Kế thừa bản sắc văn hóa dân tộc và phát huy trong cuộc đấu tranh
chống thiên tai và dịch họa, nhân dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã
đúc kết cho mình nhiều đức tính quý báu nổi bật nhất là đức tính Nhân - Nghĩa. Để
hiểu rõ hơn đức tính này ở vùng ĐBSCL, bài viết khái lược sự hình thành một số đặc
điểm đức tính Nhân – Nghĩa ở vùng ĐBSCL, qua đó phân tích vai trò của đức tính
Nhân - Nghĩa trong đời sống văn hóa của nhân dân vùng ĐBSCL hiện nay.
9 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 19/05/2022 | Lượt xem: 304 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Tìm hiểu đức tính nhân - Nghĩa vùng đồng bằng sông Cửu Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
luôn thông cảm cho nhau vì “mọi người đều cùng chung
một số phận”, hoạn nạn họ luôn kề vai để vượt qua – “ Bán bà con xa mua láng giềng
gần” đây là câu nói cửa miệng của những con người ở đây để nói lên rằng họ luôn
sống cho nhau, cho bạn bè, cho những người đang sống quanh họ. Nên khi có bạn bè
đến chơi hay khách đến nhà, dù gia cảnh có bần hàn, khó khăn đến đâu họ cũng cố
gắng đãi bạn, đãi khách cho tươm tất. Dù nghèo đến đâu, khi có khách hay bạn bè đến
chơi thì họ luôn tâm niệm rằng” nghèo thì nghèo, tiếp bạn chu đáo cái đã, tiền bạc có
sá gì, nhân nghĩa mới là điều quan trọng”. Người Tây Nam Bộ tiếp khách phải có rượu
cùng các món ăn “đặc sản miệt vườn”. Khách đến có khi chỉ còn một con gà mái đang
ấp, người Việt vùng Tây Nam Bộ cũng có thể bắt đãi khách. Nhà hết gà vịt học có thể
201
chạy sang hàng xóm mượn đỡ. Đang nấu bếp mà lỡ thiếu củi, họ sẵn sàng dỡ vách nhà
chụm cho đồ ăn mau chín. Khi tiếp khách gia đình quây quần bên mâm cơm và chai
rượu nếp. Ngay cả đàn bà trong nhà cũng chung tay cùng tiếp rượu khách. Những ai đã
một lần làm khách ở gia đình Tây Nam Bộ thường khó quên đực cảm giác nồng hậu,
chân thành và hiếu khách của người dân vùng này [3; tr.689].
Tiêu xài rộng rãi là một đặc điểm thường được nhắc tới khi nói về tính cách
người Nam bộ. Thiên nhiên hào phóng thì cũng sẽ tạo ra những con người hào phóng,
người ta ít lo lắng cho cuộc sống của mình ở ngày mai. Tất cả chỉ có tình người dù họ
biết rằng ngày mai, ngày mốt mình không còn cái gì để sống. Lối sống đó trở thành
một tập quán xã hội, ảnh hưởng đến tất cả mọi người, cả những khi đời sống vật chất
khó khăn. Người nông dân bị bóc lột cơ cực, ít có hy vọng trở nên khá giả thì không
cần dành dụm, làm được bao nhiêu cứ xài cho hết. Khi lâm vào cảnh thất nghiệp họ
vẫn có thể thức đến tận khuya để uống rượu và đờn ca tài tử, chẳng bận tâm gì cho
cuộc sống ngày mai.
Thứ ba, một nền văn chương, thơ ca nhân nghĩa.
Nổi bật về con người nhân nghĩa trong văn chương thì phải kể đến Lục Vân Tiên,
một con người đầy khí phách hiên ngang, chấp nhận hiểm nguy để giúp người và một
số nhân vật khác trong tác phẩm Lục Vân Tiên của tác giả Nguyễn Đình Chiểu. Câu
nói biểu hiện rõ nhất đức tính nhân nghĩa, trọng nghĩa khinh tài là câu mà Vân Tiên
đáp lại lời của Nguyệt Nga sau khi cứu nàng thoát khỏi tay bọn cướp và nàng tỏ ý
muốn đáp đền:
Vân Tiên nghe nói liền cười
Làm ơn há dễ trong người trả ơn
Nay đã rõ đạng nguồn cơn
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng [1]
Trong tác phẩm không chỉ riêng Lục Vân Tiên mà đến những người lao động
bình thường như: ông Quán, ông Ngư, ông Tiều, Tiểu Đồng, Hớn Minh... cũng là
những người vì nghĩa, vì lòng nhân ái, họ làm mọi việc xuất phát từ cái tâm không so
đo tính toán. Đó là đạo lý làm người mà Nguyễn Đình Chiểu đề cập đến trong tác
phẩm. Đạo lý đó có thể thâu tóm ở mấy điểm sau: Coi trọng tình nghĩa giữa người với
người: tình cha con, mẹ con, tình nghĩa vợ chồng, bè bạn, tình yêu thương, cưu mang,
đùm bọc những người gặp khó khăn, hoạn nạn. Đề cao tinh thần nghĩa hiệp, sẵn sàng
cứu khốn phò nguy (Vân Tiên đánh cướp, Hớn Minh bẻ giò Đặng Sinh). Thể hiện khát
vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bằng và những điều tốt đẹp trong cuốc đời thông
qua kết thúc có hậu của tác phẩm là thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà [1].Với
ngôn ngữ bình dị mang đậm bản sắc của người Tây Nam Bộ truyện Lục Vân Tiên
được mọi tầng lớp tiếp thu và từ đó hình thành cho bản thân đước tính nhân nghĩa lưu
truyền cho đến nay.
Tiếp nối Nguyễn Đình Chiểu có rất nhiều nhà thơ, nhà văn viết về đức tính nhân
nghĩa của nhân dân nơi đây như: Bùi Hữu Nghĩa vở tuồng “Kim Thạch kỳ duyên”,
202
Nguyễn Chánh Sắt với tác phẩm “Nghĩa hiệp kỳ duyên”, tiêu biểu nhất là Hồ Biểu
Chánh người có hàng chục cuốn tiểu thuyết viết về đức tính nhân nghĩa của người dân
nơi đây mà đạo lý ấy vẫn còn nguyên cho đến bây giờ. Những nhân vật của Hồ Biểu
Chánh là những người nhân nghĩa, giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha, dù bản
thân học đang sống trong nghèo khó, cơm không đủ ăn áo không đủ ấm như ông Sáu
Thời, Lê Văn Đó trong tiểu thuyết “Ngọn cỏ gió đùa”, bà Ba Thời trong “Cay đắng
mùi đời”, bà lão nông dân đã cưu mang Thủ Nghĩa lúc mới vượt ngục trong “Chúa tàu
Kim Quy”, dù bản thân họ có khó khăn như thế nào thì nhưng vẫn sẵn sáng giúp đỡ
những người khó khăn hơn mình, mà không màng tới lợi lộc hay trong chờ sự trả ơn
nào cả. Hoàn toàn đúng với bản chất của nhân dân vùng ĐBSCL.
4. Vai trò của đức tính nhân nghĩa đối với đời sống văn hóa tinh thần của
nhân dân vùng ĐBSCL
Một là, đức tính Nhân - Nghĩa đã làm cho người dân của vùng ĐBSCL có sự đối
xử nhân ái, khoan dung, độ lượng với nhau. Giúp họ có thái độ và hành vi ứng xử với
nhau theo thứ bậc, theo khuôn phép.
Hai là, đức tính Nhân – Nghĩa tạo cho người dân của vùng ĐBSCL có nếp sống
trên kính dưới nhường, giúp cho họ xác định được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình
để từ đó suy nghĩ và xử thế đúng trong các quan hệ xã hội
Ba là, đức tính Nhân - Nghĩa góp một phần quan trọng trong việc hình thành và
phát triển nhân cách của con người, thiết lập các quan hệ tốt trong cộng đồng, điều
chỉnh hành vi lối sống của cộng đồng hướng tới sự phát triển bền vững, hướng tới
tương lai không bằng pháp luật mà bằng sức mạnh kết tinh từ tinh hoa của nhiều thế
hệ.
Bốn là, đức tính Nhân - Nghĩa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình
thành những đặc điểm riêng biệt của nhân dân nơi đây, giáo dục cho mọi người lòng
biết ơn đối với những người đi trước, những người đã có công khai hoang mở đất ở
vùng ĐBSCL.
Năm là, đức tính Nhân – Nghĩa đã xây dựng những đặc trưng của vùng về tính
cách bộc trực, thẳng thắng, lòng nhân ái, sự bao dung hay tính hiếu khách của nhân
dân vùng này.
Sáu là, đức tính Nhân – Nghĩa còn là một trong những cơ sở để hình thành một
cá nhân toàn diện và có những cái riêng trong tính cách của người Tây Nam Bộ không
thể lẫn vào vùng nào khác.
5. Kết luận
Đức tính Nhân – Nghĩa của nhân dân vùng ĐBSCL đã được hình thành từ lúc sơ
khai, khai hoang mở đất. Xuất hiện trong thực tiễn đời sống xã hội trong lời ru, điệu
hò, câu ca cổ của ông, của bà, của mẹ hay của chị. Nhân - Nghĩa là đặc trưng cho văn
hóa của Việt Nam mà trong đó nổi bật lên là vùng ĐBSCL. Trong bối cảnh toàn cầu
hóa, hiện đại hóa đất nước thì việc tìm hiểu đức tính Nhân - Nghĩa của nhân dân vùng
ĐBSCL từ đó hình thành nên nhân cách của nhân dân nơi đây, việc giáo dục đức tính
Nhân - Nghĩa cho thanh niên vùng ĐBSCL là rất quan trọng. Nhân - Nghĩa là tiền đề
của những vấn đề xã hội, giúp con người hoàn thiện cá nhân hơn nữa, xã hội ngày
203
càng phát triển nói chung và vùng ĐBSCL nói riêng. Tạo thành những làn sóng về
đoàn kết, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, xây dựng xã hội hướng tới những điều tốt đẹp,
hướng tới cội nguồn. Hình thành phát triển nhân cách hướng tới một cá nhân có đủ
Nhân – Lễ - Nghĩa – Trí – Tín.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Đình Chiểu (2017), “Truyện Lục Vân Tiên”, Nxb. Văn học - Đông
A, Hà Nội, 2017.
[2]. Trần Ngọc Thêm (2013), “Văn hóa ngươi Việt vùng Tây Nam Bộ”, Nxb.
Văn hóa – nghệ thuật, TP. HCM, 2013.
[3]. Dương Công Đức, “Nam Bộ tình đất tính người”, 31/01/2017,
https://plo.vn/xuan-dinh-dau-2017/dat-va-nguoi-nam-bo/nam-bo-tinh-dat-tinh-nguoi-
680223.html, [truy cập ngày: 21-03-2019].
[4].Phương Thụy, “Tính cách người miền Tây”,
cach-nguoi-mien-tay/n3445.html, [truy cập ngày: 10-8-2018].
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tim_hieu_duc_tinh_nhan_nghia_vung_dong_bang_song_cuu_long.pdf