Theo sự phát triển của lịch sử khoa học, các vấn đề mà khoa học nghiên cứu ngày càng được kết luận nhiều lên và được sự nhất trí của hầu hết giới khoa học có liên quan. Tuy vậy, trước mặt khoa học luôn luôn có vấn đề mới được đặt ra, đang chờ câu trả lời.
Cũng như các bộ môn khoa học khác, trong vòng 30-40 năm nay sinh học phát triển với một nhịp điệu nhanh chưa từng thấy. Số lượng các chuyên ngành sinh vật mới ra đời, cũng như thành tựu mà chúng đạt được có thể xếp vào loại nhiều nhất. Những thành tựu ấy đã mang lại cho chúng ta nhiều hiểu biết mới về sự hình thành và phát triển của thế giới sống, góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề mà mới cách đây nửa thế kỷ đang là những giả thuyết.
Sinh học ngày càng có vai trò to lớn trong việc giải quyết những vấn đề toàn cầu của thời đại, trong việc nghiên cứu con người và thúc đẩy tính tích cực của con người. Những biến đổi về chất trong tất cả các lĩnh vực sinh học, sự ra đời của các bộ môn mới, sự thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với khoa học tự nhiên và khoa học xã hội làm cho sinh học giữ vị trí then chốt để giải quyết một số vấn đề cấp bách nhất của thời đại, làm cho vai trò xã hội của sinh học ngày càng nổi bật hơn.
19 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1170 | Lượt tải: 1
Nội dung tài liệu Tiểu luận Vấn đề sự sống dưới ánh sáng của khoa học hiện đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
Theo sự phát triển của lịch sử khoa học, các vấn đề mà khoa học nghiên cứu ngày càng được kết luận nhiều lên và được sự nhất trí của hầu hết giới khoa học có liên quan. Tuy vậy, trước mặt khoa học luôn luôn có vấn đề mới được đặt ra, đang chờ câu trả lời.
Cũng như các bộ môn khoa học khác, trong vòng 30-40 năm nay sinh học phát triển với một nhịp điệu nhanh chưa từng thấy. Số lượng các chuyên ngành sinh vật mới ra đời, cũng như thành tựu mà chúng đạt được có thể xếp vào loại nhiều nhất. Những thành tựu ấy đã mang lại cho chúng ta nhiều hiểu biết mới về sự hình thành và phát triển của thế giới sống, góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề mà mới cách đây nửa thế kỷ đang là những giả thuyết.
Sinh học ngày càng có vai trò to lớn trong việc giải quyết những vấn đề toàn cầu của thời đại, trong việc nghiên cứu con người và thúc đẩy tính tích cực của con người. Những biến đổi về chất trong tất cả các lĩnh vực sinh học, sự ra đời của các bộ môn mới, sự thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với khoa học tự nhiên và khoa học xã hội làm cho sinh học giữ vị trí then chốt để giải quyết một số vấn đề cấp bách nhất của thời đại, làm cho vai trò xã hội của sinh học ngày càng nổi bật hơn.
Các câu hỏi về nguồn gốc của sự sống, sự tiến hoá của sự sống nói chung và về nguồn gốc sự tiến hoá của loài người nói riêng đã được khoa học thế kỷ XIX giải đáp khá cơ bản. Khoa học thế kỷ XX đã đi sâu để làm sáng tỏ thêm, bổ sung và phát triển câu trả lời đó.
Ngày nay, không thể có một quan niệm đúng đắn, sâu sắc và thực sự khoa học về thế giới vật chất sống, nếu như không nhận thức được nguồn gốc của sự sống và nếu như không coi nó là một hiện tượng tự nhiên, hiện tượng vũ trụ có tính quy luật. Vì vậy, nghiên cứu " vấn đề sự sống dưới ỏnh sỏng của khoa học hiện đại " có ý nghĩa quan trọng.
Nội dung
I. Sự sống là gì
Trả lời cho câu hỏi này đã có nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Nếu như các nhà triết học duy tâm cho ý thức là cái có trước vật chất là cái có sau, từ đó mới có sự sống, thì ngược lại các nhà duy vật lại cho rằng vật chất có trước sự sống từ đó mới có ý thức. Thời kỳ cổ đại Hy Lạp tiêu biểu là nhà triết học duy tâm Platôn (427-347 TrCN), ông đã đặt cơ sở thần học cho quan điểm về sự sống. Theo Platôn vũ trụ có hai thế giới: Một là thế giới ý niệm. Hai là thế giới các sự vật cảm tính (sông, núi, cây, cỏ...). Thế giới ý niệm là thế giới tinh thần, nó hoàn hảo, đúng đắn, chân thực vĩnh viễn không đổi. Nó là cơ sở của thế giới các sự vật cảm tính. Thế giới các sự vật cảm tính là không chân thật, không hoàn hảo, không đúng đắn vì mọi cái trong nó luôn biến đổi có sinh và có mất đi. Ông cho rằng con người bao gồm thể xác và linh hồn thể xác có thể mất đi vì nó được cấu tạo từ đất, nước, lửa, không khí, còn linh hồn là bất tử. Vì nó được cấu tạo từ linh hồn vũ trụ có nguồn gốc từ thượng đế.
Các nhà triết học duy vật tiêu biểu là Hêraclít và Đêmôcrít. Các ông cho rằng mọi sự vật hiện tượng, sự sống đều bắt nguồn từ một yếu tố vật chất nào đó. Hêraclít cho đó là lửa, với ông mọi vật đều trao đổi với lửa và lửa trao đổi với mọi sự vật. Lửa theo ông là vĩnh cửu và có tính chất thần thánh. Cả vũ trụ như là ngọn lửa vĩnh viễn cháy. Đối với Hêraclít "Thế giới, một chỉnh thể gồm mọi vật, không phải do bất cứ một thần thánh hoặc là bất cứ người nào sáng tạo ra, mà đã, đang và sẽ còn là một ngọn lửa vĩnh viễn sống, bùng cháy và tắt đi theo những quy luật..."(1) V.I.Lênin, Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.371.
. Lửa không chỉ là khởi nguyên của vũ trụ mà còn là cơ sở của linh hồn con người.
Đêmôcrít cho nguyên tử (tồn tại) và khoảng không trống rỗng (không tồn tại) là nguồn gốc của thế giới. Các nguyên tử liên kết với nhau tạo nên các sự vật, các nguyên tử tách rời khỏi nhau thì sự vật mất đi. Các nguyên tử luôn luôn vận động trong khoảng không trống rỗng, và sự vận động của nguyên tử là cơ sở để hình thành nên vũ trụ của chúng ta. Đêmôcrít còn cho rằng con người có thể xác và linh hồn. Cả thể xác và linh hồn của con người đều không là bất tử. Linh hồn của con người do những nguyên tử hình cầu rất nhỏ vận động với tốc độ lớn cấu tạo nên.
Có thể nói quan niệm của các nhà duy vật mới chỉ là những quan sát bước đầu về thế giới, tuy các quan niệm này còn thô sơ, mộc mạc, song nó chứa đựng những yếu tố có giá trị, là cơ sở cho các nhà khoa học nghiên cứu về sự sống sau này.
Đến thời trung cổ vấn đề sự sống vẫn được đặt ra, nhưng khuynh hướng duy tâm nổi trội hơn. Vì xã hội trung cổ Tây Âu lúc này giáo hội kitô giáo là tổ chức tôn giáo tập quyền hùng mạnh, chi phối toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Mọi quan điểm đều nhằm phục vụ thần học, nhà thờ. Triết học duy vật và khoa học tự nhiên bị đẩy lùi về phía sau, chính vì vậy các quan điểm về sự sống không có điều kiện phát triển. Tiêu biểu là Ôguýtxtanh và Tômát Đacanh. Trong triết học của Ôguýtxtanh thì thượng đế là vấn đề cơ bản trung tâm nhất. Nhưng thượng đế theo ông là một thực thể tinh thần độc lập và đối lập với tự nhiên, đối lập với con người. Giới tự nhiên và con người hoàn toàn phụ thuộc vào thượng đế. Thượng đế không chỉ sáng tạo ra con người mà còn sáng tạo ra mọi sự vật, hiện tượng khác và cả thời gian. Con người theo ông, gồm thể xác và linh hồn, linh hồn của con người có nguồn gốc từ thượng đế cho nên nó có trí tuệ và bất tử. Thể xác có thể mất đi, nhưng linh hồn là vĩnh viễn, linh hồn có khả năng tư duy, có ý chí, trí nhớ.
Với Tômát Đacanh thì thượng đế cũng là cơ sở cho mọi tồn tại, mọi sự vật vận động được là do cái hích của thượng đế.
Như vậy quan niệm của triết học Tây Âu thời trung cổ đã cho rằng giới tự nhiên và con người hoàn toàn phụ thuộc vào thượng đế, thượng đế không những sáng tạo ra con người, mà còn sáng tạo ra mọi vật trên thế giới.
Thời kỳ cận đại tiêu biểu cho khuynh hướng triết học duy tâm là Béccơli và Hium.
Béccơli tuyên bố cảm giác là nguồn gốc của sự vật. Mọi vật chỉ là tổ hợp cảm giác của con người. Mọi vật đối với ông chỉ tồn tại trong chừng mực được con người cảm giác. Con người theo ông có thể xác và linh hồn, nhưng thể xác của con người tồn tại được là cũng nhờ cảm giác.
Đavít Hium phủ nhận thực thể vật chất, ông khẳng định: "không thể chứng minh được sự tồn tại cũng như không tồn tại của vật chất".
Hêghen (triết học cổ điển Đức) cho rằng mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều là sự "tồn tại khác", sự "tha hoá" của tinh thần thế giới. Sự sống là sự tồn tại khác của ý niệm tuyệt đối.
Như vậy, ông đã tước mất cơ sở thực sự của sự sống, các hiện tượng trao đổi chất là sự thống trị của tinh thần. Ông cũng đã phủ nhận sự tiến hoá hữu cơ trong thời gian.
Có thể nói, hầu như các nhà triết học duy tâm đã phủ nhận nguồn gốc tự nhiên của sự sống, phủ nhận tính vật chất của các hiện tượng sống. Điều quyết định các hiện tượng sống không phải là các yếu tố vật chất, nằm ngoài khả năng nhận thức của con người, không thể có sự sống nếu như không có sự tham gia của lý tính trừu tượng.
Cũng thời kỳ này, đối lập với các nhà triết học duy tâm, các nhà triết học duy vật thì lại khẳng định sự sống là một phần của thế giới tự nhiên, không phải do thần thánh sáng tạo ra. Một số nhà triết học bước đầu đã giải thích hoạt động sống, nhưng do ảnh hưởng của quan điểm máy móc, các nhà triết học thời kỳ này mới chỉ thấy được chức năng hoạt động tương tự của sự sống và máy móc chưa thấy được chất lượng của sự sống và không sống.
Hốp xơ có cái nhìn hoàn toàn cơ học máy móc về con người. Chẳng hạn ông cho tim là động cơ chính; các khớp xương như những bánh xe truyền lực. Ông đã thấy khía cạnh sinh học của con người, bản chất của con người theo ông là tổng các nhu cầu ham muốn khả năng và sức mạnh.
Với Đêcáctơ thì giới tự nhiên chỉ có một thực thể vật chất duy nhất hoạt động cả ở trên trời và dưới đất. Giới tự nhiên ngày càng phát triển phức tạp và hoàn thiện hơn. Giới sinh vật và động vật là kết quả của sự vận động của tự nhiên. Cơ thể sống theo ông chỉ là một cỗ máy phức tạp, sự sống không cần một quy luật đặc biệt nào, sự sống là một bộ máy đặc biệt vì vậy sự vận động của nó do sự va chạm của các bộ phận máy móc.
Đến Phơbách (triết học cổ điển Đức) thì vấn đề con người là trung tâm trong triết học của ông, ông đã đứng trên lập trường duy vật để giải quyết vấn đề này. Con người trong triết học của Phơbách là một phần của giới tự nhiên, là một sinh vật có hình thể vật chất ở trong không gian và thời gian, vì vậy con người có khả năng quan sát, suy nghĩ.
Con người và toàn bộ sinh vật là kết quả của một quá trình tiến hoá lâu dài của chính giới tự nhiên và giới tự nhiên không do ai sáng tạo ra, cơ sở tồn tại của giới tự nhiên nằm ngay trong bản thân giới tự nhiên.
Để xây dựng một quan điểm đúng đắn về sự sống bản chất sự sống, chủ nghĩa Mác đã phải đấu tranh trên hai mặt trận: chống khuynh hướng duy vật máy móc, muốn coi sinh vật là một cái "máy sống" và chống khuynh hướng siêu hình muốn giải thích sự sống, sự vật chỉ bằng hoạt động của từng bộ phận (tế bào) hay muốn quy tất cả các quy luật sinh vật học vào những phản ứng lý học, hoá học, hay lý hoá học. Ph.Ăngghen đã vạch rõ sự sống chỉ là một hình thái vận động của vật chất ở một trình độ cao hơn, có tính chất khác so với các hình thái vận động khác, thông thường của vật chất.
Ph.Ăngghen đặc biệt chú ý đến hình thái vận động sinh vật học, vì hình thái này có chứa trong nó tất cả những hình thái vận động thấp hơn. "Đương nhiên sinh lý học là vật lý học và đặc biệt là hoá học của cơ thể sống, nhưng cũng do đó mà đồng thời nó lại không còn là thuần tuý hoá học nữa; một mặt, lĩnh vực hoạt động của nó bị hạn chế, nhưng một mặt khác, ở đây, nó lại được nâng lên một bậc nào đó cao hơn"(1) (2) (3) C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.754, 746, 676.
. Như vậy, Ph.Ăngghen cho rằng trong cơ sở của các hiện tượng sinh vật học có các hiện tượng vật lý hoá học và do đó, bản chất của sự sống có thể được nhận thức trong sự phát triển tiếp tục của vật lý và hoá học.
Giải thích bản chất của sự sống theo Ph.Ăngghen, có nghĩa là vạch ra cơ sở lý - hóa của nó trong sự kết hợp chặt chẽ với cơ sở sinh vật học. Trên cơ sở của phương pháp biện chứng Ph.Ăngghen đã tiên đoán rằng sự sống nhất định xuất hiện bằng con đường hoá học, rằng sự kết hợp giữa hoá học và sinh vật sẽ là cơ sở để giải quyết vấn đề sự sống. Ph.Ăngghen khẳng định một cách kiên quyết: "Hoá học tiếp cận sự sống hữu cơ và nó đã tiến khá xa khiến chúng ta có thể tin chắc rằng chỉ có nó mới có thể giải thích được bước quá độ biện chứng sang thể hữu cơ"(2) và "chỉ còn một việc nữa cần phải làm... là giải thích sự phát sinh ra sự sống từ giới vô cơ. ở giai đoạn hiện nay của khoa học, điều đó chỉ có nghĩa là tạo ra những chất An-bu-min từ những chất vô cơ"(3).
Như vậy, Ph.Ăngghen đã nhìn thấy chiếc chìa khoá cụ thể nhất và gần nhất để giải thích sự sống chính là hoá học. Ph.Ăngghen muốn nhấn mạnh bằng cách nào từ hình thái vận động thấp hơn chuyển lên thành hình thái vận động cao hơn, từ vô sinh sang hữu sinh mà thôi.
Từ hình thái vận động thông thường của vật chất, từ tác động hoá học thường đến hoá học của An-bu-min mà chúng ta gọi là sự sống, có một bước nhảy quyết định, một bước nhảy biện chứng. Động lực của mọi sự vận động của vật chất là sự đấu tranh giữa các mâu thuẫn bên trong. Động lực của sự vận động sinh học, nghĩa là của đời sống sinh vật, cũng là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập trong nội tại của sinh vật, làm cho sinh vật trong một lúc vừa là nó, lại vừa là một cái khác.
Ph.Ăngghen đã định nghĩa sự sống: "Sự sống là phương thức tồn tại của những thể An-bu-min, và phương thức tồn tại này, về căn bản bao hàm ở sự thường xuyên tự đổi mới của những thành phần hoá học của những thể ấy... Sự sống - phương thức tồn tại của thể An-bu-min - trước hết là ở chỗ bất cứ lúc nào nó cũng vừa là chính nó đồng thời vừa là cái khác, và như không phải do một quá trình nào tác động từ bên ngoài vào nó, như điều thường xảy ra đối với vật thể chết. Trái lại, sự sống, sự trao đổi chất, diễn ra thông qua sự dinh dưỡng và bài tiết, là một quá trình tự lực thực hiện, một quá trình vốn có bên trong bẩm sinh của chất tiêu biểu của nó là An-bu-min, mà không có nó thì chất An-bu-min không thể tồn tại được"(1) C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.119, 120.
.
Khẳng định giới hữu sinh xuất hiện bằng con đường hoá học từ giới vô sinh và đưa ra định nghĩa về sự sống không phải Ph.Ăngghen đã làm một việc tuỳ tiện, tư biện. Ông đã tổng hợp, khái quát tất cả những thành tựu của khoa học thời ông - hoá học và sinh vật học. Sức mạnh và ý nghĩa quan trọng của định nghĩa này là ở chỗ: Trong định nghĩa, Ph.Ăngghen đã nói đến tính vật chất của sự sống. Sự sống, đó là phương thức tồn tại một cách đặc biệt của vật chất có tổ chức. Ph.Ăngghen nhấn mạnh, đó chính là vật chất có tổ chức đặc biệt, và vật chất này luôn nằm trong quá trình tự đổi mới và đặc trưng của nó là sự trao đổi chất.
Trước những quan điểm khác nhau: Duy tâm, tôn giáo, duy vật máy móc... hiểu chưa đúng đắn, chặt chẽ về sự sống, thì Ph.Ăngghen bằng những tài liệu cụ thể của khoa học và những tư tưởng biện chứng, ông đã khẳng định: sự sống nhất định là tự nó phát sinh từ giới vô cơ trong những điều kiện nhất định. Sự sống không du nhập từ một hành tinh nào khác, không phải do một "lực sống" nào khác và không phải là nó vĩnh viễn từ khi có vũ trụ. Vì thế phải tổng hợp được sự sống bằng cách nhân tạo, chỉ có khi đó vấn đề mới được giải quyết.
Tuy nhiên, Ph.Ăngghen cũng đã viết: "... Định nghĩa về sự sống của chúng tôi cố nhiên còn thiếu sót nhiều, vì nó còn xa mới có thể bao gồm được tất cả các hiện tượng sống, mà trái lại chỉ giới hạn trong những hiện tượng chung nhất và đơn giản nhất trong đó mà thôi. Về phương diện khoa học, tất cả mọi định nghĩa đều có ít giá trị. Muốn hiểu sự sống là gì một cách triệt để, chúng ta phải điểm qua tất cả các hình thức biểu hiện của sự sống, cả hình thức thấp nhất đến hình thức cao nhất. Tuy nhiên, đối với sự vận dụng thường ngày thì những định nghĩa như vậy lại rất tiện lợi và có khi không có nó thì không được; vả lại nó cũng không thể có hai, chỉ cần người ta không quên những thiếu sót không thể tránh khỏi của nó"(1) Ph.Ăngghen, Chống Duy Rinh, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1959, tr.140,143.
.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, Ph.Ăngghen đã khẳng định: sự sống bản chất là vật chất, sự sống có cơ sở vật chất là An-bu-min. An-bu-min là điều kiện cơ bản của sự sống. Khi mà sự biến thái không ngừng của các nhân tố cấu thành trong An-bu-min bị ngừng lại, sự trao đổi thường xuyên về dinh dưỡng và bài tiết thôi đi, cũng là lúc mà chính bản thân chất An-bu-min không còn là nó nữa, thì lúc đó sự sống chấm dứt; dấu hiệu cơ bản của vận động sống, đó là sự thường xuyên tự đổi mới của các thành phần hoá học của các thể An-bu-min thông qua quá trình trao đổi chất giữa cơ thể và môi trường. Ph.Ăngghen viết: "Từ sạ trao đổi các chất ấy bằng dinh dưỡng và bài tiết coi như là chức năng chủ yếu của An-bu-min và từ tính chất mềm dẻo của An-bu-min vốn có, đã sinh ra tất cả những nhân tố đơn giản nhất của sự sống"(2) Ph.Ăngghen, Chống Duy Rinh, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1959, tr.143.
và sự sống là phương thức tồn tại một cách đặc biệt của vật chất có tổ chức đặc biệt. Ngày nay sự phát triển của khoa học đã khẳng định chứng minh quan điểm của Ph.Ăngghen hoàn toàn đúng và lẽ đương nhiên ngày nay nhiệm vụ bức thiết là phải xây dựng một bức tranh khoa học mới hoàn thiện hơn về thế giới, sự sống so với thế kỷ XIX.
Với những thành tựu to lớn của khoa học ngày nay đã chứng minh trong cơ thể sống có 60 nguyên tố và phổ biến là các nguyên tố các bon, hyđrô, Nitơ, ôxy, lưu huỳnh.
Sinh học hiện đại đã mở rộng phạm vi nghiên cứu và đã tích luỹ được nhiều tài liệu về các hình thức biểu hiện của sự sống và những mặt, những tính chất của nó. Sự sống thực tế là "phương thức tồn tại của những thể An-bu-min". Với nghĩa là tất cả các chức năng quan trọng nhất của cơ thể sống đều có sự tham gia của An-bu-min. Nhưng chỉ có An-bu-min thì không thể tự mình tổng hợp được mình. Những thành tựu của sinh học hiện đại đã xác định chắc chắn rằng, không thể nói là Prôtêin (An-bu-min theo cách gọi của Ph.Ăngghen) là cơ sở duy nhất của sự sống. ở trình độ khoa học ngày nay không thể nói rằng, Prôtêin là cái trực tiếp mang sự sống. Các vật thể sống không phải chỉ có một mình Prôtêin mà Prôtêin có đặc tính sinh học khi tác động qua lại với các yếu tố vật chất khác của cái sống (ví dụ như AND và ARN) còn khi tách khỏi axit nuclêíc thì Prôtêin chỉ là một chất hoá học chết mà thôi, phân tử Prôtêin không sống được.
Dưới ánh sáng của khoa học hiện đại, nếu chỉ cho rằng khi "tạo ra được những loại chất An-bu-min" thì vấn đề sự sống được giải quyết, điều đó chưa hoàn toàn đúng. Trên thực tế, nhiều loại An-bu-min hay Prôtêin (theo cách gọi của khoa học hiện nay) đã được tổng hợp, nhưng vấn đề sự sống vẫn chưa được giải quyết. Năm 1963 người ta đã tổng hợp được Inxulin, nhưng đấy chưa phải là vật thể sống. Mặc dù, Prôtêin đảm nhận những chức năng quan trọng, nhưng nếu chỉ có một mình Prôtêin thi không thể đủ tạo nên sự sống, mà bên cạnh Prôtêin còn có các axit nuclêíc (AND và ARN) cùng nhiều chất khác nữa.
Với sự phát triển của khoa học hiện đại, ngày nay người ta đã tìm ra 20 loại axit amin khác nhau cấu trúc nên Prôtêin, do sự liên kết của axit amin khác nhau mà có nhiều Prôtêin khác nhau. Cơ thể sống luôn tự đổi mới các thành phần hoá học của riêng mình. Bằng phương pháp nguyên tử đánh dấu, người ta đã chứng minh 50% phân tử Prôtêin trong cơ thể người hoàn toàn đổi mới trong 180 ngày và ở gan diễn ra là 18 ngày.
Cơ sở đổi mới của các phân tử dẫn đến đổi mới của các tế bào. Nếu như một người nặng 50 kg thì trong cơ thể có 80.000 tỉ tế bào. Trong 20 giờ có 500 tỉ tế bào được thay thế. Trong 2 tháng 32 nghìn tỉ tế bào hồng cầu trong cơ thể đổi mới hoàn toàn. Nếu một người sống trung bình 70 năm, lấy ở môi trường bên ngoài vào cơ thể 50 tấn nước, 10 tấn gluxit, 2,5 tấn prôtít, 2 lấn lipít, 0,2 tấn muối khoáng và cũng thải ra bên ngoài 25.000 lít nước tiểu, 6.000 tấn phân và 500 kg tế bào chết.
Không ai có thể phủ nhận được rằng, Prôtêin được tổng hợp dưới tác động của chương trình được ghi lại trong các đoạn của phân tử AND. Nhưng cũng không ai có thể phủ nhận được rằng, tất cả các hoạt động di truyền nói riêng và hiện tượng sống nói chung, đều gắn liền và đều chịu sự tác động của các men (enzim), tức là các phân tử Prôtêin. Ngay cả các phân tử Prôtêin cũng sẽ không thể tự nhân đôi, nếu không có sự tham gia của các enzim đặc hiệu của riêng loài. Việc di truyền học phân tử và sinh học phân tử nói chung đã chuyển từ chỗ thừa nhận vai trò độc tôn AND sang chỗ thừa nhận sự tác động qua lại chặt chẽ giữa ADN - ARN - Prôtêin trong hiện tượng di truyền và trong sự sống, là một điểm rất mới, là một sự tiếp cận phương pháp luận mới. Do đó, khi xác nhận An-bu-min (Prôtêin) chưa phải là sự sống thì khoa học hiện đại vẫn có đầy đủ cơ sở để khẳng định rằng, An-bu-min (Prôtêin) dẫu sao vẫn là một trong những cơ chất quan trọng nhất của sự sống.
Như vậy, định nghĩa của Ph.Ăngghen về sự sống sẽ được bổ sung và chúng ta có nhiều cơ sở hy vọng rằng ngày nay, trong tương lai không xa, bí mật của sự sống sẽ được khám phá và tiên đoán của Ph.Ăngghen về sự xuất hiện của sự sống bằng con đường hoá học từ vô sinh sẽ được khẳng định hoàn toàn.
Với định nghĩa của Ph.Ăngghen về sự sống có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Ông đã phê phán những quan điểm siêu hình, duy tâm về sự sống, cho sự sống là do thượng đế sinh ra, khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước đó về sự sống. Định nghĩa cũng mở ra một giai đoạn mới cho khoa học nghiên cứu về sự sống đặc biệt là khoa học của thế kỷ XX.
Với sự tiên đoán rằng, sự kết hợp giữa hoá học và sinh học là cơ sở để giải quyết vấn đề sự sống của Ph.Ăngghen. Ngày nay, thực tế sinh học đang kết hợp hết sức chặt chẽ với hoá học, thậm chí đã hình thành một khoa học liên ngành là sinh hoá. Và sự kết hợp này đã mang lại những kết quả kỳ diệu, ví dụ như: năm 1967, A.Cônbe bằng con đường hoá học đã tổng hợp được phân tử ADN có hoạt tính đặc trưng cho vi rút fX174. Tuy nhiên sự tổng hợp này, chỉ có thể diễn ra được với sự có mặt của men (enzim) đặc hiệu, do đó nó không thể là mô hình cho các quá trình vô cơ trên trái đất lúc mới sinh thành.
Năm 1968 G.Corama tổng hợp được gen của ARN vận chuyển alanin có 77 nuclêôtít. Năm 1972, J.Rôxơ và các cộng sự đã tổng hợp được gen hêmôglôbin dưới dạng 1 đoạn ADN sao chép từ khuôn ARN của nó... Song, vấn đề vẫn chưa được giải quyết một cách căn bản vì chưa tổng hợp được vật chất sống trực tiếp theo một chu trình khép kín và liên tục từ các chất vô cơ.
Ngày nay bằng con đường thực nghiệm với những phương tiện hiện đại để chứng minh rằng sự sống sinh ra từ vật chất không sống bằng con đường hoá học như Ph.Ăngghen đã tiên đoán, một số nhà khoa học đã đề xuất những giả thuyết, đáng chú ý nhất là giả thuyết của A.I.Ôparin được ông trình bày trong một loạt các công trình nghiên cứu của mình.
Theo A.I.Ôparin, quá trình phát triển lâu dài của vật chất qua bốn giai đoạn chính như sau:
1. Đầu tiên xuất hiện các hợp chất hữu cơ thô thiển nhất, các cácbua hyđrô (hay hyđrat cácbon - CH), các xianua (CN) ở trong không gian vũ trụ và bên trái đất mới hình thành. Trong giai đoạn này, từ những hợp chất hữu cơ thô thiển ấy sẽ hình thành các hợp chất hữu cơ phức tạp hơn nhưng có trọng lượng phân tử không lớn lắm.
2. Các hợp chất hữu cơ phức tạp dần lên thành các mônôme và pôlime. Sự phức tạp này gắn liền với sự tăng lên liên tục của các phân tử của chúng bằng con đường trùng hợp và ngưng tụ trong nước biển và đại dương. Hình thành những "buliôn" đầu tiên, trong đó nảy sinh các hợp chất giống nhau, các tiền axit nuclêic và các hợp chất hữu cơ phức tạp khác. A.I.Ôparin khẳng định rằng, lúc này chưa có các An-bu-min, các axít nuclêic theo đúng nghĩa của chúng.
3. Hình thành trong thuỷ quyển các hệ thống mở nhiều phân tử. Những hệ thống này phát sinh bằng con đường kết hợp các chất có phân tử hữu cơ cao. Các phức hợp trên phân tử kết hợp với nhau tạo thành những giọt côaxécva và hình thành các prôbiôn, tức là các hệ thống mở nhiều phân tử, có khả năng tác động qua lại với môi trường xung quanh chúng và trên cơ sở đó có khả năng phát triển và sinh sản.
4. Các prôbiôn tiếp tục tiến hoá, hoàn thiện sự trao đổi chất, cấu trúc phân tử và trên phân tử của chúng trên cơ sở sự chọn lọc tiền sinh học; tiếp đó là sự xuất hiện các cơ thể sống đầu tiên. A.I.Ôparin lưu ý rằng, "sự chọn lọc tiền sinh học ấy không nhằm vào từng phân tử men riêng lẻ mà là nhằm duy trì hay tiêu diệt cả một hệ thống nói chung. Không có và không thể có sự chọn lọc tự nhiên nào của các phân tử riêng biệt"(1) A.I.Ôparin, Vật chất, sự sống, trí tuệ, tiếng Nga, Nxb Khoa học, Mátxcơva, 1977, tr.153.
.
II. Quá trình phát sinh sự sống
Vấn đề nguồn gốc của sự sống trên trái đất, sự sống có tồn tại ở nơi nào khác trong vũ trụ không? đã có nhiều quan điểm khác nhau. Trong quan niệm của dân gian, từ sự quan sát tự nhiên một cách thiếu chính xác, không có phê phán họ đã cho rằng hình như trong bùn đất sinh ra các loài sinh vật. ở Trung Quốc cổ đại, có quan niệm cho rằng sự tự sinh của các loài côn trùng khác nhau dưới sự tác động của nhiệt và nước. Còn ở ấn Độ một số quan niệm thần bí cho sự xuất hiện của các ký sinh trùng ruồi sinh ra từ phân trâu, mồ hôi. ở Hy Lạp cổ đại thì quan niệm ở các đất bồi sông Nin dưới ảnh hưởng của nhiệt, sinh ra các loài vật khác nhau. Các nhà triết học thời cổ đại, đặc biệt ở Hy Lạp đã cho rằng sự tự sinh của các sinh vật là tất yếu. Đêmôcrít cho nguồn gốc của vũ trụ là vật chất bao gồm nhiều phân tử nhỏ bé, vận động tản mát trong không gian, sự sống không phải là sự sáng tạo theo thần thánh mà kết quả của lực cơ học trong tự nhiên. Sự xuất hiện đầu tiên của sinh vật, sự tự sinh của chúng từ nước, bùn xảy ra là do sự kết hợp ngẫu nhiên và rất xác định của các nguyên tử trong sự vận động cơ học của chúng. Khi những phân tử rất nhỏ của đất, nước gặp và kết hợp với các nguyên tử của lửa thì sinh ra các sinh vật.
Êpiquya cho rằng do nhiệt ẩm mặt trời gặp nước mưa, thì sâu bọ và các loại khác được xuất hiện từ đất, phân. Điều đó xảy ra không có sự tác động của yếu tố linh hồn nào cả. Platôn (Hy Lạp cổ đại) cho vật chất, động vật, thực vật tự nó không sống được mà chỉ có thể hồi sinh bằng linh hồn bất diệt ở trong đó. Quan điểm này của Platôn cũng được phản ánh một phần nhất định trong học thuyết của Arixtốt. Arixtốt quan niệm bên cạnh sự nảy sinh của các sự vật từ những vật giống mình, thì sự tự sinh của chúng từ những vật vô sinh đã và đang xảy ra. Những con vật côn trùng nảy sinh ra từ xương, cây khô, phân, da, tóc. Ký sinh trùng sinh ra từ da, tóc...
Arixtốt không chỉ mô tả các trường hợp tự sinh cụ thể, mà xây dựng một học thuyết tự sinh của mình. Và đây cũng chỉ là quan điểm duy tâm về nguồn gốc của sự sống.
Thời trung cổ tiêu biểu Vaxili Veliki (thế kỷ IV) ông là một trong những người có uy tín chủ yếu về thần học (nhà thờ thiên chúa giáo ở phương Đông) đã cho rằng một sự vật sản sinh ra qua sự kế tục những cái
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu luan.doc