Tìm hiểu tư tưởng đạo đức Khổng Tử

Khổng Tử là người đầu tiên đề ra phương hướng trị nước

bằng đường lối đức trị, trong đó người tập trung ở 4 phạm trù cơ bản

“Nhân-Lễ-Trí-Nghĩa" trong xây dựng nhân cách cho con người. Ông

trình bày một cách cụ thể về đặc điểm và yêu cầu của từng phạm trù,

“Nhân” chính là sự yêu người coi người như mình, “Lễ” cần phải

biết khắc chế bản thân, phục tùng lễ nghi truyền thống, “Trí” là sự

hiểu biết của bản thân xuất phát từ bẩm sinh và nhờ vào học tập,

“Nghĩa” là trung thành và khi làm việc thì việc gì hợp nghĩa thì làm

không màng đến lợi ích cá nhân. Với những đặc điểm như thế nên tư

tưởng Khổng Tử được các thế hệ sau kế thừa, tuy nhiên nó vẫn bộc lộ

những hạn chế nhất định về tính cứng nhắc, rập khuôn, bảo thủ.

pdf9 trang | Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 20/05/2022 | Lượt xem: 494 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tìm hiểu tư tưởng đạo đức Khổng Tử, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 TÌM HIỀU TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC KHỔNG TỬ SV: Nguyễn Việt Tiến Lớp: ĐHGDCT14B GVHD: CN. Nguyễn Thái Hòa Tóm tắt: Khổng Tử là người đầu tiên đề ra phương hướng trị nước bằng đường lối đức trị, trong đó người tập trung ở 4 phạm trù cơ bản “Nhân-Lễ-Trí-Nghĩa" trong xây dựng nhân cách cho con người. Ông trình bày một cách cụ thể về đặc điểm và yêu cầu của từng phạm trù, “Nhân” chính là sự yêu người coi người như mình, “Lễ” cần phải biết khắc chế bản thân, phục tùng lễ nghi truyền thống, “Trí” là sự hiểu biết của bản thân xuất phát từ bẩm sinh và nhờ vào học tập, “Nghĩa” là trung thành và khi làm việc thì việc gì hợp nghĩa thì làm không màng đến lợi ích cá nhân. Với những đặc điểm như thế nên tư tưởng Khổng Tử được các thế hệ sau kế thừa, tuy nhiên nó vẫn bộc lộ những hạn chế nhất định về tính cứng nhắc, rập khuôn, bảo thủ. Từ khóa: Đạo đức, Khổng Tử, triết học. 1. Mở đầu Từ xƣa đến nay đạo đức đƣợc xem là nguồn gốc của con ngƣời và nó có ý nghĩa quan trọng trong quá trình xây dựng nhân cách con ngƣời và tiến tới xã hội nhân đạo cộng sản. Đảng, Nhà nƣớc và Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh rằng muốn xây dựng con ngƣời cách mạng thì trƣớc tiên phải xây dựng đƣợc đạo đức cách mạng. Ngƣời nói: “Sông có nguồn thì mới có nƣớc, không có nguồn thì sông cạn, cây thì phải có gốc không có gốc thì cây héo. Ngƣời cách mạng phải có đạo đức, không có đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo đƣợc nhân dân”, ngay từ những buổi đầu, đạo đức đã đƣợc xem là nền tảng là cơ sở xây dựng một đất nƣớc, một xã hội an lành, hạnh phúc tiến bộ. Với những ý nghĩa to lớn của đạo đức đã nêu ở trên là động lực thôi thúc tôi tìm hiểu, phân tích về tƣ tƣởng đạo đức Khổng Tử, một tƣ tƣởng đƣợc xem là cái nôi cho những tƣ tƣởng đạo đức sau này, nó không chỉ ảnh hƣởng sâu sắc đến Trung quốc thời kì “Vƣơng đạo suy vi- Bá đạo lấn át vƣơng đạo”, mà còn có sự tác động to lớn đến tƣ tƣởng của nhiều quốc gia dân tộc, trong đó Việt Nam đƣợc xem là quốc gia kế thừa nhiều giá trị đạo đức Khổng Tử vào xây dựng con ngƣời và đất nƣớc, trong bài nghiên cứu này ngoài tìm hiểu tƣ tƣởng đạo đức Khổng Tử thì tôi còn chỉ ra sự tác động của đạo đức Khổng 2 Tử tới Việt Nam. Đó cũng chính là lý do tôi chọn đề tài “Tìm hiểu tƣ tƣởng đạo đức Khổng Tử”. Mục đích nghiên cứu nhằm tìm hiểu tƣ tƣởng Khổng Tử, đồng thời chỉ ra sự tác động của nó tới Việt Nam, từ đó bổ sung thêm nội dung và những kiến thức cần thiết để tiến tới xây dựng con ngƣời tài đức vẹn toàn. Khách thể nghiên cứu là các tác phẩm của Khổng Tử và một số tác phẩm về đạo đức khác... đối tƣợng nghiên cứu là những tƣ tƣởng quan niệm của Khổng Tử về đạo đức, phạm vi nghiên cứu chủ yếu là những tƣ tƣởng đạo đức Khổng Tử và một số quan niệm đạo đức khác. Phƣơng pháp nghiên cứu: nghiên cứu lý luận, phƣơng pháp lịch sử, phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp so sánh. 2. Nội dung chính 2.1. Khái quát về Khổng Tử Khổng Tử (551 – 479 TCN), tên thật là Khổng Khâu tự là Trọng Ni, sinh tại làng Xƣơng Bình, nƣớc Lỗ ( nay thuộc huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc) trong một gia đình quý tộc sa sút. Thân sinh của ông là Thúc Lƣơng Ngột, quan võ thuộc ấp Trâu, đến 70 tuổi lấy Nhan Thị sinh ra ông. Ông mồ côi cha khi lên 3 tuổi, năm 19 tuổi, ông lấy vợ là Nhan Thị con của họ Thƣơng Quan nƣớc Tống, năm 20 tuổi vợ ông sinh đặng một con trai tên Lý Tự. Khổng Tử là một nhà tƣ tƣởng, nhà triết học, nhà giáo dục, nhà chính trị nổi tiếng, tƣ tƣởng triết học của ông nhấn mạnh sự tu dƣỡng đức hạnh cá nhân và cai trị bằng đạo đức “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Sự chính xác của các mối quan hệ xã hội, đạo đức và quy phạm làm ngƣời trong “Đạo trung Dung” và các đức tính “Nhân – Lễ - Nghĩa – Trí – Tín”. Ông còn là ngƣời nhân hậu, khiêm nhƣờng giản dị, chân thành, giàu tình cảm, ôn hòa và nghiêm túc, uy nghi nhƣng không thô bạo, cung kính mà an nhàn. Sống thanh đạm trọng nghĩa khinh tài Ông nói: “Ăn cơm gạo thô, uống nƣớc lã, khi ngủ có cánh tay mà gối đầu, niềm vui ở trong đó rồi. Còn nhƣ dùng phƣơng pháp không chính đáng để đạt đƣợc giàu có và phú quý, ta coi nhƣ đám mây trôi qua vậy”. [9, tr.242] Nhìn vào sự nghiệp của Khổng Tử trên lĩnh vực học thuật và đạo lý, ngoài việc sang dịch các cuốn Kinh Thi – Thƣ – Lễ - Dịch – Nhạc và viết cuốn Biên Niên nƣớc Lỗ gọi là Kinh Xuân Thu, những câu nói của ông giảng dạy cho môn đệ đƣợc các môn đệ ghi lại thành 3 cuốn “Luận Ngữ”. Qua hơn 40 năm “Dạy ngƣời không mỏi” Khổng Tử thu nhận trên dƣới 3000 môn đệ. Trong đó, có 72 ngƣời đƣợc gọi là “Hiền”, bao gồm cả những ngƣời đƣợc gọi là “Triết”, hậu thế gọi là “Thất thập nhị hiền”. 2.2. Phạm trù “Nhân” “Nhân” là phạm trù cốt lỗi trong tƣ tƣởng đạo đức Khổng Tử. Theo ông “Nhân” là nội dung, “Lễ” là hình thức và chính danh là con đƣờng đạt đến điều nhân. Nhân của Khổng Tử có điểm khác biệt đối với các quan điểm về nhân của Phật giáo và Cơ Đốc giáo, nếu nhƣ Phật giáo xem “Nhân” là từ bi bát ái, Cơ Đốc xem “Nhân” là cần phải yêu kẻ thù nhƣ bạn, coi ngƣời nhƣ mình thì Khổng Tử gọi “Nhân” là hiếu ô “Duy nhân giả năng hiếu nhân năng ố nhân” [3, tr.250] nghĩa là chỉ duy nhất ngƣời có đƣợc nhân mới biết đƣợc yêu ngƣời ghét ngƣời, ở Khổng Tử nhân tuy có nghĩa cũng là Ái tuy nhiên khác so với đạo sĩ và tôn giáo ở tính thực hành trình tự tiến hóa. Nhân đƣợc xem là phẩm chất đạo đức hoàn hảo của con ngƣời, có đƣợc nhân con ngƣời sẽ có đƣợc sự hài hòa xã hội – bình đẳng xã hội. Theo Khổng Tử để có đƣợc nhân trƣớc tiên con ngƣời cần phải biết “Khắc kỷ phục lễ” nghĩa là cần phải biết khắc chế những dục vọng, ham muốn của bản thân, hơn thế nếu con ngƣời còn quy kỷ thì không những không tạo ra đƣợc nhân mà làm cho bản thân trở nên băng hoại đi. “Phục lễ” nghĩa là cần phải biết phục tùng trƣớc lễ nghi truyền thống, văn hóa... giữa nhân và lễ có mối quan hệ mật thiết với nhau có đƣợc nhân phải biết thi hành lễ nhƣng đằng khác biết thi hành lễ mà không có nhân thì lễ nhạt có ích gì. Ngoài ra Khổng Tử cho rằng có nhân cũng cần phải biết “Hiếu” và “Hiếu” đƣợc xem là gốc của nhân, ngƣời xem “Hiếu” là “vô vi – vô cải”. “Vô vi” là phụng sự cha mẹ không trái với lễ “Phận làm con khi cha mẹ còn sống phải phụng sự theo lễ, khi cha mẹ qua đời phải chôn cất theo lễ, khi thờ cúng phải làm theo lễ” (sanh sự chi dĩ lễ, tử táng chi dĩ lễ)[1, tr.37]. “Vô cải” là nối chí nối nghiệp cha “khi cha còn sống phải xem cái chí của cha, khi cha mất rồi phải xem việc làm của cha để 3 năm không đƣợc đổi hƣớng việc làm ấy....” (Phụ tại quan kỳ chí, phụ một quan kỳ hạnh, tam niên vô cải ƣ phụ chi đạo) [1, tr.20]. Chữ “Nhân”, trong tƣ tƣởng của Khổng Tử là lòng thƣơng ngƣời. Theo Ngƣời, thƣơng ngƣời đƣợc thể hiên ở “Trung và Thứ”. “Trung” là sự tận tâm, hết mình vì ngƣời khác sẵn sàng từ bỏ lợi ích cá nhân. “Thứ” là sự suy xét ở bản thân xem điều gì mình thật sự 4 muốn làm và tránh làm cho ngƣời khác những điều mình không ƣa thích (kỷ sở bất dục, vật thi ƣ nhân), ngoài ra khi muốn lập thân cũng phải giúp nguời khác lập thân, muốn thành đạt thì cũng phải biết giúp đỡ ngƣời khác có đƣợc sự thành đạt nhƣ mình (Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân). Hơn thế nhân không chỉ đƣợc thể hiên bên trong mà còn cả ở bên ngoài qua trang phục, tƣớng mạo, cách nói năng ứng xử của con ngƣời trong các mối quan hệ. Tuy nhiên do những hạn chế của lập trƣờng giai cấp, học thuyết “Nhân” của Khổng Tử có nội dung giai cấp rõ ràng. Ông cho rằng chỉ có ngƣời quân tử (giai cấp thống trị) mới có thể đƣợc đức Nhân còn kẻ tiểu nhân (nhân dân lao động) không thể có đƣợc đức Nhân (quân tử nhi bất Nhân giả hữu hĩ, vị hữu tiểu nhân thi Nhân giã dã). 2.3. Phạm trù “Lễ” Nếu nhƣ nhân đƣợc xem là gốc của tƣ tƣờng đạo đức Khổng Tử, nó là nội dung thì “Lễ” chính là hình thức biểu hiện cho nội dung đó. “Lễ” lúc đầu đƣợc hiểu là cái để thờ cúng thần, bắt đầu bằng ăn uống đồ xôi, mổ lợn, rót rƣợu vào chén mà bƣng lên... chỉ mang tính tôn giáo. Đến khi nhà Chu lên ngôi thì “Lễ” đƣợc chia làm 5 loại gồm: Cát Lễ, Hung Lễ, Quân Lễ, Tân Lễ và Gia Lễ. Đến sau này thì Khổng Tử nhận định rõ đƣợc sự hữu ích của “Lễ” thì ngƣời đã đi sâu khai thác triệt để Lễ ở gốc độ lý luận của nó. Khổng Tử là ngƣời đề cao vai trò của “Lễ”, nếu nhƣ Ngƣời cho nhân là gốc thì lễ sẽ là ngọn của việc xây dựng nhân cách cho con ngƣời. Sở dĩ nhƣ vậy là do: Thứ nhất, nhờ vào lễ mà ngƣời ta có thể xác định đƣợc vị trí vai trò của bản thân trong các quan hệ, góp phần tạo ra sự văn minh trong trật tự xã hội – gia đình. Nếu nhƣ không có Lễ thì không thờ thần theo đúng các thứ bậc, không có lễ thì không phân biệt đƣợc trên – dƣới, lớn - bé, vua tôi – cha con, trai – gái, anh – em trong xã hội. Thứ hai, “Lễ” quy định rõ ràng về cách ăn, mặc, ứng xử, hành động, hành vi trong cuộc sống của con ngƣời nên có tác động lớn đến tâm tƣ tình cảm của con ngƣời. Khổng Tử đã lý giải vấn đế này từ cách ăn mặc khi có tang, khi ra ở triều và ra trận nhƣ sau: “Ngƣời mặc áo sô gai chống gậy, chí không để đến dự vui, không phải là tay không nghe thấy, vì y phục khiến nhƣ thế, ngƣời mặc cái phủ, cái phất áo cồn mũ miện, dáng điệu uy nghi không phải là có tính trang nghiêm, vì y phục khiến nhƣ thế, ngƣời đội mũ, mặc áo giáp, cầm giáo dài, không nhút nhát không phải là thân thể mạnh bạo, vì y phục khiến nhƣ thế”.[1, tr.10] 5 Thứ ba: “Lễ” giúp con ngƣời có thể kiềm chế bản thân, thực hiện hoạt động của mình theo đúng chuẩn mực xã hội. Theo Khổng Tử: “Tính con ngƣời vốn thừa thì sẽ xa xỉ, thiếu thì hà tiện, không ngăn cấm thì dâm đãng, không có tiết độ thì sai lầm” [1, tr.13]. Vì thế có thể xem “Lễ” chính là phƣơng thức để ngăn chặn kịp thời sự tà đạo từ khi nó chƣa hình thành, giúp cho con ngƣời hƣớng đến điều thiện tránh xa cái ác, cái tội lỗi. Vì thế nên “Lễ” có vai trò rất lớn trong việc xây dựng đức “Nhân” cho con ngƣời. Bởi lẽ giữa “Nhân” và “Lễ” có mối quan hệ mật thiết với nhau, có nhân phải thi hành lễ, nếu có lễ mà không có nhân thì lễ nhạt có ích gì. 2.4. Phạm trù “Trí” “Trí” là sự hiểu biết nói chung để phân biệt, đánh giá con ngƣời và tình huống, qua đó xác định cho mình cách ứng xử cho đúng đƣờng đúng đạo. Chính vì thế nên có thể xem “Trí” là cách đƣa con ngƣời đạt đƣợc đức Nhân, nếu thiếu Trí khó có thể đạt đƣợc, nhƣng nếu đủ trí để hiểu đạo thánh hiền nhƣng không có nhân để gìn giữ thì dù có đạt đƣợc đạo ấy, rồi nó cũng mất đi (Tri cập nhi, nhân bất năng thủ chi, tuy đắc chi, tất thất chi) [1, tr.578]. Nguồn gốc của Trí theo Khổng Tử một mặt tin vào mệnh trời, ông cho rằng có trí bẩm sinh. Trí của con ngƣời có đƣợc từ trƣớc do ơn trên ban cho hay do bẩm sinh trong mỗi ngƣời mà họ có trí, mặt khác Khổng Tử cho rằng Trí cũng là kết quả của quá trình học tập. Bởi lẻ theo ngƣời thông qua học tập con ngƣời sẽ có đƣợc những hiểu biết về các chuẩn mực đạo lý, cung cách ứng xử trong các mối quan hệ, có đƣợc năng lực cho hành động để có thể đạt đến đức Nhân, quan niệm này về sau đƣợc Tuân Tử và Mạnh Tử kế thừa. Khổng Tử không chỉ đề cập đến việc học đối với Trí mà còn ở nhiều phƣơng diện khác của con ngƣời, Ông viết: “Ƣa làm điều nhân mà không ƣa học thì mối hại che lấp là sự ngu muội, ƣa làm điều trí mà không ƣa học thì mối hại che lấp là sự phóng đảng, ƣa làm điều tín mà không ƣa học thì mối hại che lấp sự thiệt thòi. Ƣa làm điều dũng mà không ƣa học thì mối hại che lấp là sự phản loạn. Ƣa cƣơng cƣờng mà không ƣa học thì mối hại che lấp là sự cuồng bạo” [1, tr.63]. Có Nhân, có Nghĩa mà không có Trí thì cũng chẳng khác nào một ngƣời lính ra trận chỉ có áo giáp mà không có gƣơm, đao, chỉ bảo vệ đƣợc mình mà không bảo vệ đƣợc ngƣời khác. Sống ở đời nếu chỉ sống cho 6 riêng ta thì đơn giản quá, mà muốn giúp đỡ đƣợc ngƣời khác tất mình phải có tài, có hiểu biết. 2.5. Phạm trù “Nghĩa” “Nghĩa” là phạm trù đƣợc sử dụng nhiều từ thời Khổng Tử về sau, theo Khổng Tử “Nghĩa” là những thứ gì hợp đạo lý chuẩn mực xã hội mà con ngƣời cần phải thực hiện, không bận tâm đến việc ấy có đem lại lợi ích cho ngƣời thực hiện hay không. Khổng Tử nói: “Bậc quân tử làm việc cho đời, không có việc gì ngƣời cố ý bỏ, hễ hợp nghĩa thì làm” [1, tr.107] là ngƣời quân tử khi làm việc thì chủ yếu là giúp đời chứ không có việc gì mà ngƣời vì mình mới làm và cũng không tự ý bỏ mà theo đúng đạo nghĩa thì thực hiện. Không chỉ Khổng Tử mà Mạnh Tử cũng sử dụng sự đối lập giữa nghĩa và lợi trong lời dạy của mình, trong một lần ra mắt Lƣơng Huệ Vƣơng, Huệ Vƣơng hỏi: “Mạnh Tiên từ nơi xa đến đây có cách gì đem lợi ích cho đất nƣớc ta”, Mạnh Tử đáp: “Vua cần gì nghĩ đến điều lợi hãy nghĩ đến việc nhân - nghĩa mà thôi, kế đến hàng đại phu nói có cách gì làm lợi cho gia tộc tanếu từ trên tới dƣới đều mong có đƣợc điều lợi thì kẻ này cƣớp đoạt kẻ kia mà không ai nghĩ đến nhân - nghĩa. Trái lại không có ngƣời nào coi trọng nhân mà bỏ bê cha mẹ. Chƣa có kẻ nào coi trọng nghĩa mà xem việc nƣớc thấp hơn lợi ích của bản thân mình” [4, tr.1]. Nhƣ vậy “Nghĩa” là một yếu tố góp phần tạo nên nhân cho con ngƣời, nhân và nghĩa là hai phạm trù có mối quan hệ mặt thiết và bổ trợ cho nhau, có nhân thì phải có nghĩa và có nghĩa nhất định phải đạt đƣợc nhân. 2.6. Ảnh hưởng đạo đức Khổng Tử tới Việt Nam 2.6.1. Tích cực Những tƣ tƣởng đạo đức “Nhân-Lễ-Trí-Nghĩa” của Khổng Tử có mối quan hệ mặt thiết tác động và phụ thuộc vào nhau nó góp phần hình thành nên một con ngƣời toàn diện, hình thành nên phƣơng hƣớng đều hành đất nƣớc. Mà ngay từ buổi đầu đã đƣợc các triều đại phong kiến của ta vận dụng nhƣ Trần Hƣng Đạo, , Nguyễn Trãi, Nguyễn Trƣờng Tộ.Tuy nhiên ở bài nghiên cứu này tôi tập trung làm rõ sự vận dụng tƣ tƣởng đức trị của Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Sự tác động của tƣ tƣởng đạo đức Khổng Tử đến Hồ Chí Minh đã đƣợc khúc xạ qua nhãn quan macxit của Ngƣời, Ngƣời đã vận dụng sáng tạo những tƣ tƣởng ấy, góp phần làm cho nền văn 7 hóa phƣơng Đông bƣớc lên một tầm cao mới. Với sự giác ngộ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin đƣợc xem là căn cứ lý luận để Hồ Chí Minh nhìn nhận và kế thừa từ Nho giáo. Cũng chính từ lập trƣờng này mà Ngƣời đã đƣa ra mối liên hệ, tính quy định của kinh tế - xã hội đối với học thuyết Khổng Tử, đánh giá vai trò và ý nghĩa của nó đối với thời đại ngày nay. Ngƣời viết: “Cách đây 20 thế kỷ, chƣa có chủ nghĩa tƣ bản và chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc chƣa bị áp bức nhƣ chúng ta ngày nay, cho nên bộ óc của Khổng Tử không bao giờ bị khuấy động vì các học thuyết cách mạng. Đạo đức của Ông là hoàn hảo, nhƣng nó không thể dung hợp đƣợc với các trào lƣu tƣ tƣởng hiên đại, giống nhƣ cái nắp tròn làm thế nào có thể đậy kín cái hộp vuông” [5, tr.453]. Nhƣ vậy Hồ Chí Minh đã kế thừa những gì từ tƣ tƣởng Khổng giáo. Nếu nhƣ đạo đức Khổng Tử đề cao “Nhân” tức là con ngƣời trong việc xây dựng một xã hội tốt đẹp trong đó có hạnh phúc cho mọi ngƣời. Cũng nhƣ quan niệm trên Hồ Chí Minh rất đề cao vai trò con ngƣời. Ngƣời viết: “Vô luận việc gì điều do ngƣời làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả” [6, tr.453]. Tuy nhiên điểm khác với tƣ tƣởng Nho gia chính là việc họ đề cao vai trò ngƣời quân tử, ngƣời cầm quyền, ngƣời giáo hóa dân chúng thì Hồ Chí Minh lại khẳng định đề cao vai trò của quần chúng trong cách mạng. Vì thế ở Hồ Chí Minh đều cốt yếu là ở chổ tổ chức quần chúng lại giáo dục họ, đƣa họ ra tranh đấu để tự giải phóng và xây dựng đời sống mới, đó là sự tƣơng đồng, nhƣng đồng thời là sự khác biệt sự vƣợt qua Khổng giáo ở Hồ Chí Minh trong việc nhìn nhận vai trò của con ngƣời, chủ thể lịch sử. Từ đó mà trong tác phẩm “Đƣờng kách mệnh” ngƣời đã đƣa ra đạo đức của ngƣời cách mạng trên cơ sở tiếp thu nhiều điều từ Khổng giáo. Ý chí và tâm huyết của ngƣời quân tử, ngƣời đạt đạo, đạo đức, khí phách bật trƣợng phu, sự kiên định, “Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không chuyển lay uy vũ không thuất phục” Ngƣời đã giải thích chữ Nhân của Khổng Tử với cách mới nhƣ sau “Nhân là thật thà yêu thƣơng, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào, vì thế mà kiên quyết chống lại những ngƣời, những việc có hại cho Đảng và nhân dân. Vì thế mà sẵn lòng chịu cực khổ trƣớc mọi ngƣời, hƣởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ uy quyền”. Nho gia chủ trƣơng thân dân, trọng dân nhƣng trên thực tế không đƣợc bình đẳng với bọn quí tộc “Hình bất thƣợng lễ phu, lễ bất 8 hạ thứ dân”, hình phạt chỉ dùng cho dân, còn quan lại, quý tộc thì đƣợc xử theo lễ. Trái lại đối với Hồ Chí Minh ngƣời cán bộ Đảng viên phải là ngƣời chấp hành pháp luật của Nhà nƣớc, bởi lẻ Hồ Chí Minh cho rằng cán bộ đƣợc xem nhƣ là gốc của cách mạng “Muốn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ mà ra”. Pháp luật ở Hồ Chí Minh là sự dân chủ chứ không nhƣ Khổng giáo, đều đó đƣợc thể hiện ngay từ phiên họp đầu tiên của chính phủ nƣớc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (03-09-1945), ngƣời khẳng định: “Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu” [7, tr.133]. Cũng nhƣ Khổng giáo, Hồ Chí Minh chăm lo xây dựng đạo đức nhƣng là đạo đức cách mạng, chăm lo giáo dục đạo đức để xây dựng con ngƣời mới, con ngƣời XHCN. Và Ngƣời đặt biệt nhấn mạnh vai trò của nêu gƣơng và việc này trƣớc tiên đƣợc thực hiện ở cán bộ, đảng viên, bởi “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy”, ngƣời cán bộ cần phải học tập tu dƣỡng rèn luyện đạo đức của bản thân, phải gƣơng mẫu, cần, kiệm, liêm, chính để dân noi theo”. Nhƣ vậy ta có thể thấy tƣ tƣởng đạo đức Khổng Tử có ảnh hƣởng to lớn đến tƣ tƣởng đạo đức Hồ Chí Minh trên con đƣờng xây dựng đạo đức cách mạng, xây dựng con ngƣời XHCN. 2.6.2. Tiêu cực Bên cạnh những điểm hợp lý đã đƣợc Hồ Chí Minh kế thừa và vận dụng vào cách mạng Việt Nam thì nó cũng có những hạn chế nhất định: Trƣớc hết Ngƣời phê phán bản tính thiên phú của con ngƣời, điểm khởi đầu của tƣ tƣởng đức trị là duy tâm. Bởi lẻ theo Khổng Tử cho rằng những đặc điểm đạo đức của con ngƣời có nguồn gốc bẩm sinh do thiên mệnh quyết định. Do quá coi trọng đức nên trong xử lý công việc và các mối quan hệ xã hội, dẫn đến buông lỏng kỷ cƣơng, phép nƣớc. Tiếp thu truyền thống trọng đức nhấn mạnh “thân thân” nên ngƣời có chức quyền lôi kéo, dẫn gia đình thân thuộc vào làm kết bè kết phái. Ngoài ra do hiểu sai về đức nhân – nghĩa với nội dung đền ơn trả nghĩa mà xảy ra sự ban ơn, hối lộ, cửa quyền, móc ngoặc... trong một số cán bộ hiện nay. Coi trọng lễ về cách giáo dục con ngƣời một cách cứng nhắc, bảo thủ là cơ sở cho tƣ tƣởng bè phái, cục bộ, đề cao địa vị, trọng nam khinh nữ từ coi trọng lễ, coi trọng quan hệ gia đình đến quan hệ “chú cháu”, “anh em” nên trong quá trình thực hiện “Phê bình và tự 9 phê bình” không triệt để. Ngoài ra sự giáo dục và tu dƣỡng đạo đức Khổng giáo mang tính cứng nhắc tạo nên những con ngƣời sống theo khuôn mẫu, hành động thụ động làn cản trở quá trình xây dựng đạo đức mới. 3. Kết luận Khổng Tử, là nhà tƣ tƣởng Trung Quốc cổ đại có vai trò to lớn trong lịch sử giáo dục thế giới. Ông đã để lại cho nhân loại những tƣ tƣởng quý giá mà ở từng thời kỳ lịch sử khác nhau, khi vai trò nhân tố con ngƣời đƣợc đề cao thì lại càng phát hiện ở đó chứa đựng những yếu tố tích cực, tiến bộ trong giáo dục và đào tạo con ngƣời. Dƣới ánh sáng chủ nghĩa Mác-Lênin, triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, chúng ta nghiên cứu tƣ tƣởng tƣ tƣởng triết học về đạo đức Khổng Tử để thấy rõ những hạn chế và tích cực của nó đối với giáo dục con ngƣời Việt Nam. Con ngƣời mới mà chúng ta cần xây dựng đó là con ngƣời có những phẩm chất tốt đẹp truyền thống, đồng thời có khả năng nắm bắt và vân dụng những tri thức hiện đại. Do đó nếu ta vận dụng tốt những tƣ tƣởng chính trị đạo đức Khổng Tử một cách linh hoạt thì sẽ có đƣợc những lớp ngƣời vừa có nhân đức, vừa có dũng tài. Công việc này phải đƣợc tiến hành thƣờng xuyên, kiên trì, lâu dài, khi đó góp phần vào việc làm nên những con ngƣời vừa đảm bảo tính truyền thống vừa có phẩm chất năng lực làm chủ xã hội sẽ góp phần tích cực vào sự nghiệp đổi mới của nƣớc nhà, làm cho dân giàu nƣớc mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Tài liệu tham khảo [1]. Chu Hy: Luận Ngữ, Nxb. Văn học,1992. [2]. Doãn Chính: Đại Cương lịch sử Triết học phương Đông, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1994. [3]. Lịch sử Triết học phương Đông, T.1, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. [4]. Mạnh Tử, chƣơng Lƣơng Huệ Vƣơng Thƣợng. [5]. Hồ Chí Minh, Toàn Tập, T.2. [6]. Hồ Chí Minh, Toàn Tập, T.5. [7]. Hồ Chí Minh, Toàn Tập, T.4. [8]. Hà Thúc Minh, Lịch sử Triết học Trung Quốc, Nxb. Tp Hồ Chí Minh, 1996. [9]. Tứ Thư, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftim_hieu_tu_tuong_dao_duc_khong_tu.pdf