Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam - Kiều Hoàng Anh

Thật vậy, nền tảng của quan hệ Việt - Lào xuất phát từ quan hệ truyền thống lâu đời giữa hai nước láng giềng, cùng chung sống trên bán đảo Đông Dương, cùng tựa lưng bên dãy Trường Sơn hùng vĩ tạo thành biên giới khắn khít giữa hai nước Việt-Lào. Bác Hồ kính yêu của chúng ta - Người đã dày công vun đắp cho mối quan hệ Việt - Lào đã nhấn mạnh, đó là mối “quan hệ đặc biệt”. Mối quan hệ truyền thống ấy dựa trên tinh thần của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần cách mạng quốc tế cao cả trở nên “đặc biệt” từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng của hai dân tộc Việt Nam và Lào. Bởi thế, chúng ta cần phải ngược dòng lịch sử để chứng minh cái nghĩa tình và tấm lòng son sắt, sát cánh bên nhau của hai Đảng, hai nước, hai dân tộc Việt - Lào trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung, giành độc lập cho dân tộc và cùng nhau xây dựng hòa bình, hướng tới tương lai hạnh phúc.

doc10 trang | Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 530 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam - Kiều Hoàng Anh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM BÀI DỰ THI “TÌM HIỂU LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM” Họ và tên: Kiều Hoàng Anh Ngày sinh: 15-7-1984 Nghề nghiệp: CB Văn phòng Đảng ủy Đơn vị công tác: Đảng ủy xã Bình Đông Địa chỉ: Bình Đông, Bình Sơn, Quảng Ngãi Số điện thoại: 0968 03 49 67 “Việt - Lào hai nước chúng ta Tình sâu hơn nước Hồng Hà - Cửu Long” Đó là những câu thơ đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đúc kết trong mối quan hệ quốc tế Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam. Mối quan hệ ấy là một điển hình, một tấm gương mẫu mực về sự gắn kết bền chặt, thuỷ chung, trong sáng quy định sự sống còn giữa hai dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội. Thật vậy, nền tảng của quan hệ Việt - Lào xuất phát từ quan hệ truyền thống lâu đời giữa hai nước láng giềng, cùng chung sống trên bán đảo Đông Dương, cùng tựa lưng bên dãy Trường Sơn hùng vĩ tạo thành biên giới khắn khít giữa hai nước Việt-Lào. Bác Hồ kính yêu của chúng ta - Người đã dày công vun đắp cho mối quan hệ Việt - Lào đã nhấn mạnh, đó là mối “quan hệ đặc biệt”. Mối quan hệ truyền thống ấy dựa trên tinh thần của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần cách mạng quốc tế cao cả trở nên “đặc biệt” từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng của hai dân tộc Việt Nam và Lào. Bởi thế, chúng ta cần phải ngược dòng lịch sử để chứng minh cái nghĩa tình và tấm lòng son sắt, sát cánh bên nhau của hai Đảng, hai nước, hai dân tộc Việt - Lào trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung, giành độc lập cho dân tộc và cùng nhau xây dựng hòa bình, hướng tới tương lai hạnh phúc. Là một người cộng sản yêu nước với tinh thần quốc tế cao cả, ngay từ năm 1921, khi đấu tranh cho phong trào giải phóng “các dân tộc thuộc địa”, lên án chế độ thực dân Pháp , Nguyễn Ái Quốc đã dũng cảm đứng lên tố cáo sự hà khắc của các nước đế quốc đối với các dân tộc bị áp bức tại Đông Dương. Người đã mô tả nỗi khổ cực của nhân dân hai nước Việt - Lào trong chế độ bắt phu đi làm tạp dịch, làm đường tại Đông Dương của Pháp. Những tiếng nói đanh thép của Người trong đã lột tả được cái tận cùng của sự tàn ác, vô lương tâm của chủ nghĩa đế quốc, lột tả nỗi đau đớn của những dân tộc bị áp bức và bị buộc làm nô lệ trong chế độ thực dân. Trong những năm đầu thành lập Đảng và trong suốt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của cách mạng hai nước Việt - Lào, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi mối quan hệ đoàn kết Việt - Lào vừa là nghĩa vụ quốc tế, vừa là lợi ích sống còn của mỗi nước. Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn: “Cách mạng Lào không thể thiếu sự giúp đỡ của cách mạng Việt Nam và cách mạng Việt Nam cũng không thể thiếu sự giúp đỡ của cách mạng Lào” và “Ta phải nhận thức rõ rằng, hai dân tộc anh em Miên, Lào được giải phóng, thì nước ta mới được giải phóng thực sự và hoàn toàn”. Từ đó, với tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”, có biết bao xương, máu của các anh hùng, liệt sĩ Việt Nam hòa quyện với máu của quân và dân Lào để đem lại thắng lợi vẻ vang cho hai dân tộc. bh Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hẳn Trên tinh thần gắn kết cách mạng hai nước, sau khi Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập vào tháng 6/1925, đến tháng 2/1927, tổ chức này gây dựng được cơ sở ở Lào. Chi bộ Thanh niên Cộng sản đầu tiên cũng được thành lập vào cùng thời gian này; đường dây liên lạc giữa nhiều thị trấn ở Lào với Việt Nam đã được tổ chức. Đó cũng là địa bàn đầu tiên để bổ sung cơ sở thực tiễn cho công tác chính trị, tư tưởng và tổ chức của Nguyễn Ái Quốc về phong trào giải phóng dân tộc ở ba nước Đông Dương. Đến năm 1928, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm đến bản Xiêng Vảng, huyện Noỏng Bốc, tỉnh Khăm Muộn trực tiếp truyền bá cách mạng tại Lào nhằm đưa cách mạng Việt Nam và Lào hòa quyện, nương tựa vào nhau, kịp thời xây dựng và phát huy sức mạnh nhân dân hai nước cùng đấu tranh giành độc lập, tự do. Ngày 3/2/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, mở đầu những trang sử vẻ vang của quan hệ Việt Nam- Lào. Tháng 10/1930, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương, đặt phong trào cách mạng Việt Nam và Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 9/1934, Ban chấp hành Đảng bộ lâm thời Ai Lao được thành lập tạo nên một mốc son rất quan trọng trong lịch sử đấu tranh yêu nước của nhân dân các bộ tộc Lào và khẳng định vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng bộ Lào cũng như quan hệ giữa phong trào cách mạng của hai nước Việt Nam - Lào, thúc đẩy cùng nhau phát triển. Từ sau Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 5/1941 ở Cao Bằng quyết định đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu đối với cách mạng Đông Dương, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước và thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Từ năm 1943, “Ban vận động Việt kiều Lào – Thái” được thành lập và nhanh chóng tiến hành gây dựng cơ sở trên địa bàn Lào. Đến năm 1944 , Ban Vận động Việt kiều chuyển thành Hội Việt kiều cứu quốc. Năm 1945, tình hình trên bán đảo Đông Dương diễn biến phức tạp, Nhật đảo chính Pháp độc chiếm Đông Dương, đến ngày 14/8/1945 Nhật đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện, vào thời điểm lịch sử đó, Hội nghị của Đảng Cộng sản Đông Dương họp từ ngày 14 đến 15/8/1945, phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Ở Việt Nam, cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám diễn ra sôi động và kết thúc thắng lợi hoàn toàn trong cả nước chỉ trong vòng 15 ngày. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Hoàng thân Xu-pha-nu-vông. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân Lào. Dưới sự lãnh đạo kịp thời, đúng đắn của Xứ ủy Ai Lao, ngày 23/8/1945, một cuộc mittinh lớn diễn ra ở khu vực chợ Mới đã tạo điều kiện cho các địa phương khác của Lào đứng lên khởi nghĩa thắng lợi. Ngày 4/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời Hoàng thân Xuphanuvông lúc bấy giờ đang ở Vinh ra Hà Nội. Cuộc gặp gỡ đó có tác động mạnh mẽ, quyết định đối với Hoàng thân Xuphanuvông trong việc chọn lựa con đường làm cách mạng. Ngày 3/10/1945, nhân dân tỉnh Savẳnnàkhẹt đón chào Hoàng thân Xuphanuvông trở về tham gia Chính phủ Lào, Hoàng thân tuyên bố: “Quan hệ Lào- Việt từ nay sẽ mở ra một kỷ nguyên mới...”. Ngày 12/10/1945, tại cuộc mit tinh lớn ở Viêng Chăn, Chính phủ Lào Ítxalạ (Lào tự do) thành lập và làm lễ ra mắt, trịnh trọng tuyên bố nền độc lập. Hàng vạn nhân dân Lào phấn khởi hô vang các khẩu hiệu hoan nghênh Chính phủ và nền độc lập, đồng thời cổ súy tinh thần Lào- Việt đoàn kết. Sự ra đời của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày 2-9-1945 và Chính phủ Lào ítxalạ, ngày 12-10-1945 cùng những mong muốn của hai bên về xây dựng mối quan hệ hoàn hảo và vững chãi hơn trước là một trong những cơ sở đưa tình đoàn kết, giúp đỡ nhau lên tầm liên minh chiến đấu. Sau khi giành được chính quyền, Chính phủ hai nước đã ký Hiệp ước tương trợ Lào- Việt và Hiệp định về tổ chức Liên quân Lào- Việt, đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho sự  hợp tác và liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung. Ngày 23 - 9 - 1945, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, rồi mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Đông Dương. Trước nguy cơ tồn vong nền độc lập dân tộc đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc với chủ trương: “Thống nhất mặt trận Việt - Miên - Lào chống Pháp xâm lược". Trong những năm 1945-1948, liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào từng bước được hình thành, phát triển và thu được nhiều kết quả. Theo chủ trương củaTrung ương Đảng về Mặt trận Lào - Miên; Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam xác định nhiệm vụ hỗ trợ hai nước Lào, Campuchia giải phóng khỏi ách thực dân Pháp theo phương châm: vận động nhân dân và để cán bộ Lào, Campuchia tự đảm trách công việc; cán bộ Việt Nam chỉ làm cố vấn; thành lập quân giải phóng Lào. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, Đại hội Quốc dân Lào (Mặt trận Lào kháng chiến) họp từ ngày 13 đến ngày 15-8 - 1950, tại Tuyên Quang (Việt Nam) quyết định thành lập Chính phủ Kháng chiến Lào, lập mặt trận dân tộc thống nhất Lào, tức Neo Lào ítxalạ, do Hoàng thân Xuphanuvông làm Chủ tịch kiêm Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo phong trào đấu tranh dân tộc đoàn kết Đông Dương cùng nhau đánh đuổi kẻ thù chung là thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ, góp phần bảo vệ hòa bình thế giới. Từ ngày 11 đến 19-2-1951, tại Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang (Việt Nam), Đại hội đại biểu lần thứ hai của Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp, thông qua Nghị quyết về đường lối, nhiệm vụ chung và đề ra chủ trương xây dựng ở mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia một Đảng cách mạng. Ở Việt Nam, Đại hội quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam, có nghĩa vụ phối hợp và giúp đỡ các tổ chức cách mạng Lào, Campuchia xây dựng chính đảng mác xít để lãnh đạo cuộc kháng chiến của hai nước giành lấy thắng lợi cuối cùng. Lúc này, Mặt trận Liên Việt của Việt Nam, của Mặt trận Lào Ítxalạ, của Mặt trận Khơme Ítxarắc đã thảo luận và nhất trí thành lập khối liên minh nhân dân Việt Nam-Lào-Campuchia theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tương trợ và tôn trọng chủ quyền của nhau, cùng nhau đánh đuổi bọn thực dân, đế quốc xâm lược, giành độc lập thực sự cho nhân dân Đông Dương. Với sự cố gắng, nỗ lực của bản thân và cùng với sự đoàn kết và phối hợp của Việt Nam, trong hai năm 1951-1952 cuộc kháng chiến của nhân dân Lào đã giành được kết quả quan trọng về mọi mặt chính trị, quân sự, văn hóa xã hội, ngoại giao. Tháng 4-1953 , Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Kháng chiến Lào quyết định mở chiến dịch Thượng Lào. Quân đội Việt Nam phối hợp với quân đội Lào Ítxalạ giải phóng toàn bộ tỉnh Sầm Nưa, một phần Xiêng Khoảng và Phôngxalỳ. Sau chiến thắng Thượng Lào, Ban Cán sự Đảng Lao động Việt Nam ở Lào đã phối hợp và giúp bạn thành lập “Ban Vận động thành lập Đảng Nhân dân Lào”. Chiến thắng Điện Biên Phủ. Tháng 12- 1953 một bộ phận quân chủ lực Việt Nam phối hợp với bộ đội Lào Ítxalạ và quân tình nguyện Việt Nam tại Lào mở chiến dịch Trung, Hạ Lào và dành được thắng lợi. Ngày l3-3-1954; quân và dân Việt Nam mở đầu cuộc tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Phối hợp với chiến trường chính Việt Nam, quân và dân Lào liên tục đẩy mạnh các hoạt động quân sự từ Bắc xuống Nam Lào để kiềm chế lực lượng địch, đồng thời ủng hộ Mặt trận Điện Biên Phủ. Đến ngày 7-5-1954 tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị tiêu diệt hoàn toàn sau 55 ngày đêm chiến đấu gian khổ, quyết liệt và anh dũng. Đó là thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam và cũng là thắng lợi của khối đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa quân đội và nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, mà Việt Nam làm trụ cột trong sự nghiệp kháng chiến chống kẻ thù chung. Tháng 5-1954, Hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh Đông Dương khai mạc tại Giơnevơ. Nước Pháp và các nước tham gia Hội nghị cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Campuchia. Đó là cơ sở pháp lý quốc tế rất quan trọng để nhân dân ba nước Đông Dương tiến lên giành độc lập, hoàn thành thống nhất đất nước ở mỗi nước. Với việc ký kết Hiệp định Giơnevơ 1954, cách mạng hai nước Việt Nam, Lào bước vào thời kỳ mới: thời kỳ tập trung xây dựng lực lượng, đẩy mạnh đấu tranh để giữ vững hòa bình và giành độc lập, thống nhất ở mỗi nước. lúc bấy giờ, Đế quốc Mỹ vẫn nuôi tham vọng xâm lược, ra sức can thiệp vào miền Nam Việt Nam và Lào, âm mưu biến nơi đây thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự, để làm bàn đạp tiến công các nước xã hội chủ nghĩa. Trước tình hình chuyển biến mới của cách mạng Lào, tại Đại hội từ ngày 22/3 đến ngày 6/4/1955 tại tỉnh Sầm Nưa Đảng Nhân dân Lào ra đời, đã tạo cơ sở vững chắc để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Lào, đồng thời là nhân tố trọng yếu, có ý nghĩa quyết định thúc đẩy quan hệ đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa cách mạng hai nước Lào - Việt Nam. Các lực lượng yêu nước Lào với sự phối hợp, hỗ trợ tích cực của các tổ cố vấn quân sự và dân chính Việt Nam đã liên tiếp đánh bại các cuộc tiến công của các thế lực phái hữu trong chính quyền và quân đội Viêng Chăn vào vùng căn cứ cách mạng, gây cho địch nhiều thiệt hại. Nhân dịp giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh thực hiện hoà hợp dân tộc, thống nhất quốc gia, thành lập Chính phủ Liên hiệp, ngày 10/1/1958, Ban Chỉ đạo Đảng Nhân dân Lào gửi thư cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khẳng định: Sở dĩ cách mạng Lào đạt được những thắng lợi to lớn đó là do tinh thần đoàn kết đấu tranh anh dũng kiên cường của nhân dân, cán bộ, chiến sĩ Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Lào, đồng thời cũng do sự đóng góp quan trọng của đồng chí và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã hết lòng theo dõi, giúp đõ chúng tôi trong mỗi giai đoạn của cách mạng. Từ cuối năm 1958, Đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đẩy mạnh chiến tranh, chúng từng bước xóa bỏ cấc hiệp ước đã ký kết một cách trắng trợn. Trước tình hình đó, Đảng Nhân dân Lào quyết định chuyển cuộc đấu tranh sang đấu tranh vũ trang công khai hợp pháp kết hợp với cá hình thức đấu tranh khác và được sự thống nhất chi viện của cách mạng Việt Nam. Qua đó, được sự giúp đỡ tận tình của nhân dân Lào, các đoàn công tác quân sự Việt Nam đã xây dựng được nhiều cơ sở cách mạng, phục vụ cho việc mở tuyến đường mới dọc Tây Trường Sơn trên đất Lào. Sau Hiệp định Giơnevơ 1962 về Lào, ngày 5- 9-1962, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và Chính phủ Vương quốc Lào chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. cuối năm 1963, Việt Nam cử chuyên gia quân sự sang làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào và đến giữa năm 1964, thành lập hệ thống chuyên gia quân sự Việt Nam từ trên cơ quan Tổng tư lệnh Lào xuống đến Bộ tư lệnh các quân khu, tỉnh đội và cấp tiểu đoàn. Giữa năm 1965, đế quốc Mỹ thực hiện bước leo thang chiến tranh mới, đưa lực lượng không quân Mỹ vào tham chiến ở Lào, đẩy chiến tranh đặc biệt ở Lào phát triển đến cao độ; đồng thời tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam Việt Nam, mở rộng chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ra miền Bắc Việt Nam. Ngày 22-6-1965, Đảng Lao động Việt Nam hội đàm với Đảng Nhân dân Lào thống nhất các nội dung phối hợp và giúp đỡ lẫn nhau, trong đó tập trung giúp Lào xây dựng vùng giải phóng về mọi mặt với quy mô một quốc gia, xây dựng lực lượng vũ trang. Tiếp đó, ngày 3-7-1965, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra Nghị quyết khẳng định : “Việt Nam cần phải nỗ lực đáp ứng đến mức cao nhất mọi yêu cầu đối với công cuộc phát triển cách mạng của Lào”. Đầu năm 1968, bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với Quân giải phóng Lào mở chiến dịch tiến công giải phóng hoàn toàn khu vực Nặm Bạc - Khăm Đeng tạo thế vững chắc cho hậu phương cách mạng Lào và hỗ trợ thiết thực cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Thắng lợi trên thể hiện nấc thang phát triển mới của lực lượng cách mạng Lào, đồng thời khẳng định sức mạnh to lớn của quan hệ đoàn kết chiến đấu giữa quân và dân hai nước Việt Nam - Lào, trong đó thể hiện tình cảm chân thành nhất mực, sắt son của Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Lào, trong cuộc hội đàm giữa Đảng Nhân dân Lào và Đảng Lao động Việt Nam (12-1968), đồng chí Kayxỏn Phômvihản nhấn mạnh : “Sự giúp đỡ của Việt Nam cho cách mạng Lào hết sức tận tình và vô tư. Việt Nam đã giúp Lào cả vật chất và xương máu. Xương máu của nhân dân biệt Nam đã nhuộm đỏ khắp nơi trên đất nước Lào vì nền độc lập của Lào . . .” Trước âm mưu và thủ đoạn chiến tranh mới của đế quốc Mỹ, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Trung ương Đảng Nhân dân Lào đã ra chỉ thị khẳng định tăng cường đoàn kết giữa nhân dân hai nước, quyết tâm đánh bại đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai  trong bất cứ tình huống nào. Công cuộc đấu tranh ngày càng được đẩy mạnh với quy mô ngày càng lớn qua các đợt tiến công lớn nhỏ đã đánh một đòn chí mạng vào quân xâm lược và bè lũ tay sai. Đặc biệt là chiến thắng giải phóng hoàn toàn miền Nam (30-4-1975) của nhân dân Việt Nam và cuộc nổi dậy đoạt lấy chính quyền của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong cả nước Lào giành thắng lợi hoàn toàn đi đến sự kiện ra đời nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào vào tháng 12/l975, đây cũng là thắng lợi quan trọng của mối quan hệ đặc biệt, liên minh đoàn kết chiến đấu, thủy chung, son sắt giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào. Sau năm 1975, quan hệ Việt Nam và Lào bước sang một trang hoàn toàn mới: từ liên minh chiến đấu chung một chiến hào sang hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc lập chủ quyền. Tuy nhiên, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hai nước Việt, Lào đều phải ra sức khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh kéo dài 30 năm, đặc biệt là hậu quả thống trị của chủ nghĩa thực dân mới. Trong khi đó, các thế lực thù địch trong và ngoài nước câu kết, tìm cách chia rẽ Lào với Việt Nam gây khó khăn, trở ngại không nhỏ cho mối quan hệ giữa Việt Nam và Lào. Đây là thời kỳ Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã trở thành Đảng cầm quyền ở mỗi nước; do vậy, cả hai nước càng có điều kiện phát huy truyền thống tốt đẹp đã từng gắn bó keo sơn trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, xây dựng và tăng cường quan hệ liên minh, liên kết và hợp tác toàn diện về chính trị, quốc phòng an ninh, kinh tế, văn hoá, giáo dục Đây chính là đặc điểm quan trọng nhất, dẫn tới sự thay đổi về chất trong nội dung, phương thức và các nguyên tắc quan hệ giữa hai quốc gia dân tộc, nâng quan hệ hữu nghị đặc biệt, hợp tác toàn diện giữa hai nước lên tầm cao mới, trên cơ sở đáp ứng nguyện vọng thiết tha và lợi ích sống còn của hai dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngày 18/7/1977, hai nước chính thức ký kết các Hiệp ước: Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; và ra Tuyên bố chung tăng cường sự tin cậy và hợp tác lâu dài giữa hai nước trong các lĩnh vực: chính trị và đối ngoại, quốc phòng, an ninh, hợp tác giữa các địa phương và ngoại giao nhân dân cho đến nay đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn. Qua thực tiễn các thời kỳ kháng chiến chống kẻ thù chung cũng như trong sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay đã chứng minh tình đoàn kết gắn bó keo sơn của cả hai Đảng, hai nước, hai dân tộc Việt-Lào. Đây là bài học vô cùng quý báu, có ý nghĩa lịch sử hết sức to lớn. Theo thời gian, mối “quan hệ đặc biệt” Việt - Lào được Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng và dày công vun đắp ngày càng được tăng cường và phát triển, trở thành động lực thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước. Đặc biệt từ khi hai nước thực hiện công cuộc đổi mới với nhiều khó khăn và thách thức, nhưng với truyền thống tốt đẹp của mối “quan hệ đặc biệt” và dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào, quan hệ giữa hai nước ngày càng được tăng cường, mở rộng và giành được những thắng lợi to lớn. Đó cũng là thành quả được kết tinh từ lịch sử, từ sứ mệnh mà hai Đảng, hai dân tộc đã chung sức, chung lòng, chung vai gánh vác qua những chặng đường đầy khó khăn, gian khổ của cuộc đấu tranh giành độc lập và giải phóng đất nước. Ngày nay, công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân hai nước Việt Nam và Lào diễn ra trong bối cảnh thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều biến đổi to lớn và sâu sắc, vừa thuận lợi, vừa có những khó khăn, thách thức khó lường. Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam-Lào sẽ nỗ lực đoàn kết phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách để giữ trọn mối quan hệ đặc biệt Việt-Lào.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai_du_thi_tim_hieu_lich_su_quan_he_dac_biet_viet_nam_lao_lao_viet_nam_8_2058.doc