Máy bay là loại ph¬ương tiện bay nặng hơn không khí, có động cơ và có khả năng bay trong khí quyển nhờ các lực nâng khí động học.
Có loại máy bay cánh nâng cố định, có loại máy bay cánh nâng quay hay máy bay trên đệm khí hở, máy bay xuồng.
Sự phát triển của máy bay là đỉnh cao của trí tuệ con ngư¬ời. Chế tạo máy bay và vận chuyển hàng không đang nằm trong những ngành khoa học về công nghệ chính.
Năm 1783, khí cầu bơm bằng khí nóng đầu tiên ra đời. Mặc dù không phải là máy bay song nó cũng cho phép con ng¬ười lần đầu tiên bay lên không trung. Đột phá căn bản trong thiết kế máy bay diều ra đời vào năm 1799, với mẫu của Cayley. Từ đó, lực nâng và lực đẩy đư¬ợc tách biệt hoàn toàn. Lực đẩy do một cơ cấu động lực riêng. Năm 1804 xuất hiện máy bay cánh cố định, thực chất đó là một tàu lư¬ợn không ngư¬ời lái phóng bằng tay được làm bằng gỗ và giấy. Tàu l¬ượn này dài một mét, có một cánh nâng cố định, thân và đuôi, với các cánh đuôi thẳng đứng và nằm ngang nh¬ư những máy bay ngày nay.
Tuy nhiên, phải mãi đến năm 1891 mới ra đời tàu lư¬ợn có ngư¬ời lái đầu tiên trong lịch sử. Do Gohlitwtal ngư¬ời Đức thiết kế và bay thử đã thành công. Rồi sau một loạt thử nghiệm với hầm gió, năm 1902 hai anh em Wright ngư¬ời Mỹ đã chế tạo và cho bay thử thành công một tàu l¬ượn. Ngày 17/12/1903, họ đã thực hiện được chuyến bay đầu tiên bằng phư¬ơng tiện bay nặng hơn không khí có động lực và có ng¬ười điều khiển. Đặc biệt họ đã sáng tạo ra hệ thống điều khiển với các dây cáp, cần lái bàn đạp thay cho cách điều khiển bằng thay đổi t¬ư thế và trọng tâm ngư¬ời lái như¬ với làu lư¬ợn trư¬ớc đây.
Đến cuối chiến tranh thế giới thứ nhất , máy bay đã đ¬ược thiết kế hợp lý một cách đáng kể, bằng cách giảm lực cản khí động và tăng công suất động cơ để có độ cao và vận tốc lớn hơn. Cuộc chạy đua chế tạo các máy bay có vận tốc lớn bắt đầu từ năm 1927, như¬ chuyến bay xuyên Đại Tây D¬ương một mình của Lindberg.
Từ 1913 đến 1931, vận tốc cực đại của máy bay đã tăng gấp hơn 5 lần, từ 74km/h với máy bay cánh đơn (máy bay Deperdussin của Pháp) lên tới 386 Km/h (máy bay Supermarine 5.6B) . Cũng từ thời kỳ này máy bay cánh cố định đã có dáng dấp như¬ ngày nay. Thân đư¬ợc bọc kín, kết cấu chắc chắn, hình thuôn, ít chịu lực cản, cấu tạo cánh đơn dài. Thời kỳ này, máy bay ngoài nhiệm vụ chở quân đội, vũ khí, khí tài còn chở bom và đư¬ợc trang bị thêm súng máy. Đồng thời hàng loạt kiểu máy bay chiến đấu chuyên dụng ra đời. Có loại máy bay ném bom đ¬ường dài, máy bay ném bom bổ nhào, máy bay cường kích- chi viện trực tiếp cho lực l¬ượng mặt đất, và máy bay tiêm kích- chuyên để chống máy bay.
Những trận không chiến đầu tiên đã diễn ra trên bầu trời Tây Ban Nha thời nội chiến 1936-1939. Đến chiến tranh thế giới thứ hai, đã xuất hiện các tập đoàn không quân tập trung cho các trận đánh lớn. Tiếp đó là giai đoạn máy bay phản lực, bắt đầu từ 8-1939, mở đầu là cuộc bay thử của máy bay phản lực He-178 do Đức chế tạo. Do tác dụng của động cơ phản lực cộng với những cải tiến hợp lý khác (cánh cụp) khiến máy bay ngày càng bay nhanh và có tốc độ tiếp cận vận tốc truyền âm. Tới tháng 10 năm 1947 máy bay thử nghiệm Bell X-l có người lái bay nhanh hơn tiếng động. Từ những năm 1950, các máy bay chiến đấu phản lực quân sự đã bay nhanh gấp 23 lần tốc độ truyền âm (23M). Cuộc chiến tranh Triều Tiên là nơi Mỹ đã sử dụng máy bay chiến đấu phản lực đầu tiên. Máy bay phản lực siêu âm ngày càng đư¬ợc nhiều nư¬ớc trên thế giới sử dụng với quy mô lớn. Trong đó có loại vận tốc cao nhất (>3M) là máy bay trinh sát chiến l¬ược SR-71 của Mỹ. Trong chiến tranh ở Việt Nam lần đầu tiên máy bay tác chiến điện tử chuyên dụng kiểu EB-66 đã đ¬ược Mỹ sử dụng.
Thời gian từ sau đại chiến thứ II đến nay được gọi là kỷ nguyên vàng của ngành hàng không với sự phát triển tới đỉnh cao của nó. Tuy các chuyến bay vũ trụ đã thay thế vị trí chiếm lĩnh không gian độc tôn của nó, song thực tiễn lịch sử đã khẳng định vai trò của máy bay trong đời sống hàng ngày cũng nh¬ư trong quân sự. Thời gian gần đây các nhà thiết kế máy bay đã thử nghiệm các dáng vật liệu và hệ thống động lực mới, tạo ra những máy bay cánh quay (máy bay tạo lực nâng bằng cánh quay-máy bay trực thăng) và những ph¬ương tiện có thể bay nh¬ư máy bay đồng thời cho phép cất hạ cánh thẳng đứng, hoặc cho phép chuyển hướng luồng phụt của động cơ (như¬ máy bay Harrier của Anh).
Những phát triển vượt bậc của máy bay, cũng như ngành hàng không thế giới ta có thể thấy không quân đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong quân đội của tất cả các nước trên toàn thế giới
Có thể nói: “Trong lịch sử các cuộc chiến tranh, không quân đóng vai trò hầu như quan trọng nhất, nó quyết định đến sự thành bại của mỗi cuộc chiến.”
Điều đó có thể được thấy cụ thể qua những cuộc chiến
18 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1022 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Tiểu luận Trong lịch sử các cuộc chiến tranh, không quân đóng vai trò hầu như quan trọng nhất, nó quyết định đến sự thành bại của mỗi cuộc chiến, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN QUÂN SỰ
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH HÀNG KHÔNG VÀ KHÔNG QUÂN THẾ GIỚI
Máy bay là loại phương tiện bay nặng hơn không khí, có động cơ và có khả năng bay trong khí quyển nhờ các lực nâng khí động học.
Có loại máy bay cánh nâng cố định, có loại máy bay cánh nâng quay hay máy bay trên đệm khí hở, máy bay xuồng.
Sự phát triển của máy bay là đỉnh cao của trí tuệ con người. Chế tạo máy bay và vận chuyển hàng không đang nằm trong những ngành khoa học về công nghệ chính.
Năm 1783, khí cầu bơm bằng khí nóng đầu tiên ra đời. Mặc dù không phải là máy bay song nó cũng cho phép con người lần đầu tiên bay lên không trung. Đột phá căn bản trong thiết kế máy bay diều ra đời vào năm 1799, với mẫu của Cayley. Từ đó, lực nâng và lực đẩy được tách biệt hoàn toàn. Lực đẩy do một cơ cấu động lực riêng. Năm 1804 xuất hiện máy bay cánh cố định, thực chất đó là một tàu lượn không người lái phóng bằng tay được làm bằng gỗ và giấy. Tàu lượn này dài một mét, có một cánh nâng cố định, thân và đuôi, với các cánh đuôi thẳng đứng và nằm ngang như những máy bay ngày nay.
Tuy nhiên, phải mãi đến năm 1891 mới ra đời tàu lượn có người lái đầu tiên trong lịch sử. Do Gohlitwtal người Đức thiết kế và bay thử đã thành công. Rồi sau một loạt thử nghiệm với hầm gió, năm 1902 hai anh em Wright người Mỹ đã chế tạo và cho bay thử thành công một tàu lượn. Ngày 17/12/1903, họ đã thực hiện được chuyến bay đầu tiên bằng phương tiện bay nặng hơn không khí có động lực và có người điều khiển. Đặc biệt họ đã sáng tạo ra hệ thống điều khiển với các dây cáp, cần lái bàn đạp thay cho cách điều khiển bằng thay đổi tư thế và trọng tâm người lái như với làu lượn trước đây.
Đến cuối chiến tranh thế giới thứ nhất , máy bay đã được thiết kế hợp lý một cách đáng kể, bằng cách giảm lực cản khí động và tăng công suất động cơ để có độ cao và vận tốc lớn hơn. Cuộc chạy đua chế tạo các máy bay có vận tốc lớn bắt đầu từ năm 1927, như chuyến bay xuyên Đại Tây Dương một mình của Lindberg.
Từ 1913 đến 1931, vận tốc cực đại của máy bay đã tăng gấp hơn 5 lần, từ 74km/h với máy bay cánh đơn (máy bay Deperdussin của Pháp) lên tới 386 Km/h (máy bay Supermarine 5.6B) . Cũng từ thời kỳ này máy bay cánh cố định đã có dáng dấp như ngày nay. Thân được bọc kín, kết cấu chắc chắn, hình thuôn, ít chịu lực cản, cấu tạo cánh đơn dài. Thời kỳ này, máy bay ngoài nhiệm vụ chở quân đội, vũ khí, khí tài còn chở bom và được trang bị thêm súng máy. Đồng thời hàng loạt kiểu máy bay chiến đấu chuyên dụng ra đời. Có loại máy bay ném bom đường dài, máy bay ném bom bổ nhào, máy bay cường kích- chi viện trực tiếp cho lực lượng mặt đất, và máy bay tiêm kích- chuyên để chống máy bay.
Những trận không chiến đầu tiên đã diễn ra trên bầu trời Tây Ban Nha thời nội chiến 1936-1939. Đến chiến tranh thế giới thứ hai, đã xuất hiện các tập đoàn không quân tập trung cho các trận đánh lớn. Tiếp đó là giai đoạn máy bay phản lực, bắt đầu từ 8-1939, mở đầu là cuộc bay thử của máy bay phản lực He-178 do Đức chế tạo. Do tác dụng của động cơ phản lực cộng với những cải tiến hợp lý khác (cánh cụp) khiến máy bay ngày càng bay nhanh và có tốc độ tiếp cận vận tốc truyền âm. Tới tháng 10 năm 1947 máy bay thử nghiệm Bell X-l có người lái bay nhanh hơn tiếng động. Từ những năm 1950, các máy bay chiến đấu phản lực quân sự đã bay nhanh gấp 2¸3 lần tốc độ truyền âm (2¸3M). Cuộc chiến tranh Triều Tiên là nơi Mỹ đã sử dụng máy bay chiến đấu phản lực đầu tiên. Máy bay phản lực siêu âm ngày càng được nhiều nước trên thế giới sử dụng với quy mô lớn. Trong đó có loại vận tốc cao nhất (>3M) là máy bay trinh sát chiến lược SR-71 của Mỹ. Trong chiến tranh ở Việt Nam lần đầu tiên máy bay tác chiến điện tử chuyên dụng kiểu EB-66 đã được Mỹ sử dụng.
Thời gian từ sau đại chiến thứ II đến nay được gọi là kỷ nguyên vàng của ngành hàng không với sự phát triển tới đỉnh cao của nó. Tuy các chuyến bay vũ trụ đã thay thế vị trí chiếm lĩnh không gian độc tôn của nó, song thực tiễn lịch sử đã khẳng định vai trò của máy bay trong đời sống hàng ngày cũng như trong quân sự. Thời gian gần đây các nhà thiết kế máy bay đã thử nghiệm các dáng vật liệu và hệ thống động lực mới, tạo ra những máy bay cánh quay (máy bay tạo lực nâng bằng cánh quay-máy bay trực thăng) và những phương tiện có thể bay như máy bay đồng thời cho phép cất hạ cánh thẳng đứng, hoặc cho phép chuyển hướng luồng phụt của động cơ (như máy bay Harrier của Anh).
Những phát triển vượt bậc của máy bay, cũng như ngành hàng không thế giới ta có thể thấy không quân đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong quân đội của tất cả các nước trên toàn thế giới
Có thể nói: “Trong lịch sử các cuộc chiến tranh, không quân đóng vai trò hầu như quan trọng nhất, nó quyết định đến sự thành bại của mỗi cuộc chiến.”
Điều đó có thể được thấy cụ thể qua những cuộc chiến
Trong chiến tranh thế giới lần thứ II.
Trong chiến tranh thế giới lần thứ II, không quân Liên Xô đã tiêu diệt khoảng 95% tổng số máy bay chiến đấu của Đức. Kết quả đó đã tạo điều kiện cho Không quân Liên Xô giành ưu thế chiến lược trên không từ 1943 và giữ được ưu thế đó cho đến khi kết thúc chiến tranh. Tuy nhiên, trong thời kỳ đầu chiến tranh, Không quân Liên Xô bị tổn thất nặng vì:
- Chỉ trong một thời gian 18 ngày (22 - 6 ¸ 10 -7 - 1941), Không quân Đức đã giành được ưu thế chiến lược trên không, tạo thuận lợi cho quân Đức nhanh chóng tiến công vào sâu lãnh thổ Liên Xô. Tương quan lực lượng chung của Không quân hai bên là 2/1 nghiêng về phía Không quân Đức (Liên xô có 1970 máy bay, Đức có 4000 máy bay).
- Không quân Đức đã hoàn thiện chiến lược tiến công, trong khi Không quân Liên Xô vẫn hành động bảo thủ theo chiến lược phòng ngự. Đức áp dụng nguyên tắc chỉ huy tập trung, Liên Xô theo nguyên tắc phi tập trung.
- Không quân Liên Xô có rất ít máy bay mới, đội ngũ phi công chưa được huấn luyện tốt.
- Bộ chỉ huy quân sự Liên Xô bố trí những máy bay mới tập trung tại các sân bay gần biên giới Đức, nên bị Không quân Đức đánh thiệt hại nặng.
Trong chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 (Chiến dịch Bão táp sa mạc)
Trong chiến dịch này Mỹ và đồng minh đã đặt hy vọng chủ yếu vào các đòn tiến công bằng không quân. Mỹ và liên quân đã tập trung một lực lượng lớn, bao gồm 2600 máy bay chiến đấu và trực thăng hiện đại, trong đó có 1800 máy bay của Mỹ. Chiến dịch kéo dài 6 tuần (từ 1-1991 đến 2-1991) thì 5 tuần đầu Mỹ và liên quân dùng không quân để không kích Irắc.
Trong chiến dịch không kích, lưu lượng trên không của chiến trường rất dày đặc, với đủ loại máy bay và trực thăng của nhiều quân chủng và nhiều nước tham gia, nhưng nhờ có hệ thống quản lý vùng trời làm việc rất hiệu quả nên không xảy ra một vụ tai nạn máy bay nào. Không quân đã thực hiện tốt nhiệm vụ của họ.
Không quân đã phá huỷ làm tê liệt hệ thống chỉ huy quân đội của Irắc, chế áp và tiêu diệt hệ thống phòng không, chế áp và phá huỷ các sân bay, phá sập các cầu cống, đường giao thông các trạm rađa, các trận địa pháo và gây khó khăn cho lực lượng Irắc vận động trên chiến trường.
Ngoài ra Mỹ đã phóng 290 quả tên lửa hành trình Tomahawk từ tàu ngầm và tầu chiến hạm vào các mục tiêu quân sự và dân sự của Irắc, với xác suất trúng đích lên đến 90%.
Cơ quan tổng kiểm toán (GAO) của Mỹ, năm 1997 đã tổng kết, đánh giá hiệu quả của chiến dịch "bão táp sa mạc" 1991 của không quân Mỹ và liên quân như sau:
- 43% trong tổng số 2665 xe tăng thuộc 12 sư đoàn của Irắc bị tiêu diệt, trước khi cuộc tiến công trên bộ bắt đầu, cùng với 32% trong tổng số 2624 xe thiết giáp chở quân.
- Trong tổng số 724 máy bay cánh cố định của Irắc, chỉ có 290 chiếc bị tiêu diệt, 121 chiếc chạy thoát sang Iran và 313 chiếc sống sót.
- Hệ thống phòng không của Irắc đã bắn rơi được 11 máy bay của Mỹ và liên quân trong 3 ngày cuối của cuộc chiến tranh.
Trong chiến tranh vùng Vịnh, sau 38 ngày không kích, Mỹ và liên quân đã đưa 70.000 lục quân (4.100 xe tăng, thiết giáp) và 7.500 hải quân đánh bộ vào tham chiến. Không quân đã chi viện cho lực lượng lục quân và hải quân đánh bộ mở các cuộc tấn công trên bộ. Chiến tranh trên bộ đã giành được thắng lợi trong 4 ngày là nhờ trước đó không quân đã tiến hành oanh kích 5 tuần liền.
Cũng có một vài nhân tố khác góp phần vào sự sụp đổ của quân đội Irắc, bao gồm cả khả năng chỉ huy và tinh thần chiến đấu kém. Các phi công Irắc thể hiện kỹ năng chiến đấu rất thấp. Trong các cuộc không chiến, đôi khi họ không thực hiện nổi động tác cơ động tránh né đơn giản nhất. Họ lái những chiếc máy bay hiện đại, nhưng không khai thác được những tính năng ưu việt của chúng, và đó là nhược điểm, bất lợi trong chiến đấu.
Các cuộc tấn công của không quân đã làm cho Irắc không thể thực hiện phòng ngự hiệu quả. Các đợt oanh kích dồn dập vào các đơn vị, mục tiêu của Irắc đã tạo một đòn tâm lý choáng váng, trong khi tổn thất của không quân Mỹ là không đáng kể.
Trong cuộc chiến tranh Balkan của Mỹ và NATO không kích Nam Tư 1999
Chiến dịch có tên “Sức mạnh đồng minh” này kéo dài 78 ngày đêm, bắt đầu từ 24-3-1999. Đây là bước phát triển mới so với cuộc chiến tranh ở Irắc năm 1991. Trong chiến dịch này Mỹ và NATO đã sử dụng một số lượng lớn chưa từng có về vũ khí và phương tiện kỹ thuật quân sự, trong đó nổi bật là vai trò của không quân. Trong chiến tranh Nam Tư, Mỹ - NATO đã tận dụng trinh sát từ vệ tinh (50 vệ tinh), các loại máy bay trinh sát U-2, RC-135, E-SA, máy bay chỉ huy - kiểm soát báo động sớm trên không AWACS, máy bay tác chiến điện tử EC-130, thiết bị quan sát chụp ảnh của các máy bay chiến đấu và phương tiện bay không người lái, các Sensor mang trên tên lửa, bom, đạn... Tất cả liên kết thành một hệ thống, đảm bảo cho chiến trường trở nên “trong suốt” cả đêm lẫn ngày.
Trong cuộc chiến tranh này, quan điểm cốt lõi của Mỹ - NATO là sử dụng không quân mang vũ khí chính xác cao tiến công các mục tiêu quan trọng nhất và sử dụng vũ khí thông thường để tiến công các mục tiêu khác. Khi sử dụng vũ khí chính xác cao, yêu cầu về số lượng máy bay chiến đấu giảm từ 2 đến 5 lần.
Trong chiến tranh Việt Nam, từ 1965 ¸ 1968 không quân Mỹ bị tổn thất gần 100 máy bay, nhưng không phá được cầu Hàm Rồng (Thanh Hoá), nhưng ngày 13-5-1972, với một tốp máy bay ném bom điều khiển bằng laze (từ độ cao 4200m, cách mục tiêu 3000 ¸ 4000m.) đã phá hỏng cầu, mà không có máy bay nào bị bắn rơi.
Điều đáng chú ý là, nếu như trong chiến tranh vùng vịnh (1991) Mỹ và liên quân mới sử dụng gần 8% vũ khí điều khiển chính xác thì trong chiến dịch "Con cáo sa mạc” (12-1998) con số đó là 50% và trong chiến tranh Nam Tư, Mỹ - NATO đã sử dụng vũ khí điều khiển chính xác là 98%.
Để không kích Nam Tư, Mỹ - NATO đã sử dụng với số lượng lớn máy bay tiêm kích tàng hình F117A, máy bay ném bom chiến lược tàng hình B2, máy bay ném bom chiến lược đa năng tầm xa dạng cánh thay đổi B1B, máy bay ném bom chiến lược B52, các loại máy bay tiêm kích đa năng: F14, F15, F16, F/A18, máy tiêm cường kích MIRAGE F-1, máy bay tiêm kích đánh chặn đa năng MIRAGE 2000, mấy bay tiêm cường kích TORNADO... và máy bay tiếp dầu đa năng KC135, máy bay trực thăng vũ trang AH64 APACHE, máy bay trực thăng vận tải hạng trung CH47.
Ngoài máy bay Mỹ-NATO còn sử dụng một số lượng lớn tên lửa hành trình Tomahawk cải tiến, các loại bom, đạn "tinh khôn".
Các loại máy bay B2, F117A... có tầm hoạt động toàn cầu (nếu được tiếp dầu trên không). Máy bay F117A được lắp hệ thống quản lý bay 4 chiều, bản đồ số di động, bộ cảm biến chỉ thị và bắt mục tiêu hồng ngoại, hệ thống đạo hàng quán tính INS, hệ thống đạo hàng theo vệ tinh toàn cầu GPS. Máy bay F117A có diện tích phản xạ hiệu dụng 0,0025m2. Máy bay B2 được lắp hệ thống định vị toàn cầu, có chế độ tự động bay bám len lỏi theo địa hình, hệ thống dẫn đường quán tính kết hợp dẫn bằng vệ tinh GPS. Trong các chiến dịch đánh đêm vào Nam Tư, ngay từ ngày đầu 24-3- 1999, 2 máy bay B2 đã ném bom từ độ cao lớn với sự hỗ trợ của hệ thống định vị toàn cầu GPS. Máy bay B2 cắt cánh từ căn cứ không quân (sân bay Mitxuri) trên đất Mỹ, vượt Đại Tây Dương trong 30h. Máy bay B2 mang được 16 tấn bom có điều khiển dùng để công kích chính xác các trạm rađa phòng không cố định. Độ chính xác của bom từ 3¸13m, bom có trọng lượng 907 kg. Bom JDAM được điều khiển nhờ hệ thống định vị toàn cầu GPS trong mọi điều kiện thời tiết, ngày, đêm… Máy bay B2 là loại máy bay siêu tàng hình, có diện tích phản xạ hiệu dụng 0,001 m2… Tên lửa Tomahawk có tầm bắn 900 ¸ 2500km, tên lửa có hệ thống tự dẫn đường bằng kỹ thuật ảnh hồng ngoại hoặc rađa laze, có thể nhận biết, lựa chọn mục tiêu điểm, hoặc dùng hệ dẫn quán tính, bay bám theo địa hình, hệ thống điều chỉnh và tương hợp địa hình số hoá kết hợp với hệ định vị toàn cầu GPS, sai số trong vòng 9m.
Về cách đánh của Mỹ và NATO trong cuộc chiến theo kiểu leo thang đã được tính toán rất kỹ. Lúc đầu Mỹ và NATO chỉ huy động khoảng 400 máy bay các loại, nhưng sau hơn một tháng (đầu tháng 5-1999) đã huy động tới 1000 chiếc máy bay các loại (riêng Mỹ có 650 chiếc), số lượng tên lửa hành trình cũng tăng thêm, các tàu chiến, tàu bảo đảm cũng được điều động ngày càng tăng tới vùng biển Adrialic. Về mục tiêu đánh phá, lúc đầu chỉ tập trung vào các mục tiêu quân sự (các trận địa phòng không, doanh trại quân đội, các sở chỉ huy, sân bay quân sự nhà máy quốc phòng...) sau chúng chuyển sang đánh các mục tiêu đần sự, kinh tế, đầu mối giao thông, cầu cống, các bệnh viện, trường học… Bom đạn của Mỹ và NATO đã giết hại, làm bị thương hàng nghìn dân thường trong đó có nhiều cụ già, phụ nữ và trẻ em. Đúng vào ngày quốc tế lao động l-5, tên lửa của Mỹ và NATO đã bắn trúng một xe buýt chở khách đang đi trên một chiếc cầu cách thủ phủ Prextina của Côxôvô 21km, làm ít nhất 60 người chết, chủ yếu là dân thường và người nước ngoài. Từ đánh xa thủ đô tiến tới đánh gần thủ đô, sau đó đánh thẳng vào thủ đô, tập trung chủ yếu vào các cơ quan lãnh đạo đầu não và phương tiện thông tin truyền thông của Nam Tư, sau đó đánh tất cả các mục tiêu trên toàn lãnh thổ Nam Tư.
Qua cuộc chiến tranh, theo thống kê chưa đầy đủ, Nam Tư đã bắn rơi 32 máy bay các loại của Mỹ và NATO. Đã có 88 binh sĩ NATO bị mất tích, khoảng một nửa trong số đó là lính Mỹ, 11 lính Đức, 8 lính Pháp, 7 lính Anh và 18 binh sĩ của các nước thành viên NATO khác.
Tổng kết lại, trong cuộc chiến Nam Tư, bằng tiến công đường không, Mỹ - NATO sau hơn một tháng đã phá huỷ hơn 200 mục tiêu, làm Nam Tư thiệt hại hơn 200 tỷ USD mà chỉ tiêu tốn khoảng 3 tỷ USD.
Các phương tiện mang bom, đạn, tên lửa... xuất phát từ xa hàng nghìn, vạn km, phóng (thả) từ cự ly an toàn. Trinh sát mục tiêu, tổ chức chỉ huy hiệp đồng, điều khiển hoả lực, tác chiến điện tử, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật… đều được thực hiện từ xa, không trực tiếp tiếp xúc trên chiến trường. Điều này cho phép giảm thiểu phí tổn, tăng tính kịp thời, tránh tổn thất, giảm cảm giác sợ hãi cho quân nhà, tránh vấn đề nhạy cảm về nhân đạo trong phản đối chiến tranh, thay thế sự hiện diện của bộ binh, xe tăng... trực tiếp trên chiến trường, giảm thiểu khả năng sa lầy, gây khó khăn, phức tạp trong phòng chống, giảm khả năng đánh trả của đối phương.
Với vũ khí điều khiến chính xác từ xa, tất cả các mục tiêu ở bất kỳ khu vực nào của đất nước đều có thể bị tiến công, chiến tuyến các cấp (chiến thuật, chiến dịch, chiến lược) không được phân định. Muốn chống trả sự xâm lược bằng vũ khí đường không cần có hệ thống phòng không toàn quốc, phát hiện mục tiêu trên không cách xa mục tiêu cần bảo vệ hàng trăm, hàng nghìn km mới đủ thời gian chuẩn bị đánh trả.
Các đòn tiến công được thực hiện từ xa, trên các hướng, độ cao hoàn toàn khác nhau, chúng được tập trung lại theo yêu cầu tác chiến, thay vì sử dụng ồ ạt, mật độ lớn của đội hình phương tiện tiến công hoặc sô lượng lớn bom đạn, tên lửa vào một mục tiêu, thường chỉ sử dụng tốp nhỏ, chiếc lẻ tiến công chính xác để diệt các mục tiêu điểm.
Trong cuộc chiến tranh Nam Tư, bằng sức mạnh của không quân, Mỹ - NATO đã tàn phá các cơ sở kinh tế, huỷ hoại tiềm lực quân sự, làm mất khả năng và cả ý chí chiến đấu của Nam Tư.
Qua cuộc chiến tranh Nam Tư, ta thấy nổi lên những đặc điểm tác chiến mới của nước có tiềm lực quân sự mạnh đối với nước yếu hơn đó là:
Không kích và không kích theo kiểu ''phẫu thuật ngoại khoa'' bằng vũ khí công nghệ cao có độ chính xác cao đã trở thành một phương thức chiến tranh hiện đại. Đánh chính xác từ xa, không chiến tuyến, không trực tiếp tiếp xúc, không cân xứng đã trở thành dạng thức cơ bản của nước có lực lượng quân sự hùng mạng răn đe vũ lực đối với một nước có lực lượng quân sự yếu kém hơn.
KHÔNG QUÂN NHÂN DÂN VIỆT NAM
Trong kháng chiến chống Mỹ, không quân làm nhiệm vụ tác chiến phòng không, bảo vệ miền Bắc XHCN và chi viện cho miền Nam. Trong thời kỳ hiện nay, yêu cầu xây dựng lực lượng không quân đòi hỏi lớn hơn trước rất nhiều vì đây là lực lượng tiến công, yểm trợ, bảo vệ, chi viện cho các chiến trường, các binh đoàn trên bộ, trên biển. Nhiệm vụ này đòi hỏi phải xây dựng và phát huy truyền thống quí báu của các thế hệ đi trước đã xây dựng lên.
Sự hình thành và phát triển của không quân Việt Nam :
Lực lượng không quân của ta mới chỉ được bắt đầu xây dựng từ tháng 10- 1954 khi ta tiếp quản các sân bay của Pháp ở miền Bắc.
Ngày 3-3-1955, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng quốc phòng nước VNDCCH ký quyết định số 15/QĐA thành lập “Ban nghiên cứu sân bay" mang phiên hiệu C-47 do Đồng chí Trần Quý Hai làm trưởng ban, đến cuối 1958 đổi thành cục không quân.
Ngày 1-5-1959 đội bay vận tải đầu tiên được thành lập và sau này trở thành trung đoàn 919 - trung đoàn không quân đầu tiên của quân đội ta. Cùng với việc thành lập trung đoàn 919 một cơ sở sửa chữa máy bay và một lớp đào tạo thợ máy bay cũng ra đời.
Ngày 30-5-1963 thay mặt bộ trưởng quốc phòng, trung tướng thứ trưởng Hoàng Văn Thái đã ký quyết định số 1 8/QĐ thành lập trung đoàn không quân tiêm kích, mang phiên hiệu trung đoàn không quân 921 .
Ngày 3-2-1964 tại sân bay Mông Tự (Trung Quốc), "Lễ ra mắt chính thức công khai của trung đoàn không quân tiêm kích đầu tiên của không quân NDVN được tiến hành" đánh dấu sự hình thành và phát triển của không quân chiến đấu Việt Nam.
Ngày 10-3-1977 quân chủng không quân được thành lập là 1 trong 4 quân chủng quân đội NDVN.
Ngày nay quân chủng phòng không và quân chủng không quân hợp nhất lại là: Quan chủng phòng không - không quân. Từ một đội bay vận tải (1954) đến một trung đoàn không quân tiêm kích (1964), ngày nay không quân ta đã trở thành một lực lượng hoàn chỉnh trong quân chủng PK - KQ bao gồm:
Các sư đoàn không quân tiêm kích, tiêm kích bom.
Các trung đoàn máy bay vận tải, trực thăng, trực thăng vũ trang.
Hệ thống sân bay nằm trên các địa bàn quan trọng trên phạm vi cả nước, đảm bảo cho tất cả các loại máy bay hiện đại hạ cánh, cất cánh.
Hệ thống các nhà máy, kho tàng hiện đại, có thể sửa chữa lớn các loại máy bay và sản xuất phụ tùng thay thế.
Hệ thống các nhà trường đào tạo phi công, cán bộ tham mưu, cán bộ kỹ thuật có trình độ đại học và sau đại học.
Như vậy, ta có thể thấy rằng lực lượng Không quân Nhân dân Việt Nam đã có những bước phát triển nhanh và rất vững chắc.
Truyền thống vẻ vang của không quân Việt Nam
Từ 1959¸1964, tuy còn non trẻ, không quân ta đã hoàn thành nhiều nhiệm vụ quan trọng như: bay chuyên cơ, vận chuyển trong nước và quốc tế. Đặc biệt. trong những năm 1960¸962, không quân ta đã hoàn thành nhiều nhiệm vụ bay tiếp tế, thả dù, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ chiến đấu trên chiến trường Đông Dương.
Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của không quân đế quốc Mỹ, không quân Việt Nam non trẻ phải đương đầu với một đối tượng tác chiến dày dạn kinh nghiệm, có số lượng đông, được huấn luyện bài bản, có trang bị kỹ thuật hiện đại.
Khi bước vào cuộc chiến đấu với không quân nhà nghề Mỹ, không quân ta chỉ có một số lượng ít ỏi máy bay MIG-17 của trung đoàn không quân tiêm kích 921 . Nhiệm vụ của không quân lúc này là sẵn sàng chiến đấu “mở mặt trận trên không thắng lợi" đánh thắng trận đầu. Chủ trương của ta là lấy đánh nhỏ để diệt địch và rèn luyện bộ đội. Những diễn biến trên không của cuộc đối đầu giữa không quân ta và không quân Mỹ có thể được tóm tắt như sau:
Ngày 3-4-1965 , không quân Mỹ đánh khu vực cầu Hàm Rồng (Thanh Hoá). Chớp thời cơ, nắm chắc âm mưu thủ đoạn của địch, tận dụng yếu tố bất ngờ, biên đội 4 máy bay MIG-17 đã xuất kích trận đầu, bắn rơi: 2 máy bay 8U của không quân hải quân Mỹ, “Mở mặt trận trên không thắng lợi”. Ngày 3-4 trở thành ngày truyền thống của bộ đội không quân.
Ngày 4-4 mặc dù địch đông hơn ta gấp bội, nhưng với ý chí quyết thắng và tinh thần dũng cảm ngoan cường, 4 máy bay MIG-17 của ta đã bắn rơi 2 máy bay F-105 (thần sấm) của không quân Mỹ. Đây là mốc lịch sử đánh dấu bước phát triển của không quân ta.
Trước đó 15-2-1965 các phi công của ta là Nguyễn Văn Ba và Lê Tiến Phước đã dùng 1 máy bay T-28 ta thu được của địch bắn rơi 1 máy bay C-1 23 của Mỹ - Nguỵ trên vùng trời biên giới Việt Lào khi chúng bay vào thả biệt kích trên lãnh thổ chúng ta.
Từ tháng 4-1965 đến tháng 6-1966, không quân ta đã xuất kích chiến đấu 24 trận, bắn rơi 26 máy bay các loại của Mỹ.
Năm 1967-1968, Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc một cách toàn diện, quy mô lớn, liên tục và ác liệt hơn. Cuộc chiến đấu của không quân ta ngày càng khẩn trương, quyết liệt, không quân ta vừa phải tập trung lực lượng cùng với các lực lượng phòng không khác. Đánh bại các bước leo thang của địch bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng và chấp hành các nhiệm vụ khác, vừa phải nổ lực nhanh chóng nâng cao chất lượng bộ đội để đáp ứng yêu cầu phái triển về tổ chức và trang bị mới, để giành thắng lợi lớn hơn.
Những trận đầu đánh thắng có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị, quân sự “hạ uy thế của không lực Hoa Kỳ "mở đầu truyền thống chiến thắng vẻ vang của Không quân Nhân dân Việt Nam.
Thời kỳ sau này không quân ta đã được trang bị máy bay tiêm kích MIG-21 hiện đại hơn, lực lượng được bổ sung dồi dào hơn. Do đó ta đã mở rộng phạm vi hoại động, đánh địch từ xa, trên nhiều hướng, nhưng vẫn giữ được yếu tố bí mật, bất ngờ, càng ngày càng phát huy được tính năng và sở trường của từng loại máy bay. MIG-21 đánh xa (ngoài phạm vi của hoả lực phòng không ) với các phương pháp dẫn đường thích hợp dùng tốp nhỏ, chiếc lẻ tiến công vào đội hình lớn của địch. Từ đó phát triển thành chiến thuật " đánh nhanh thọc sâu”. MIG - 17 được chỉ đạo đánh gần, độ cao thấp, kết hợp cơ động mắt bằng với động cơ thẳng đứng. Cơ động mặl bằng nhanh phải thay đổi tâm lượn, tạo được yếu tố bất ngờ, đánh nhanh, rút nhanh, không ham quần lâu với địch. Trong mọi trường hợp phải giữ tốt đội hình cảnh giới, đánh có công kích, có yểm hộ, rút khỏi chiến đấu đúng lúc, đúng thời cơ, chú trọng cơ động độ cao thấp, lợi dụng hoả lực cao xạ yểm trợ để về căn cứ an toàn.
Khi đánh hiệp đồng hai loại máy bay đã hỗ trợ chi viện cho nhau cả về chiến thuật và hoả lực. Ví dụ trận đánh hiệp đồng giữa MIG-21 và MIG-17 ngày 23-08-1967 tại Tuyên Quang, Thanh Sơn (Vĩnh Phú).
Ta đã dùng một biên đội 2 máy bay MIG-21 và biên đội 4 máy bay MIG-17, hiệp đồng chiến đấu bắn rơi 4 máy bay Mỹ (2 máy bay F-4 và 2 máy bay F-105).
Trận đánh máy bay cường kích của trung đoàn không quân tiêm kích 921. Ngày 18-11-1 967 tại thanh Sơn - Hạ Hoà (Vĩnh Phú).
Ta đã dùng biên đội 2 máy bay MIG-21 , trang bị tên lửa K-13 bắn rơi tại chỗ 2 máy bay F-105 của địch.
Trận đánh máy bay gây nhiễu điện tử EB-66 của trung đoàn không quân tiêm kích 921 ngày 19-11-1967 tại Lang Chánh - Hồi Xuân (Thanh Hoá) Ta đã dùng biên đội 2 máy bay MIG-21 trang bị tên lửa K-13 (mỗi máy bay 2 quả) đã bắn rơi 1 máy bay gây nhiễu EB-66 của Mỹ, tạo điều kiện cho bộ đội tên lửa và pháo cao xạ đánh 1 trận thắng lớn, bắn rơi 8 máy bay vừa cường kích và tiêm kích của địch, bẻ gãy một đợt tấn công quy mô lớn của chúng vào Hà Nội.
Từ cuối năm 1969, không quân ta đã cơ động một lực lượng MIG-17 và MIG-21 vào Thọ Xuân (Thanh Hoá) để hoạt động chiến đấu trên chiến trường Nam khu 4 và trực tiếp bảo vệ các (chân hàng) cửa khẩu trên tuyến hành lang chiến lược, trong đó có nhiệm vụ quan trọng và mới mẻ là chuẩn bị đánh máy bay chiến lược B-52. Tổ chức theo dõi, nghiên cứu sự hoạt động của B - 52. Trong những năm 1970-1971, MIG-21 đã đánh thắng một số trận, bắn rơi các loại máy bay địch: trinh sát không người lái F-4, trực thăng CH-53, và bắn bị thương máy bay chiến lược B-52 làm cho địch hoảng sợ phải ngừng hoại động một thời gian, tạo điều kiện cho vận chuyển tiếp tế vào chiến trường Miền Nam.
Ngày 19-4-1972 hai máy bay MIG-17 đánh bị thương nặng hai tàu khu trục của Mỹ, trên vùng biển Quảng Bình, mở ra triển vọng mới làm tiền đề cho việc xây dựng và chiến đấu của bộ đội không quân tiêm kích bom sau này.
Tháng 4-1972, đế quốc Mỹ đánh phá trở lại trên toàn bộ miền bắc Việt Nam. Ngay từ đầu của cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai, địch đã tổ chức đối phó toàn diện với không quân ta bằng cách đánh thay đổi: tăng tỷ lệ tiêm kích yểm trợ từ 1/1 đến 3/1, giảm số lượng cường kích, sử dụng đội hình linh hoạt; gây nhiễu trên diện rộng, hoạt động ở nhiều độ cao khác nhau, xâm nhập từ nhiều hướng, bay thấp, đánh lén, đánh chặ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111072.doc