Trong điều kiện đổi mới đất nước một nhiệm vụ trọng đại đang đứng trước toàn Đảng, toàn dân ta là thực hiện một bước cải cách nền hành chính Nhà nước. Mục tiêu của công cuộc cải cách đó là nhằm xây dựng một nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng quyền lực và từng bước không ngừng hoàn thiện để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc Nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong xã hội. Đảng lãnh đạo nhân dân lao động làm chủ chỉ có thể thực hiện được thông qua pháp luật và được bảo đảm bằng pháp luật. Một xã hội tiến bộ có kỷ cương, nề nếp, chủ yếu được điều chỉnh bằng pháp luật, không chỉ với ý nghĩa là một sức mạnh cưỡng chế mà còn là công cụ giáo dục.
Vì vậy tôi chọn đề tài “Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tình hình đổi mới ở nước ta hiện nay” để làm niên luận.
Mục đích đề tài:
+ Nghiên cứu một cách có hệ thông quan điểm lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin và của Đảng và Nhà nước ta về pháp chế xã hội chủ nghĩa.
+ Phân tích thực trạng pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay từ đó đề ra một số phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa hiện nay của nước ta.
25 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 5801 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tiểu luận Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tình hình đổi mới ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TÂM LÝ HỌC
------
NIÊN LUẬN
Đề tài:
TĂNG CƯỜNG PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG TÌNH HÌNH ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong điều kiện đổi mới đất nước một nhiệm vụ trọng đại đang đứng trước toàn Đảng, toàn dân ta là thực hiện một bước cải cách nền hành chính Nhà nước. Mục tiêu của công cuộc cải cách đó là nhằm xây dựng một nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng quyền lực và từng bước không ngừng hoàn thiện để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc Nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong xã hội. Đảng lãnh đạo nhân dân lao động làm chủ chỉ có thể thực hiện được thông qua pháp luật và được bảo đảm bằng pháp luật. Một xã hội tiến bộ có kỷ cương, nề nếp, chủ yếu được điều chỉnh bằng pháp luật, không chỉ với ý nghĩa là một sức mạnh cưỡng chế mà còn là công cụ giáo dục.
Vì vậy tôi chọn đề tài “Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tình hình đổi mới ở nước ta hiện nay” để làm niên luận.
Mục đích đề tài:
+ Nghiên cứu một cách có hệ thông quan điểm lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin và của Đảng và Nhà nước ta về pháp chế xã hội chủ nghĩa.
+ Phân tích thực trạng pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay từ đó đề ra một số phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa hiện nay của nước ta.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I. Qan niệm về pháp chế xã hội chủ nghĩa
Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây đã hình thành lý thuyết về pháp chế xã hội chủ nghĩa. Xét về nội dung, những quan niệm về pháp chế rất gắn với những quan niệm về nhà nước pháp quyền, vì pháp chế xã hội chủ nghĩa là một phương pháp của chuyên chính vô sản thì nhà nước pháp quyền cũng là một phương pháp để quản lý xã hội.
- Pháp chế xã hội chủ nghĩa là sự đòi hỏi các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các viên chứ và mọi công dân phải triệt để tuân theo và chấp hành thường xuyên nghiêm chỉnh những luật, những văn bản dưới luật.
Xã hội là một cộng đồng người. Trong tập thể đó thường xuyên nảy sinh những quan hệ mà bất kỳ xã hội nào cũng có những quy tắc, những tiêu chuẩn xã hội hợp lý điều chỉnh tương ứng để thực hiện việc tổ chức đời sống xã hội. Trong những hệ thống các vi phạm xã hội điều chỉnh các quan hệ xã hội, thì hệ thống quy phạm pháp luật có vị trí quan trong trong việc bảo đảm lợi ích cơ bản và mục tiêu xã hội.
Hiệu lực của những văn bản pháp luật có được pháp huy hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó, việc các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, nhân viên nhà nước và công dân tuân theo và chấp hành pháp luật là yếu tố cơ bản. Điều đó quyết định ảnh hưởng của pháp luật đối với xã hội. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa thể hiện mối tương quan giữa hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, hành vi xử sự của công dân với những quy phạm pháp luật.
Pháp chế chỉ có thể được củng cố ,tăng cường chỉ có một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ phù hợp với cơ sở kinh tế và xã hội.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước phải được tiến hành theo đúng luật, mọi nhân viên Nhà nước đều phải nghiêm chỉnh và triệt để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo luật định. Chống mọi khuynh hướng, biểu hiện lợi dụng quyền hạơ thoái thác, không tuân theo và chấp hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ pháp luật của mình. Do đó hiến pháp xác định : Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước ta. Nguyên tắc này là thống nhất đối với tất cả các cơ quan Nhà nước. Điều này bảo đảm hiệu lực quản lý Nhà nước cần thiết cho việc tổ chức lại các quan hệ xã hội, tránh khỏi những sự lợi dụng, những lỗ hổng để phá rối trật tự, kỷ cương xã hội chủ nghĩa. Lênin đã chỉ ra rằng : “hễ hơi làm trái pháp luật, hơi làm mất trật tự Xô viết một chút, thế là đã có một lỗ hổng cho bọn thù địch của người lao động lợi dụng ngay”.
Trong xã hội ta các đoàn thể và các tổ chức quần chúng ngày cnàg được Đảng và Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện để các tổ chức này phát huy vai trò của mình tỏng quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Mỗi tổ chức đoàn thể để có phương thức và nguyên tắc hoạt động riêng. Song các tổ chức ấy vẫn phải tôn trọng và tuân theo nguyên tắc pháp chế nghĩa là trong tổ chức và hoạt động của mình. Các đoàn thể phải dựa trên cơ sở những quy định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành. Đồng thời, các đoàn thể và tổ chức quần chúng phải có trách nhiệm động viên giáo dục thành viên của mình tôn trọng và tuân theo pháp luật nhà nước.
Đảng cộng sản Việt Nam là người “lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội” nhưng sự lãnh đạo của Đảng phải tôn trọng nguyên tắc Pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Mọi công dân phải tuân theo pháp luật, được sử dụng các quyền và thực hiện mọi nghĩa vụ do pháp luật quy định.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc xử sự theo pháp luật của công dân, trong mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước, công dân với các tổ chức xã hội, quan hệ giữa công dân với nhau, mọi người xử sự theo pháp luật. Tôn trọng pháp luật của mọi công dân là điều kiện cơ bản để đảm bảo công bằng xã hội. Bình đẳng trước pháp luật cũng là điều kiện cho mỗi người được tự do phát triển.
Trong xã hội chủ nghĩa pháp chế quan hệ chặt chẽ với dân chủ. Trong mỗi quan hệ này, dân chủ xã hội chủ nghĩa là cơ chế để củng cố và tăng cường pháp chế, mặt khác, pháp chế xã hội chủ nghĩa là phương tiện cần thiết để bảo vệ, củng cố và mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Dân chủ càng mở rộng thì càng phải tăng cường pháp chế. Vì pháp chế bảo đảm thực hiện nguyên tắc dân chủ, xây dựng tính tổ chức kỷ luật, trật tự, thiết lập kỷ cương xã hội, kỷ luật nhà nước và công bằng xã hội.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, việc lập lại trật tự pháp luật là một yêu cầu vừa cơ bản vừa cấp bách. Tư tưởng đó đã được thể hiện trong đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Chỉ trên cơ sở một trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa ổn định, mới có thể giải quyết có hiệu quả những nhiệm vụ kinh tế - xã hội đặt ra và mới có ổn định chính trị để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới toàn diện tiến lên. Do đó, có thể nói : “thi hành phápluật là thực hiện đường lối chính sách của Đảng” điều đó có nghĩa là trật tự pháp luật là điều kiện để thực hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là thể hiện trên thực tế hiệu lực và hiệu quả của quản lý Nhà nước, quản lý xã hội là làm cho chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được hình thành và thực hiện.
Chúng ta không thể chỉ đánh giá pháp chế qua việc ban hành nhiều luật hay ít, xử lý có nghiêm hay không khi có vi phạm mà phải đánh giá một cách tổng quát. Mặt khác, kết quả thể hiện rõ nét nhất của tình trạng pháp chế là trật tự trong xã hội tốt, môi trường sống an toàn, không khí dân chủ và cởi mở trong đời sống, tự do bình đẳng được đề cao.
Để đảm bảo một nền pháp chế có nội dung như trên, phải thực hiện một cuộc cải cách Nhà nước và hệ thống chính trị nói chung, trong đó phải xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ấy quản lý bằng cách lấy pháp luật làm chuẩn mực cao nhất của mọi hành vi và của mọi người được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm đoán.
II. Những yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nước ta đi lên chủ nghãi xã hội trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, sản xuất nhỏ là phổ biến, Đảng và Nhà nước rất coi trọng vai trò của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng của Đảng và Nhà nước là ổn định kỷcương và lập lại trật tự được thể hiện trong các nguyên tức cơ bản sau đây :
1. Quán triệt nguyên tắc thống nhất trong việc xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật
Dựa trên quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý toàn bộ xã hội một cách tập trung và thống nhất. Pháp chế bảo đảm tính thống nhất và tập trung đó, tính thống nhất của pháp chế phản ánh sự thống nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, đồng thơi phản ánh ý chí thống nhất của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nguyên tắc pháp chế thống nhất đòi hỏi trước hết phải bảo đảm địa vị tối cao của luật, nghĩa là từ việc xây dựng pháp luật đến việc chấp hành pháp luật, luôn luôn phải xuất phát từ luật trên cơ sở luật để thi hành luật. Nói rõ hơn, pháp chế bứt buộc các cơ quan Nhà nước phải thực hiện chức năng của mình trong phạm vi thẩm quyền trên cơ sở pháp luật và phù hợp với pháp luật. Đối với cơ quan Nhà nước, cơ quan hành chính, cơ quan kinh tế hay cơ quan tư pháp đều phải như vậy. Các văn bản quy phạm do các cơ quan Nhà nước ban hành không được trái với luật. Ngay đối với cơ quan lập pháp là Quốc Hội khi ban hành luật cũng phải phù hợp với Hiến pháp, đạo luật cơ bản của Nhà nước. (Trừ trường hợp khi Quốc hội thấy cần thiết phải ra luật sửa đổi hoặc bổ xung Hiến pháp).
Thực hiện nguyên tắc pháp chế thống nhất trong hoạt động quản lý sẽ làm cho chủ trương, chính sách của Đảng thể hiện trong các văn bản pháp luật được thực hiện đầy đủ và đúng đắn từ Trung ương đến cơ sở, nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động thực tiễn của Chính quyền được củng cố, sức mạnh của Nhà nước chuyên chính vô sản được phát huy và quyền làm chủ tập thể của nhân dân được triệt để tôn trọng.
Nguyên tắc pháp chế thống nhất tuyệt đối không thể dung nạp lối quản lý “phép vua thua lệ làng”, một biểu hiện chống lại pháp luật chuyên chế dưới chế độ phong kiến. Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi “Lệ làng” phải phù hợp với pháp luật Nhà nước.
Nguyên tắc pháp chế thống nhất bác bỏ xu hướng bản vị cục bộ, núp dưới cái bóng gọi là đặc điểm địa phương, đặc điểm của ngành để tuỳ tiện không chấp hành luật hay sai pháp luật; vin vào các đặc điểm địa phương để không thực hiện các quy định trong việc vận dạng các quy luật kinh tế hoặc làm cho kinh tế địa phương phát triển không phù hợp với đường lối phát trỉên kinh tế cả nước, làm lợi ích riêng không phù hợp với lợi ích chung.
Nhà nước ta đòi hỏi phải thực hiện nguyên tắc pháp chế thống nhất, nhưng cũng rất coi trọng và khuýên khích những khả năng sáng tạo của địa phương. Trong việc tổ chức hành pháp luật Nhà nước cho phép các địa phương, các ngành, các cơ quan sản xuất và kinh doanh có quyền ra các nội quy, điều lệ thích ứng để quản lý. Nhưng những nội quy, điều lệ ấy không được trái với đường lối, chính sách chung của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
2. Tất cả các văn bản pháp luật của Nhà nước đều phải được quán triệt để tôn trọng và chấp hành một cách nghiêm chỉnh, không có một ngoại lệ nào đối với các quy phạm còn có hiệu lực, chưa được huỷ bỏ hoặc sửa đổi
Một khi pháp luật đã được ban hành theo đúng thẩm quyền và đúng thể thức do Nhà nước quy định thì không có ai có thể nói rằng nên hay không nên tuân theo và chấp hành pháp luật đó. Pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi chấp hành pháp luật một cách triệt để, vô điều kiện. Thái độ tự do , tuỳ tiện trong việc chấp hành pháp luật là trái với nguyên tắc pháp chế và không phù hợp với bản thân cơ sở kinh tế của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật là chấp hành đúng lời văn và tinh thần của các quy phạm pháp luật. Coi nhẹ bất kỳ mặt nào cũng dễ dẫn tới sai lầm trong thực tiễn (dù tự giác hay không tự giác). Nhưng nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật không có nghĩa là chấp hành một cách hình thứ, pháp chế xã hội chủ nghia đòi hỏi một mặt phải chấp hành triệt để các quy phạm pháp luật. Mặt khác vận dụng các quy phạm pháp luật ấy sao cho phù hợp với nhiệm vụ kinh tế và chính trị trong từng giai đoạn phát triển tương ứng của xã hội chủ nghĩa.
3. Mọi người phải bình đẳng trước pháp luật - pháp luật bình đẳng trước mọi người
Nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa không thừa nhận bất cứ một đặc quyền nào trong lĩnh vực thực hiện pháp luật. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa chỉ có một pháp luật và mội kỷ luật của Nhà nước cho tất cả mọi người. Đảng viên và những người ngoài Đảng, người lãnh đạo và người bị lãnh đạo không phân biệt dân tộc hay tôn giáo tất cả đều có nghĩa vụ tuân theo pháp luật và có quyền đòi hỏi người khác, cơ quan khác phải tôn trọng và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của mình. Pháp luật đã ban hành mọi người đều phải thi hành nhưnhau. Ai vi phạm đều bị xử bình đẳng.
4. Bảo vệ các quyền và tự do của công dân đã được pháp luật quy định là một yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa
Trong xã hội chủ nghĩa Việt Nam công dân có những quyền dân chủ đã được Hiến pháp quy định. Cùng với việc chăm lo đời sống nhân dân, các cơ quan Nhà nước phải đựơc tôn trọng và bảo đảm những quyền công dân mà Hiến pháp đã quy định đảm bảo thực tế của các quyền tự do của công dân, ngăn chặn kịp thời đồi với mọi sự vi phạm các quyền đó là một trong những yêu cầu quan trọng của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các công dân khi sử dụng các quyền tự do, khi được pháp luật trao cho, không được gây thiêt hại cho lợi ích của Nhà nước và xã hội, cũng như lợi ích của các công dân khác. Nhà nước phải thường xuyên quan tâm tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện các quyền và tự do của công dân một cách có hiệu quả.
Ngăn chặn kịp thời và nhanh chóng mọi sự vi phạm pháp luật. Bất cứ sự vi phạm pháp luật nào cũng đều có hại cho Nhà nước, xã hội và lợi ích của công dân, bởi thế các cơ quan Nhà nước phải phản ứng nhanh chóng và phân minh đối với những vi phạm đó.
Đảng ta đã chỉ rõ : Phải chỉnh đốn tổ chức thi hành những biện pháp có hiệu lực trừ diệt các tện nạn hối lộ, cửa quyền loại bỏ và nghiêm trị những phần tử biến chất lợi dụng danh nghĩa Đảng, chính quyền để đục khoét nhân dân, áp bức quần chúng. Các cơ quan Viện kiểm sát, Toà án, Thanh tra, An ninh dựa vào nhân dân để phát hiện và xử lý kịp thời những vụ vi phạm pháp luật, vi phạm quyền của công dân.
III. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới hiện nay ở nước ta
1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tăng cường pháp chế xa hội chủ nghĩa
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân ta, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam đã khai sinh và xây dựng Nhà nước ta đồng thời hình thành và phát triển nên pháp luật Việt Nam.
Thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lê nin - Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá cao vai trò của pháp luật, trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Luận điểm sâu sắc của Hồ Chủ Tịch về xây dựng pháp luật, lê lối làm việc và cuộc sống mẫu mực tuân theo pháp luật của người, thể hiện qua những câu nói đơn giản, dễ hiểu, là những bài học lớn đối với cán bộ, nhân dân ta đồng thời là những đóng góp quý báu cho lý luận về Nhà nước và pháp luật ở nước ta và thế giới. Tư tưởng về luật pháp của Hồ Chủ tịch được nêu lên từ nhiều thập kỷ, đến nay vẫn mang tính chất thời sự tác dụng vẫn còn nguyên vẹn.
Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu cấp thiết được Đảng đề ra theo hướng chỉ đạo của Hồ Chủ Tịch, để nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước và bảo đảm quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động. Từ sau đại hội lần thứ VI của Đảng, đất nước ta có những biến đổi rõ rệt trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Nhưng tình hình kinh tế xã hội còn khó khăn, gay gắt, kỷ cương pháp luật trong quản lý Nhà nước còn bị buông lỏng. Việc thể chế hoá đường lối, chính sách chậm chạp, pháp luật chưa thực sự được tuân theo và chấp hành nghiêm chỉnh. Để củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước được thể hiện qua cá văn kiện ...
Sau khi Nhà nước ban hành pháp luật về việc tổ chức thực hiện pháp luật giữ vị trí quan trọng. Việc quan trọng mà Đảng vầ Nhà nước quan tâm là phải giáo dục nâng cao ý thức pháp luật được Đảng ta nhấn mạnh trong báo cáo chính trị tại đại hội VI: “Coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật. Đưa việc dạy pháp luật vào hệ thống các trường của Đảng, của nhà nước (kể cả các trường phỏ thông và đại học) của các đoàn thể nhân dân”. Trong bài phát biểu tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá VIII, đồng chí Nguyễn Văn Linh cố vấn BCH Trung ương Đảng đã nhấn mạnh : “Việc soạn thảo và thông qua luật pháp cũng như các Nghị quyết lớn dù quan trọng nhưng cũng chỉ là phần đầu của công việc, khó khăn lớn nhất là đưa chúng vào cuộc sống, biến chúng thành hoạt động thực tiễn hàng ngày của quảng đại quần chúng”.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm bảo kỷ cương, duy trì tật tự xã hội phải kịp thời đấu tranh kiên quyết với những hành vi, vi phạm pháp luật và tội phạm. Đảng cộng sản Việt Nam là người “lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội”, nhưng sự lãnh đạo của Đảng cũng không tách rời nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong cương lĩnh của Đảng đã ghi : “Đảng lãnh đạo, hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên kết mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Trong báo cáo chính trị tại đại hội VII của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục tiến hành cương quyết và thường xuyên cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Phương hướng cơ bản để khắc phục tệ tham nhũng là phải xây dựng và hoàn chỉnh bộ máy cơ chế quản lý và pháp luật, xử lý nghiêm minh những người vi phạm”. Theo Lê nin tính nghiêm minh của pháp luật “... Hoàn toàn không phải ở chỗ hình phạt đó nặng, mà ở chỗ đã phạm tội thì không thoát khỏi bị trừng phạt”.
2. Nội dung tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong điều kiện đổi mới hiện nay ở nước ta
Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một chế độ xã hội có tổ chức, được xây dựng bằng lao động tự giác tích cực và sáng tạo của nhân dân lao động nhằm đạt tới những mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Để đạt được những mục tiêu đó phải thường xuyên tăng cường vai trò và phát huy hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, trong đó việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa có vị trí vai trò quan trọng. Tăng cường pháp chế là một quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, phù hợp với những điều kiên, những đặc điểm và những nhiệm vụ phải thực hiện trong từng giai đoạn cách mạng. Vì vậy, việc tăng cường pháp chế trong giai đoạn cách mạng hiện nay, vừa cơ bản, vừa cấpbách, trong bài phát biểu về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội tại kỳ họp thứ X. Quốc hội khoá VIII, đồng chí Võ Văn Kiệt - Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã chỉ rõ “Một điều hết sức cơ bản, có ý nghĩa quyết định sự thành bại của mỗi nhiệm vụ chủ trương chính sách là phải thiết lập cho được trật tự kỷ cương theo cơ chế mới”.
Tình trạng coi thường phép nước trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đã nghiêm trọng đến mức nguy hiểm. Trật tự kỷ cương đã hết sức lỏng lẻo, chẳng những đã gây thiệt hại về vật chất mà còn làm suy thoái bản chất vốn có của người Việt Nam. Nếu không tăng cường pháp chế, ngăn chặn, chấn chỉnh, xoá bỏ tình trạng vô tổ chức, vô chính phủ, vô kỷ luật, không chấp hành nghiêm chỉnh và đầy đủ pháp luật Nhà nước thì chảng những sự nghiệp đổi mới không thực hiện được mà còn có thể bị biến dạng đưa xã hội tới kết quả rất xấu không lường trước được.
Xuất phát từ yêu cầu trên nội dung tăng cường pháp chế trong giai đoạn hiện này là:
a- Kiện toàn các cơ quan quản lý Nhà nước và tư pháp:
Quán triệt Nghị quyết Trung ương 8 tại Hội nghịcán bộ toán quốc, đồng chí Phan Văn Khải - Phó Thủ tướng Chính phủ nói: “Cải cách nền hành chính là trọng tâm nhưng không phải tách rời mà phải gắn chặt với việc đổi mới hệ thống chính trị, trước hết là đổi mới và chỉnh đốn Đảng ; kiện toàn tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan lập pháp phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân”.
Đổi mới tổ chức và cách làm việc của Chính phủ, sẵpếp lại cán bộ, các cơ quan ngang bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ một cách hợp lý gọn nhẹ. Sửa đổi cơ cấu tổ chức, phương thức hoạtđộng và chế độ làm việc của UBND các cấp, sắp xếp lại các Sở, Phòng, Ban chuyên môn một cáh hợp lý gọn nhẹ, có hiệu quả.
Việc kiện toàn các cơ quan quản lý Nhà nước và tư pháp phải gắn liền với việc đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sắp xếp cán bộ quản lý Nhà nước và xét xử.
Cán bộ quản lý Nhà nước và cán bộ tư pháp nhất thiết phải là những người nắm vững pháp luật, để quản lý Nhà nước theo đúng pháp luật Nhà nước, phải đấu tranh khắc phục những nhận thức không đúng đắn, không đầy đủ về pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa.
b. Đẩy mạnh xây dựng pháp luật và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là tiền đề của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Muốn tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và quản lý xã hội bằng pháp luật, phải có một hệ thóng pháp luật tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ.
Hiện nay, trong xã hội còn nhiều những quan hệ xã hội cần sự điều chỉnh của pháp luật, nhưng chưa có pháp luật để điều chỉnh; trong số những văn bản đã có, còn nhiều văn bản dưới luật hoặc chồng chéo, hoặc lỗi thời, tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải “Từng bước bổ xung và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật”, phải đẩy mạnh hơn nữa công tác hệ thống hoá pháp luật, loẩi ngoài hệ thống pháp luật những văn bản không còn thích hợp với thực tế cuộc sống, đồng thời chú trọng việc xây dựng và ban hành những đạo luật mới nhất là các đạo luật lệ về kinh tế, về an ninh xã hội; trong quá trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng pháp luật, điều hết sức quan trọng là pháp luật phải phản ánh đúng quy luật khách quan và nhu cầu xã hội xã hội chủ nghĩa, phản ánh đúng và phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng và có thể thực hiện được trong thực tế cuộc sống xã hội đang phát triển.
Xây dựng pháp luật phải theo đúng thẩm quyền được quy định trong Hiến pháp, đồng thời phải bảo đảm mở rộng dân chủ xã hội chủ nghãi.
Cần phải tránh khuynh hướng cho rằng kinh tế - xã hội ta còn biến động, phải chăng chỉ xây dựng những văn bản pháp luật mang tính chất định hướng chung. Nhưng cũng cần phải tránh những quan điểm ban hành pháp luật không thếit thực đối với cuộc sống và quan điểm lấy chủ trương, chính sách của Đảng thay cho pháp luật của Nhà nước. Quan điểm này cho rằng đường lối, chính sách của Đảng linh hoạt để vận dụng sáng tạo hơn pháp luật Nhà nước.
Để mọi người thực hiện tốt pháp luật, trước hết phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật nhằm mục đích hình thành cho mọi người có ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa, ý thứ pháp luật là tiên đề tư tưởng trực tiếp nhất cho việc xây dựng và thự hiện pháp luật. Đưa việc dạy pháp luật vào hệ thống các trường của Đảng, Nhà nước, kể cả trường phổ thông, trung học, đại học, các trường của đoàn thể, cán bộ quản lý các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở, đơn vị phải có kiến thức quản lý hành chính và hiểu biết về pháp luật, pháp chế. Cần sử dụng nhiều hình thứ và biện pháp để giáo dục nâng cao ý thức pháp luật và làm tư vấn pháp luật cho nhân dân. Các cấp, các ngành, các đơn vị cởơ phải thường xuyên lo củng cố, kiện toàn tổ chức pháp chế để tạo điều kiện cho việc nắm vững và chấp hành nghiêm chỉnh những chế độ quy định của Nhà nước ban hành.
Phải bảo đảm tuân thủ, thi hành vấp dụng đúng đắn pháp luật. Tuân thủ là tự kiềm chế không vi phạm điều cấm thực hiện của pháp luật. Sử dụng là thực hiện các quyền mà pháp luật cho phép. Thi hành là thực hiện nghĩa vụ pháp lý. Áp dụng pháp luật là đặc quyền của các cơ quan Nhà nưcớ có thẩm quyền, áp dụng pháp luật là hành vi của các cơ quan Nhà nước mà chủ yếu là cơ quan hành chính Nhà nước và tài phán. Nhà nước, để ban hành các quyết định cá biệt dưới hình thức văn bản cá biệt hoặc văn nỏia lệnh, đưa ra một tình trạng pháp lý cho công dân hoặc tổ chức công dân, tổ chức Nhà nước, là sự cho phép, cấm đoán, bắt buộc hành động, quy định điều kiện, chế tài v.v... Các quyết định cá biệt có tính đơn phương và chấp hành, buộc thi hành ngay, trong trường hpj cần thiết cơ quan có thẩm quyền huy động công lực để cưỡng chế thi hành các quyết định cá biệt đo, áp dụng pháp luật là hoạt động không thể thiếu được trong tổ chức thực hiện pháp luật và bảo đảm pháp chế. Thực hiện pháp luật phải bảo đảm nguyên tắc : công dân được làm tấtcả những gì mà pháp luật không cấm, còn Nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép.
d. Tăng cường công tác kiểm tra giám sát việc thực hiện pháp luật:
Quan lý nhà nước là sự tác động có tổ chức, có hệ thống bằng pháp luật nhằm điều chỉnh có hiệu lực, hiệu quả các quan hệ xã hội theo ý chí của Nhà nước. Trong quá trình tác động điều chỉnh pháp luật Nhà nước phải thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra, giám sát loại trừ những hành vi không hợp phẩp khỏi đời sống pháp chế Nhà nước. Có thể hiểu công tác kiểm tra, giám sát là một khâu nằm trong quá trình quản lý nhà nước, thiếu khâu này bất thành quản lý. Mục đích của công tác kiểm tra, giám sát là phát hiện những sai sót trong quá trình thực hiện pháp luật để kịp thời uốn nắn, sửa chữa những sai sót đó. Vì vậy, công tác kiểm tra, giám sát nằm trong quá trình điều chỉnh pháp luật của Nhà nước.
Kiểm tra giám sát là trách nhiệm chung của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, cac tập thể lao động và mọi công dân, nhưng trực tiếp là các cơ quan dân cử, các cơ quan kiểm sát, thanh tra Nhà nước, thanh tra nhân dân. Phải tăng cường vai trò,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CNXH (14).doc