lớn hơn.
Khoản ký quỹ ban đầu ngoài tiền mặt (không được hưởng lãi
suất), thì trái phiếu chính phủ hay thư tín dụng (được hưởng lãi
suất) cũng được chấp nhận, nhưng các khoản bù đắp ký quỹ thì
phải bằng tiền mặt.
Khoản ký quỹ để giao dịch tương lai dùng để thanh toán các
khoản lỗ trong giao dịch, chứ không phải để thanh toán hàng hóa,
nó khác với khoản ký quỹ trong các giao dịch trái phiếu, cổ phiếu
dùng dể thanh toán cho việc mua bán các chứng khoán đó.
3. Theo dõi, ghi nhận trên thị trường (marking to market)
Mọi vị trí của người giao dịch tương lai đều được theo dõi và ghi
nhận trên thị trường hằng ngày.Qui trình này đôi khi được gọi là
tái thanh toán hằng ngày (daily resettlement). Nghĩa là,lãi hay lỗ
sẽ được ghi nhận hằng ngày.Việc nhận biết Lãi và lỗ dựa vào giá
thanh toán hằng ngày vào giá tại thời điểm đóng cửa của ngày
giao dịch (giá tương lai lúc đóng cửa).Nếu tiền trong tài khoản
dưới mức duy trì thì bạn phải gửi tiền vào tài khoản để đưa về
khoản ký quỹ ban đẩu.
* F(0,T) : Giá tương lai khi hợp đồng bắt đầu
* S(T) = F(T,T): Giá giao ngay vào ngày giao hàng
* |F(0,T) – S(T)|: Khoản lời hay lỗ trên 1 đơn vị tài sản cơ sở của
hợp đồng kỳ hạn.
* |F(0,T) – F(1,T)|: dòng tiền được ghi nhận trên thị trường hằng
ngày, cũng là sự thay đổi giá tương lai từ 1 ngày đến ngày tiếp
theo.
Quá trình tái thanh toán hằng ngày làm hợp đồng tương lai giống
như là một chuỗi các hợp đồng kỳ hạn 1 ngày có F(1,T) = S(T) =
F(1,1) = S(1).Mỗi ngày, hợp đồng kỳ hạn được thanh toán, lời, lỗ
được nhận biết, và một hợp đồng kỳ hạn 1 ngày mới được tạo ra.
Tổng dòng tiền cuối cùng cho hợp đồng tương lai sẽ bằng khoản
lời hoặc lỗ của một hợp đồng kỳ hạn với khoản thời gian giao
hàng tương tự nhau.
Việc ghi nhận, theo dõi, ấn định trên thị trường giúp giảm thiểu
nguy cơ rủi ro phá vỡ hợp đồng đến mức thấp nhất. Sẽ không có
sự gia tăng giá trị tài sản cho một bên và tăng giá trị nợ cho bên
kia như hợp đồng kỳ hạn.
Ví dụ:Vào ngày 6-11-2001, bạn bán (tức bạn giữ thế trường vị)
một hợp dồng tương lai 100 once vàng giao hàng vào tháng 12-
2001,hợp đồng của bạn được bán lúc 10 giờ,lúc ấy giá tương lai
là $285/once. Khoản yêu cầu ký quỹ ban dầu là $1000, tổng số
tiền được chuyển từ tài khoản tiền mặt sang tài khoản ký quỹ. Giá
thanh toán lúc đóng cửa ngày 6-11-2001 là $286,40/once.Tài
khoản của bạn được ấn định trên thị trường. Tiền của bạn trong
tài khoản vào cuối ngày 6-11 sẽ là $860,vì bạn đã bị lỗ $140 (
|$286,40 – $285|*100) ở thế đoản vị của hợp đồng.Vào các ngày
tiếp theo,tài khoản được tiếp tục được ghi nhận trên thị trường.
Nếu giá tương lai giảm, tiền trong tài khoản của bạn sẽ tăng, và
ngược lại.Mức ký quỹ duy trì là $750.
4. Các sở giao dịch tương lai lớn trên thế giới và mục đích
của thị trường tương lai
a. Thị trường tương lai tồn tại vì những lý do sau:
- Giúp cho các giao dịch xuyên thời gian trở nên dễ dàng hơn.
Sản xuất, tiêu dùng và các quyết định kinh doanh trở nên tối ưu
hơn khi có thị trường tương lai. Nó cho phép các cá nhân thực
hiện các hợp đồng chi phí thấp một cách nhanh chóng để trao đổi
tiền-hàng trong tương lai. Những người phòng hộ và đầu cơ sẽ
giao dịch trên thị trường tương lai khi tốc độ là quan trọng.
- Hợp đồng tương lai cho các cá nhân biết để họ hành động dựa
vào những thông tin hảo hạn..Bằng cách này,giá sẽ trở nên hiệu
quả hơn. Hay nói cách khác,giá sẽ phản ánh thong tin đầy dủ
hơn và nguồn tài nguyên sẽ được phân chia một cách tối ưu.
- Hợp đồng tương lai cho phép các cá nhân phòng ngừa rủi ro
biến động giá. Các nhà sản xuất và người sử dụng sau đó có thể
làm những gì tốt nhất. Những người phòng hộ sẽ chuyển rủi ro
sang những người đầu cơ. Sự không chắc chắn về giá trong
tương lai là những điều kiện để các hợp đồng tương lai giao dịch
thành công. Thu hút cả những người đầu cơ và những người
phòng ngừa rủi ro.
- Giá tương lai thường chứa đựng thông tin bên trong nó, thường
được gọi là chức năng “khám phá giá” của hợp đồng tương
lai.Nhà sản xuất và người tiêu dung có thể có những nhận định
hiệu quả nhất về cung cầu hàng hóa trong tương lai, giá giao
ngay tương lai sẽ như thế nào,bằng cách xem xét giá tương lai
vào thời điểm hiện tại ra sao.Từ đó,họ có thể đưa ra những quyết
định sản xuất và dự trữ tốt nhất.
b. Các sở giao dịch tương lai chính của Mỹ:
1.Chicago Mercantile Exchange (CME)
www.cme.com
2.Chicago Board of Trade (CBOT)
www.cbot.com
3.New York Board of trade (NYBOT)
www.nybot.com
4.New York Mercantile Exchange (NYMEX)
www.nymex.com
5.Kansas City Board of trade
www.kcbt.com
6.Commodity Futures Trading Commission (CFTC)
www.cftc.com
7.National Futures Association
www.nfa.futures.org
5. Các loại lệnh để giao dịch tương lai:
Tất cả các lệnh để giao dịch hợp đồng tương lai có những điểm
chung sau:
- Là lệnh mua hay lệnh bán.
- Tên của hàng hóa.
- Năm và tháng giao hàng của hợp đồng.
- Số lượng hợp đồng.
- Nơi (sở) mà hợp đồng giao dịch (nếu nó được giao dịch trên
các sở liên thông với nhau).
- Là lệnh giới hạn hay lệnh thị tường
- Là lệnh ngày (day order- là lệnh tự huỷ vào cuối ngày giao dịch
nếu nó không được thực hiện) hay lệnh không tự hủy.
Một số lệnh phổ biến thường gặp:
sell_buy.jpg- Lệnh thị trường (Market order) : Là lệnh mua bán
mà không có một mức giá rõ ràng được ấn định.Nếu một người
đặt một lệnh thị trường để mua hoặc bán, người đó sẽ vào một
thế trường vị hay đoản vị ở mức giá đang có lợi thế ở khu vực
giao dịch tương lai vào lúc đó.Khi nhận được một lệnh, một đại
diện của FCM của người giao dịch sẽ đi dến khu vực mà hợp
đồng tương lai đó được giao dịch và cố gắng đạt dược một mức
giá tốt nhất có thể,dựa vào tình hình cung cầu trên thị trườn lúc
đó.Có một rủi ro là trong một thị trường “nhanh”,giá giao dịch sẽ
khá khác giá dược ấn định tới khách hàng bởi FCM chỉ sớm hơn
một hoặc hai phút.
- Lệnh giới hạn (Limit order) : Là lệnh mua bán ở một mức giá
được ấn định cụ thể,nhưng có rủi ro là đôi khi lệnh không được
thi hành.
- Lệnh Market-if-touched (MIT order) : gần giống như lệnh giới
hạn,chỉ khác ở chỗ nó sẽ trở thành lệnh thị trường khi một giao
dịch ở mức giá được ấn định đó xảy ra.Ví dụ,một lệnh mua MIT
mặt hàng vàng với giá được định rõ là $273,4/oz sẽ trở thành
lệnh thị trường ngay khi một giao dịch ở mức giá đó được thực
hiện.Người giao dịch có thể khớp ở mức giá đó, hoặc trên hoặc
dưới mức giá đó.Trong thị trường đang giảm nhanh, những giao
dịch tiếp theo sau khi đặt lệnh mua MIT thường là ở mức $275;
$272,6; $270,8. Giao dịch nên được thực hiện ở bất kỳ mức giá
nào tồn tại sau cái giao dịch ở mức giá $272,6.Trong trường hợp
này thì nên là $270.
- Lệnh Ngừng (Stop order): còn được gọi là lệnh cắt lỗ hay lenh
ban tu dong (Stop-loss-orders), cũng được định rõ một mức giá.
Có hai loại là lệnh ngừng để mua và lệnh ngừng để bán.Lệnh
ngừng để mua thường được đặt bởi người đang ở thế đoản vị
một hợp đồng và muốn hạn chế khoản lỗ của anh ta khi giá bắt
đầu tăng. Vì vậy,lệnh ngừng để mua được đặt ở mức giá được
ấn định trên mức giá tương lai hiện tại, và sẽ trở thành lệnh thị
trường khi giá tương lai bằng hoặc lớn hơn giá được ấn định
đó.Ngược lại,lệnh ngừng bán được dặt ở mức giá dưới giá tương
lai hiện tại.
Ví dụ: Một người mua lần đầu một hợp Trái phiếu chính phủ với
giá $100/trái phiếu. Sau khi giao dịch được thực hiện, anh ta có
thể đặt một lệnh ngừng để mua ở mức giá $105/trái phiếu nhằm
hạn chế khoản lỗ của anh ta do lo sợ giá tương lai của nó sẽ tăng
ngược với mong đợi của anh ta là giá sẽ giảm. Nếu có một giao
dịch được thực hiện ở mức giá là $105/trái phiếu, thì sau đó lệnh
của anh ta sẽ trở thành lệnh thị trường mua, và anh ta sẽ phải bù
đắp thế đoản vị của mình ở mức giá tiếp theo, bất cứ mức giá
nào.
Lưu ý: Khác với lệnh ngừng để mua, lệnh giới hạn mua sẽ định rõ
một mức giá dưới giá hiện tại.Trong trường hợp này người giao
dịch muốn bắt đầu thế trường vị ở một mức giá tương lai có lợi
cho anh ta hơn.hoặc anh ta sẽ có được một khoản lãi trên thế
đoản vị hiện tại nếu giá tương lai giảm xuống tới mức giá mà anh
ta đã đặt.
- Lệnh giới hạn ngừng (Stop limit order): là lệnh sẽ trở thành lệnh
giới hạn khi giá được định rõ (giá đặt) được đạt đến. Vì vậy, trong
ví dụ trên, nếu có một giao dịch xảy ra ở mức giá $105/trái phiếu,
một lệnh giới hạn ngừng mua sẽ giúp người giao dịch chỉ phải bù
đắp vị trí của mình ở mức $105/trái phiếu hay ở một mức tốt hơn
(dưới $105/trái phiếu). Một lệnh giới hạn ngừng thậm chí có thể
định rõ một mức giá ngừng khác giá giới hạn. Ví dụ,một người
giao dịch có thể đặt mua lại hợp đồng trái phiếu chính phủ với
mức ngừng là $105/trái phiếu và mức giới hạn là $102/trái phiếu,
nghĩa là,khi có một giao dịch ở mức giá $105, người giao dịch sẽ
phải bù đắp thế đoản vị của anh ta,nhưng chỉ ở mức giá từ $102
đến $105. Điều này rất quan trọng vì khi sử dụng lệnh giới hạn
ngừng sẽ có rủi ro là không thực hiện được giao dịch trong một
vài điều kiện thị trường nhanh.
Còn khá nhiều loại lệnh nữa mà có thể được đặt ở các sở hay
các thị trường giao dịch khác. Lưu ý rằng cần xem xét xem loại
lệnh nào sẽ được chấp nhận ở sở giao dịch nào. Ví dụ như lệnh
MIT được chấp nhận ở CME nhưng không được chấp nhận ở
CBOT. Thường thì các FCM sẽ cung cấp một bảng tóm tắt các
loại lệnh nào được chấp nhận ở các sở giao dịch khác nhau.
6. Các chủ thể trên thị trường tương lai
a. Những nhà đầu cơ (speculators):
Là những người chấp nhận rủi ro cao để tìm kiếm lợi nhuận cao
từ sự giao động giá.Họ có thể giữ thế trường vị (long position)
hay đoản vị (short position) hay cả hai vị thế cho cùng một hàng
hóa (spread position).Có thể chia ra làm 2 loại nhà đầu cơ:
- Nhà đầu cơ vị thế (position traders): họ thường vào các vị thế và
giữ chúng trong vài ngày, vài tuần, hay vài tháng.Họ thường sử
dụng các phân tích kỹ thuật để dự đoán sự biến động giá và xu
hướng giá cả trong tương lai, từ đó sẽ vào các vị thế thích hợp
để tìm kiếm lợi nhuận. Hoặc những nhà đầu cơ khác lại sử dụng
các phân tích cơ bản để đưa ra nhận định về giá, họ thường sử
dựa vào các dữ liệu kinh tế vĩ mô để đưa ra các dự đoán về sự
biến động giá.
- Nhà đầu cơ ngày (day traders): chỉ đầu cơ dựa vào sự biến
động giá chỉ trong một ngày giao dịch.Họ không bao giờ trở về
nhà với một vị thế trong tay. Giao dịch ngày thường tốn kém chi
phí vì họ phải theo thông tin, biến động giá cả thường xuyên, và
tốn các chi phí cho những giao dịch trong suốt một ngày, với mục
đích kiếm được vài tick lợi nhuận trong một giao dịch.
b. Những người phòng hộ (Hedgers):
Là những người tham gia giao dịch tương lai để phòng ngừa các
rủi ro do sự biến động giá bất lợi cho họ. Ví dụ, một công ty Việt
Nam phải mua 100.000 thùng dầu với giá $60/thùng để bán qua
Mỹ với giá kỳ vọng khoản $75/thùng, rủi ro hiển hiện ở đây là
trong suốt khoảng thời gian vận chuyển dầu qua Mỹ, giá dầu ở
Mỹ sẽ giảm xuống dưới $75/thùng sẽ làm giảm lợi nhuận, thậm
chí là lỗ. Khi đó, để hạn chế tối đa rủi ro,công ty này có thể bán
hợp đồng tương lai (vào thế đoản vị) dầu với cùng số lượng để
phòng ngừa rủi ro.Nếu giá lúc giao hàng giảm,công ty sẽ bị giảm
lợi nhuận hay lỗ, nhưng sẽ được bù đắp bằng lợi nhuận ở hợp
đồng tương lai dầu. Đây là một ví dụ của phòng hộ đoản vị (short
hedge).
Một ví dụ khác, một công ty ký hợp đồng bán nữ trang cho một
nhà bán lẻ vào tháng 1, giao hàng vào tháng 9. Nhưng vào thời
điểm hiện tại, công ty không có vàng nguyên liệu trong kho, và
cũng không có đủ tiền mặt để mua vàng vào lúc này,công ty dự
tính rằng vào tháng 5 mới có thể đáp ứng được nguồn vàng
nguyên liệu để bắt đầu sản xuất,nhưng lo ngại từ đây đến đó giá
vàng sẽ tăng, làm đội giá sản phẩm đầu ra. Để phòng ngừa cho
điều này, công ty có thể mua mua những hợp đồng tương lai
vàng để tránh rủi ro tăng giá vàng nguyên liệu. Đây là một ví dụ
của phòng hộ trường vị (long hedge).
c. Những người đầu cơ hưởng chênh lệch (Arbitrageurs):
Là những người tìm kiếm lợi nhuận bằng cách xem xét một loại
hàng hóa nào đó cùng những hàng hóa tương đương để bán hai
giá khác nhau ở hai thị tường khác nhau.Họ là những người dựa
vào mối quan hệ giữa giá giao ngay và giá tương lai, hay những
biến động cung cầu nhất thời làm rối loạn giá để kiếm lợi nhuận
từ chênh lệch giữa giá giao ngay và giá tương lai.
d. Những đối tượng trên sàn giao dịch
Những người giao dịch trên các sàn giao dịch có thể được phân
loại theo mục tiêu và chức năng:
- Những người giao dịch sàn (Floor traders) : là những thành viên
giao dịch các hợp đồng tương lai ở các khu vực tương lai (futures
pit). Những người giao dịch tài khoản riêng của anh ta gọi là một
local, họ tạo ra tính thanh khoản cho thị trường vì họ hoạt động
như những nhà đầu cơ (scalpers) giao dịch rất ngắn hạn.Họ
muốn mua hợp đồng tương lai ở giá đã đặt (bid) và nhanh chóng
bán lại ở một mức giá phù hợp (asked). Họ phải đăng ký với ủy
ban giao dịch hàng hóa tương lai (CFTC) để được hoạt động.
- Những nhà môi giới sàn (floor brokers) : giúp thi hành lệnh cho
các bên ,ví dụ như các FCM (Futures commission merchant),
hoạt động gần giống như các công ty môi giới chứng khoán, bằng
cách thu phí giao dịch (khoảng $1 hay $2 mợt hợp đồng).Họ cũng
phải đăng ký với CFTC để được hoạt động.
- Một chủ thể nữa là những người giao dịch sàn mà hoạt động
như cả một local và một nhà mội giới, thường được gọi là dual
trading. Họ thường thực hiện mua 2 hợp đồng trong một khỏang
thời gian ngắn ở 2 mức giá khác nhau, 1 cho khách hàng và 1
cho chính anh ta. Điều này gây ra những tranh cải về “tình trạng
tiến thoái lưỡng nan về đạo đức (ethical dilemma)”, nên để được
phép hoạt động,anh ta phải trải qua những thủ tục kiểm tra dài
dòng và hệ thống kiểm soát nhằm hạn chế sự lạm dụng của anh
ta.
e. Những đối tượng khác tham gia trên thị trường
- Những người cộng tác (Associated persons-APs): là những cá
nhân làm việc cho FCM bằng cách nhận lệnh và chấp nhận lệnh.
Gần giống những người môi giới chứng khoán.
- Các nhà tư vấn giao dịch hàng hóa (Commodity trading
advisers-CTAs): phân tích thị trường tương lai, cung cấp thông
tin, phát triển hệ thống giao dịch, đồng thời đưa ra các lời khuyên,
tư vấn cho các nhà giao dịch.
- Các nhà môi giới giới thiệu (Introducing brokers-IBs): Là những
cá nhân trực tiếp kinh doanh với các FCM và các CTA, nhưng
chính họ không phải là các AP và các CTA. Một IB thường chào
mời và chuyển lệnh, khi một lệnh được nhận,nó được đưa vào
một FCM để thi hành.Những IB khác thì góp các khoản quỹ nhỏ
thành một khoản lớn để có thể trở thành một CTA mà đòi hỏi
khoản đầu tư tối thiểu lớn.
- Các nhà huy động quỹ hàng hóa (Commodity pool operators-
CPOs): Hoạt động như các quỹ tương hỗ trong thị trường chứng
khoán, huy động vốn của các nhà đầu tư nhỏ và sử dụng để giao
dịch tương lai.
Các đối tượng này muốn tham gia thị trường tương lai cần phải
đăng ký với CFTC để được hoạt động.
7. Thuế và phí giao dịch
* Thuế (Taxes):
Mọi thông tin giao dịch trên thị trường tương lai (tất cả các vị thế
trong các hợp đồng tương lai,lời hay lỗ....) của các tài khoản giao
dịch đều được ghi nhận, kiểm soát, và kết sổ vào ngày giao dịch
cuối cùng của năm (31 – 12) để tiện cho việc tính thuế. Lưu ý
rằng, theo luật, mã số thuế của một nhà đầu cơ có những qui
định khác với mã số của những người phòng hộ.Thường các nhà
đầu cơ phải chịu bị đánh thuế với tỷ lệ cao hơn những đối tượng
còn lại.
* Phí giao dịch (Commissions):
Phí giao dịch chỉ được trả cho các FCM khi các giao dịch tương
lai được bù đắp, hoặc trong ngày giao hàng hoặc lúc tái thanh
toán tiền mặt lần cuối.Phí giao dịch trên một hợp đồng sẽ giảm
khi nhiều hợp đồng hơn được giao dịch. Các FCM thường tính
một dịch vụ trọn gói là $100 dể giao dịch một hợp đồng. Các giao
dịch bình thường sau khi đã chiết khấu, giảm giá thường được
các FCM tính từ $15 đến $40 một hợp đồng khi vị trí kết thúc. Đối
với các nhà giao dịch lớn như các công ty cổ phần, ngân hàng,
hay những công ty giao dịch chuyên nghiệp thường được tính
khoảng $10 một hợp đồng. Còn những người giao dịch sàn
thường chỉ phải trả khá ít, khoảng $1,5 một hợp đồng.
Kết luận
Thị trường tương lai là một dạng thị trường bậc cao của thị
trường tài chính, việc tham gia thị trường đòi hỏi các chủ thể phải
có những hiểu biết nhất định để có thể bảo vệ quyền lợi cũng như
làm lợi tối đa cho chính mình. Bài viết này chỉ đưa ra một số kiến
thức căn bản về thị trường tương lai qua tham khảo một số tài
liệu. Hy vọng nó có thể đem lại cho các saganor cái nhìn tổng
quan về một dạng thị trường còn khá mới mẻ ở Việt Nam này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tim_hieu_ve_hop_dong_tuong_lai_va_thi_truong_tuong_lai_tren_thi_truo_ng_quo_c_te.pdf