55 năm trước, sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ về Lào được ký kết (năm 1962), Việt Nam và Lào đã nhất trí thiết lập quan hệ ngoại giao, mở ra một chương mới trong sự nghiệp củng cố và phát triển hơn nữa mối quan hệ giữa hai nước.
Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và giành độc lập của mỗi nước, sự gắn bó khăng khít, sự hỗ trợ, giúp đỡ vô tư, chí tình, chí nghĩa giữa hai nước, hai dân tộc Việt Nam và Lào, đã trở thành sức mạnh vô song và là nhân tố quan trọng góp phần đưa cách mạng hai nước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, tiến tới thắng lợi hoàn toàn vào năm 1975.
Bước vào thời kỳ mới - thời kỳ hòa bình, xây dựng đất nước, nhận thức sâu sắc về ý nghĩa và mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, ngày 18 tháng 7 năm 1977, hai nước đã ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác, khẳng định tình đoàn kết đặc biệt trước sau như một, hợp tác, ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước.
10 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 547 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam năm 2017 - Nguyễn Thị Minh Tin, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI DỰ THI
TÌM HIỂU LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT
VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM NĂM 2017
Người tham gia:
Họ và tên: Nguyễn Thị Minh Tin
Ngày sinh: 23/8/1987
Giới tính: Nữ
Nghề nghiệp: Công an
Dân tộc: Kinh
Tôn giáo: không
Đơn vị: Chi đoàn Công an, Đoàn phường Phước Long, Nha Trang, Khánh Hoà
Nơi thường trú:
Số điện thoại: 0995.378.968
NỘI DUNG BÀI DỰ THI
Trong khuôn khổ bài viết tham gia cuộc thi “Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam năm 2017”, tôi xin trình bày về những biểu hiện sinh động của mối quan hệ đoàn kết, gắn bó thuỷ chung, son sắt của hai dân tộc Việt Nam - Lào dưới sự lãnh đạo của hai Đảng, hai Nhà nước từ khi thiết lập mối quan hệ hợp tác và hữu nghị năm 1962, 1977 đến nay.
Trước hết, xin giới thiệu một chút về nước Lào anh em. Lào là quốc gia Đông Nam Á trong bán đảo Đông Dương có chung đường biên giới dài 2069 km trải dài suốt 10 tỉnh của Việt Nam tiếp giáp với 10 tỉnh phía Lào. Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào có nhiều cơ sở thực tiễn quan trọng.
Lịch sử đã khẳng định quan hệ Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam là quan hệ đặc biệt, là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về sự gắn kết bền chặt, thuỷ chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc đấu tranh vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội. Khi cả khối Xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, hai Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào vẫn vững vàng. Chính thể do Đảng lãnh đạo vẫn vững bước, hai đất nước, hai dân tộc cùng sánh vai xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, phát triển kinh tế theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, đập tan mọi âm mưu gây chia rẽ, phá hoại mối quan hệ đoàn kết của các thế lực thù địch phản động.
Tình hữu nghị, đoàn kết giữa hai Đảng, hai nước Việt-Lào và sự gắn bó thủy chung, keo sơn giữa dân tộc Việt Nam và nhân dân các bộ tộc Lào được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cay-xỏn Phom-vi-hản trực tiếp gây dựng, được các thế hệ lãnh đạo kế tục của hai Đảng, hai nước, cùng nhân dân hai nước quý trọng, nâng niu và dày công vun đắp. Trải qua nhiều giai đoạn và biến cố của lịch sử, mối quan hệ Việt-Lào được tôi luyện và hun đúc bằng công sức và xương máu của biết bao anh hùng liệt sỹ, bằng sự hy sinh phấn đấu của nhiều thế hệ người Việt Nam và Lào và đã thực sự trở thành mối quan hệ truyền thống, rất đặc biệt, rất thủy chung và trong sáng. Chủ tịch Cay-xỏn Phom-vi-hản đã từng nói: “Trong lịch sử cách mạng thế giới đã có nhiều tấm gương sáng chói về tinh thần quốc tế vô sản, nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ có sự đoàn kết liên minh chiến đấu đặc biệt lâu dài và toàn diện như vậy”.
Ảnh tư liệu: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp Chủ tịch Quốc hội Lào Pany Yathotou. Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam
Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, dù tình hình thế giới có rất nhiều thay đổi, song dưới sự lãnh đạo của hai đảng, nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào vẫn chung lòng chung sức, kề vai sát cánh trong công cuộc đấu tranh giải phóng và thống nhất đất nước cũng như trong sự nghiệp xây dựng và phát triển của mỗi nước.
Là hai nước láng giềng núi sông liền một dải, quan hệ gắn kết anh em giữa hai dân tộc đã được hình thành và củng cố cùng bề dày lịch sử dựng nước và giữ nước. Đặc biệt, trong nhiều thập kỷ qua, mối quan hệ truyền thống tốt đẹp, sự gắn bó thủy chung giữa nhân dân hai nước đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Kaysone Phomvihane và Chủ tịch Suphanuvong đặt nền móng, được các thế hệ lãnh đạo của hai đảng, hai nhà nước, nhân dân hai nước dày công vun đắp, được tôi luyện qua nhiều thử thách và được hun đúc bằng công sức và xương máu của bao thế hệ các anh hùng liệt sĩ, để trở thành tài sản vô giá của hai dân tộc.
55 năm trước, sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ về Lào được ký kết (năm 1962), Việt Nam và Lào đã nhất trí thiết lập quan hệ ngoại giao, mở ra một chương mới trong sự nghiệp củng cố và phát triển hơn nữa mối quan hệ giữa hai nước.
Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và giành độc lập của mỗi nước, sự gắn bó khăng khít, sự hỗ trợ, giúp đỡ vô tư, chí tình, chí nghĩa giữa hai nước, hai dân tộc Việt Nam và Lào, đã trở thành sức mạnh vô song và là nhân tố quan trọng góp phần đưa cách mạng hai nước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, tiến tới thắng lợi hoàn toàn vào năm 1975.
Bước vào thời kỳ mới - thời kỳ hòa bình, xây dựng đất nước, nhận thức sâu sắc về ý nghĩa và mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, ngày 18 tháng 7 năm 1977, hai nước đã ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác, khẳng định tình đoàn kết đặc biệt trước sau như một, hợp tác, ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước.
Đây là văn kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu bước phát triển mới, toàn diện của mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào, là cơ sở pháp lý vững chắc cho việc tăng cường và mở rộng mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước trong thời kỳ mới; tạo cơ sở để hai nước thúc đẩy ký kết hàng loạt các thỏa thuận hợp tác sau này.
Sau khi ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác, quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam -Lào không ngừng được củng cố, đổi mới và phát triển sâu rộng. Nội dung hợp tác thêm thực chất, hiệu quả hợp tác liên tục được nâng cao và tăng cường trên tất cả các lĩnh vực. Quan hệ chính trị được thúc đẩy mạnh mẽ, ngày càng gắn bó tin cậy, hai bên đã phối hợp tổ chức tốt các chuyến thăm, các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc giữa lãnh đạo cấp cao hai đảng, hai nước.
Hợp tác quốc phòng - an ninh giữa Việt Nam và Lào tiếp tục được củng cố chặt chẽ. Hai nước đã ký 2 văn kiện pháp lý quan trọng là “Nghị định thư về đường biên giới và mốc quốc giới” và “Hiệp định về quy chế quản lý biên giới và cửa khẩu biên giới trên đất liền giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Lào”. Việc hoàn thành hệ thống mốc quốc giới đã góp phần hoàn thành chất lượng đường biên giới Việt Nam-Lào cả về pháp lý và thực tiễn.
Về hợp tác kinh tế, trong thời gian qua, với tinh thần đưa quan hệ hợp tác kinh tế hai nước đi vào thực chất hơn nữa, trong chuyến thăm chính thức của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tới Lào vào tháng 4 và tại Kỳ họp lần thứ 39 Ủy ban liên chính phủ, hai nước đã ký kết nhiều văn kiện hợp tác quan trọng, như Thỏa thuận về hợp tác đầu tư quản lý và khai thác cảng Vũng Áng (cầu cảng 1,2,3); Thỏa thuận thành lập công ty liên doanh đầu tư dự án xây dựng đường dây tải điện 500 Kv Lào-Việt Nam; Thỏa thuận về đầu tư xây dựng tuyến đường sắt Vientiane-Tha Khaek-Mụ Giạ-Tân Ấp-Vũng Áng...
Chương tình thắp nến tri ân 'Khúc tráng ca Việt-Lào. Ảnh: TTXVN
Hai bên cũng nhất trí cùng phối hợp triển khai có hiệu quả Hiệp định thương mại giữa hai chính phủ ký ngày 3 tháng 3 năm 2015 và Hiệp định thương mại biên giới giữa hai chính phủ ký ngày 27 tháng 6 năm 2015; ưu tiên việc kết nối hai nền kinh tế, nhất là kết nối về thể chế, hạ tầng giao thông, năng lượng và du lịch...
Các thỏa thuận hợp tác này cùng với thỏa thuận dự án cao tốc Viêng-chăn - Hà Nội có ý nghĩa hết sức quan trọng, mang lại lợi ích chính trị, kinh tế, xã hội, phát huy tối đa lợi thế về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của hai nước, đặc biệt là tiềm năng về vị trí trung tâm trên đất liền của Lào và tiềm năng biển của Việt Nam.
Trao đổi thương mại giữ một vị trí quan trọng trong quan hệ song phương và có xu thế tăng liên tục trong nhiều năm gần đây, từ 422 triệu USD năm 2008 lên 1,12 tỷ USD năm 2015. Năm ngoái, kim ngạch thương mại hai nước đạt 801 triệu USD, trong đó nhập khẩu của Việt Nam từ Lào đạt 342 triệu USD và xuất khẩu từ Việt Nam sang Lào đạt 459 triệu USD.
Hai nước đang phấn đấu nâng chỉ số này tăng thêm 10% trong năm nay. Trong lĩnh vực đầu tư, tính tới thời điểm hiện tại, Việt Nam là nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ 3 tại Lào với tổng vốn đăng ký đầu tư khoảng 3,7 tỷ USD trên 408 dự án được cấp phép.
Nhiều dự án đầu tư có hiệu quả, sản xuất kinh doanh có lãi, đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển của hai nước, tạo nhiều công ăn việc làm, giúp nâng cao đời sống của người dân Lào và được phía Lào đánh giá cao.
Hợp tác giáo dục-đào tạo và phát triển nguồn nhân lực luôn là lĩnh vực ưu tiên trong quan hệ hợp tác Việt-Lào. Hai nước đã xây dựng và triển khai “Đề án nâng cao chất lượng và hiệu quả hợp tác Việt Nam-Lào trong lĩnh vực giáo dục và phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2011-2020”, coi đây là cơ sở để phát triển nguồn nhân lực hai nước, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc phát triển kinh tế, xã hội của mỗi nước.
Trong năm học 2015 - 2016, Việt Nam tiếp tục dành cho Lào 1.000 suất học bổng và Lào dành cho Việt Nam 60 suất học bổng. Hiện nay có hơn 14.000 cán bộ, sinh viên Lào học tập tại Việt Nam, trong khi Việt Nam cũng có gần 300 cán bộ, sinh viên đang theo học tại Lào...
Đánh giá về hợp tác giữa Việt Nam - Lào trong 55 năm qua, Thủ tướng Lào Thongloun Sisoulith cho biết, ông rất hài lòng với sự hợp tác giữa hai nước ở cả lĩnh vực hợp tác song phương cũng như trên trường quốc tế, đồng thời bày tỏ tin tưởng trong tương lai, hai nước Lào và Việt Nam anh em sẽ tiếp tục cùng tiến lên phía trước, không để bất cứ điều gì có thể cản trở, phá hỏng mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai nước.
Nguyên Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Choummaly Sayasone nhấn mạnh: “Tôi cho rằng tình đoàn kết thủy chung son sắc giữa hai nước là yếu tố quyết định sự thành công của hai nước Lào và Việt Nam, trong hoàn cảnh nào, hai nước Lào-Việt Nam chúng ta cũng luôn phải sát cánh bên nhau, bởi vận mệnh của hai nước là không thể tách rời”.
Trong chuyến thăm hữu nghị chính thức Lào vào cuối tháng 11 năm 2016 vừa qua, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và các nhà lãnh đạo Lào cũng thống nhất nhận thức và khẳng định, mối quan hệ đoàn kết gắn bó đặc biệt Việt Nam-Lào là tài sản vô giá, là quy luật sống còn, là nhân tố không thể thiếu đối với thắng lợi của hai đảng và nhân dân hai nước trong cuộc đấu tranh giành, giữ và bảo vệ nền độc lập, tự do trước đây cũng như công cuộc xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Trong bối cảnh thế giới đang diễn biến phức tạp, mỗi nước cũng đang trong giai đoạn quan trọng của sự phát triển, dù ở hoàn cảnh cảnh nào, hai đảng, hai nước và nhân dân hai nước cũng trước sau như một, quyết tâm gìn giữ mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững, đưa quan hệ ngày càng đi vào chiều sâu, chất lượng, hiệu quả.
Nhìn lại chặng đường lịch sử hào hùng 55 năm qua, đặc biệt qua 40 năm thực hiện Hiệp ước hữu nghị và hợp tác, nhân dân Việt Nam và Lào có thể hoàn toàn tự hào về mối quan hệ thủy chung trong sáng, đoàn kết đặc biệt và hiếm có giữa hai dân tộc anh em.
Với những gì đã có trong quá khứ cùng với sự quyết tâm và nỗ lực của lãnh đạo và người dân hai nước, quan hệ hữu nghị truyền thống, tình đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện giữa hai đảng, hai nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam-Lào chắc chắn sẽ có những bước phát triển mới, năng động, hiệu quả, thiết thực, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai nước là xây dựng thành công nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và xây dựng thành công nước Lào hòa bình, độc lập, dân chủ, thống nhất và phồn vinh, đóng góp tích cực vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Là nước láng giềng anh em gần gũi, nhân dân Việt Nam luôn tự hào có nhân dân Lào là người bạn thủy chung, son sắt, trong sáng trong suốt thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước ngày nay. Mỗi người dân Việt Nam đều vui mừng chứng kiến các thành tựu, những đổi thay nhanh chóng đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ trên đất nước Triệu Voi tươi đẹp và chân thành mong muốn nhân dân các bộ tộc Lào anh em, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào sẽ xây dựng thành công một nước Lào phồn vinh và vững mạnh, có quan hệ đối ngoại rộng mở, có vai trò và vị thế không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế.
Kỷ niệm 55 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao và 40 năm ngày ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt – Lào, chúng ta cùng khẳng định quyết tâm phấn đấu, kế thừa và vun đắp tình đoàn kết đặc biệt, quan hệ hữu nghị thủy chung gắn bó và sự hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt – Lào mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở mỗi nước, cũng như vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Sau đây sẽ là câu chuyện dung dị nhưng đầy ý nghĩa, xúc động của người lính năm xưa tình nguyện trên nước bạn Lào để minh họa về mối tình hữu nghị đặc biệt được vun đắp bằng công sức, xương máu của nhiều thế hệ.
Từ thị trấn Khánh Yên (huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai) xuôi về xã Khánh Yên Hạ, chúng tôi ngược dốc đến Bản Sung, nơi có câu chuyện tình đẹp của người chiến sĩ tình nguyện Việt Nam với cô gái xứ sở Triệu Voi. Ông Vũ Viết Giàng cầm chiếc điếu cày, vân vê mẩu thuốc, rít một hơi thật dài. Thật khó hình dung được, lão nông đã bước qua cái tuổi 70 đang ngồi đối diện với tôi từng là một chiến sĩ vào sinh ra tử trên khắp chiến trường Nam Lào. Nghe chúng tôi hỏi lại chuyện ông phải bán một con trâu to mới đủ tiền về thăm quê ngoại, ông cười lớn, giọng tếu táo: “Thì lâu lâu mới đi một lần mà chú!”. Đó cũng là lần đầu tiên ông trở lại Lào sau ngày giải phóng, về thăm quê ngoại, thăm lại chiến trường xưa đầy ắp kỷ niệm.
Trong căn nhà sàn nhỏ, ông dành một góc riêng để lưu giữ những kỷ vật từ thời chiến, nhìn những tấm huân chương, huy hiệu đủ loại trong tủ, tôi biết ở ông có cả một bảng thành tích dày về những năm tháng chiến đấu ở chiến trường Lào. Tháng 5 năm 1965, Vũ Viết Giàng trở thành người lính trong Binh đoàn Trường Sơn. 13 năm sống và chiến đấu ở Lào, ông cũng chẳng nhớ được hết những trận đánh mà mình tham gia, từ thành cổ Quảng Trị, Đà Nẵng, ngã ba Kon Tum đến Atôpư, Xaravan chiến trường Nam Lào ông đều đặt chân đến cả.
Năm 1968, ông nhận nhiệm vụ cố vấn quân sự, xây dựng cơ sở, hỗ trợ bộ đội Pa Thét Lào về chiến thuật và tổ chức trận đánh ở tỉnh Khăm Muộn. Nhiệm vụ chính của ông lúc này là xây dựng cơ sở, “ba cùng” với nhân dân Lào, hướng dẫn cho người dân phát triển sản xuất, xây dựng tình cảm gắn bó giữa quân tình nguyện Việt Nam với quân và dân Lào. Cũng từ đây đã mở đầu cho câu chuyện tình đẹp “như trong phim” của người chiến sĩ Việt Nam với cô thiếu nữ Lào. Cô gái Hoàng Thị Bông, con gái của Phó bí thư Tỉnh ủy Khăm Muộn sau nhiều lần theo cha đến nơi đóng quân của bộ đội Pha-thét đã cảm mến chàng trai Vũ Viết Giàng từ lúc nào không hay. Ông kể: “Thỉnh thoảng bà ấy gói phong lương khô, điều thuốc nhét vào túi áo, lúc đầu cũng không để ý lắm, dần dần mến nhau rồi thì lúc nào cũng muốn gặp mặt. Cùng sống, chiến đấu với bộ đội và nhân dân Lào, cùng sống chết với họ, lúc ấy đâu có nghĩ đang là công dân của hai nước”. Một năm sau, với sự cho phép của chính phủ hai nước, đám cưới giản dị được tổ chức theo đúng kiểu đám cưới thời chiến. Ba người con được sinh ra ở Khăm Muộn mang hai dòng máu Việt – Lào như một cái kết có hậu cho mối tình đẹp này.
Năm 1975, đất nước thống nhất, ông được phép đưa vợ con từ Lào về quê hương Văn Bàn. Hàng chục năm qua, trong căn nhà nhỏ của ông luôn tràn ngập tiếng cười, các con đều đã trưởng thành, mối tình của ông bà như thêm vào một trang nữa trong những câu chuyện đẹp về tình hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào.
Chúng tôi may mắn khi gặp cựu chiến binh La Văn Son, thị trấn Khánh Yên khi ông đang trò chuyện với những người đồng đội cũ: Ông Hà Kim Dinh, Nông Hương Bài và Vi Quang Lành, họ là những thành viên trong hội đồng ngũ Sư đoàn 316. Những hồi ức của hơn 40 năm trước cứ ào ạt tuôn ra trong câu chuyện của những người lính năm xưa, với họ vẫn như mới xảy ra hôm qua. Tháng 3 năm 1972, họ cùng khoác ba lô lên đường làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Có một ngày họ sẽ mãi mãi không bao giờ quên, đó là ngày 26 tháng 8 năm 1972, ngày chính thức đặt chân sang đất bạn Lào.
Nhắc nhớ lại một thời sống, chiến đấu tại chiến trường nước bạn, người lính già hào hứng với kỷ niệm không thể nào quên. Khi ấy ông Hà Kim Dinh là chiến sĩ B40 của đơn vị, trên vai súng đạn nặng trĩu, ngang lưng còn đeo một ruột tượng gạo to vậy mà vẫn đi băng băng trong rừng. Có những trận đánh ác liệt, sau khi bắn B40 ông bị sức ép đến ù tai, choáng váng đầu óc, phải nhịn cơm cả ngày. Kể về những trận đánh đã qua, ông Dinh luôn tự hào khi mình được chiến đấu trong đội hình Đại đội 9 anh hùng (Đoàn Sơn Ca), đơn vị của ông từng là nỗi khiếp sợ của địch bởi đã đánh là thắng.
Ngồi xem lại thước phim tư liệu về Sư đoàn 316 trong thời gian giúp đỡ nước bạn Lào, cựu chiến binh La Văn Son và Vi Quang Lành không khỏi bồi hồi, năm xưa họ cùng chiến đấu trong trung đoàn 174 (Đoàn Bông Lau), ông Son nhớ lại trận đánh đầu tiên mình được tham gia: Trận ấy đơn vị giao cho ông khẩu trung liên để bắn yểm trợ cho đồng đội xung phong đánh chiếm cao điểm chết. Với lực lượng chênh lệch chỉ sau thời gian ngắn, quân ta đã chiếm được điểm cao này. Không chịu thua, địch cho máy bay đến ném bom trả đũa. Chỉ nghe uỵch một tiếng rồi không biết gì nữa. Khi tỉnh lại thấy tức ngực vì bị đất vùi, không thể cử động được, may sao lúc ấy có đồng đội đến tìm, tôi lấy hết sức đưa cây súng lên mặt đất làm dấu hiệu và được kéo lên. “Lúc ấy tôi đã nghĩ có lẽ mình sẽ bị chôn sống ở nơi này rồi” - ông Son kể lại.
Tết Nhâm Tý, năm 1972, cái Tết đầu tiên xa nhà của người lính trẻ Nông Hương Bài. Đó là những giờ phút hiếm hoi, chiến trường lặng tiếng súng, những người lính chia nhau từng điếu thuốc lá, từng mẩu lương khô. Cựu chiến binh Nông Hương Bài mở đầu câu chuyện với chúng tôi bằng kỷ niệm về cái Tết đầu tiên ở cánh rừng Xiêng Khoảng, với ông hồi ức về những năm tháng sống và chiến đấu ở nước bạn Lào luôn là những kỷ niệm đẹp nhất. Đơn vị của ông được lệnh chốt giữ ở một trong ba địa bàn chiến lược quan trọng nhất trên chiến trường bấy giờ đó là vùng chiến lược Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng. Khoảng cách giữa sự sống và cái chết trở nên mong manh dường như lại làm cho con người lạc quan đến lạ. Giờ phút đón giao thừa, anh em đồng chí cùng cất tiếng hát, có người đã khóc khi nhớ về quê nhà, nhớ về đồng đội chỉ ngã xuống cách đây ít phút và họ cùng động viên nhau mạnh hơn để chiến đấu trong những ngày tháng phía trước.
Đã hơn 40 năm trôi qua, nhưng trong ký ức của cựu chiến binh Nông Hương Bài vẫn nhớ mãi trận đánh vào cuối mùa khô năm 1972, đơn vị của ông được lệnh chốt giữ điểm cao 1530 thuộc Bản Khổng (Xiêng Khoảng), ở vị trí tiền tiêu, cái chết luôn cận kề, nhưng chưa bao giờ ông và đồng đội có một phút yếu lòng. Trận đánh ác liệt, kéo dài 2 ngày, nhiều đồng đội đã ngã xuống để bảo vệ điểm chốt, ông cũng bị thương và phải chuyển về trạm phẫu. Sau này khi xem lại tư liệu, ông mới biết trận đánh ấy Mỹ huy động lực lượng rất lớn gồm quân đội Thái Lan và lực lượng Vàng Pao nhằm tái chiếm toàn bộ khu vực Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng. Và đơn vị của ông đã góp công lớn vào một trong những chiến thắng vẻ vang của Sư đoàn 316 anh hùng.
Ông Bài kể: Trong chiến tranh, gian khổ mới thấy tình cảm của những người đồng đội, đồng chí. Nhiều thời điểm, lương thực từ hậu phương chưa kịp chuyển ra, một bữa ăn cả tiểu đội chỉ có một phong lương khô cho vào xoong rồi trộn thêm rau. Có những người đêm hôm trước vừa mới nằm võng nói chuyện vui với nhau vậy mà hôm sau mình đã phải đi tìm xác đồng đội. Nói đến đây ông như nghẹn lại, ông nhớ đến trận đánh giữa tháng 11 năm 1972, trận ấy đồng đội của ông hy sinh nhiều. Đi tìm đồng đội trong đêm chỉ nghe tiếng thở mà không biết là ta hay địch bị thương, khiêng thương binh về khu vực an toàn, mệt rồi ngủ đi lúc nào không hay, đến sáng tỉnh dậy nhìn xung quanh mới biết ca thương binh đưa ra đã hy sinh rồi.
Những người chiến sĩ năm xưa sôi nổi kể về những trận đánh, những kỷ niệm thời chiến nhưng lại e ngại nói về mình, họ chỉ tâm niệm rằng, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào họ vẫn luôn giữ vững phẩm chất của người lính Cụ Hồ. Khi tìm hiểu chúng tôi được biết trong số họ còn rất nhiều người có hoàn cảnh khó khăn, rất nhiều người vì lý do khách quan mà thất lạc giấy tờ nên chưa được hưởng những chế độ chính sách mà nhà nước dành cho, thiết nghĩ cần có sự quan tâm xứng đáng hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nguyen_thi_minh_tin_6528.docx