Tiểu luận Quan hệ tín dụng- Hoạt động đi vay để cho vay của ngân hàng

Từ năm 1990 đến nay ngành ngân hàng đã trải qua quá trình đổi mới tuy chưa dài nhưng đã đạt được nhiều thành tựu nhất định. Kết quả đổi mới hoạt động ngân hàng đã góp phần xứng đáng vào kết quả đổi mới chung của nền kinh tế mà nét nổi bật là đã góp phần đẩy lùi và kiềm chế lạm phát thúc đẩy kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên hoạt động ngân hàng ở nước ta hiện đang gặp nhiều khó khăn và còn không ít tồn tại cần phải giải quyết nhất là trong khâu kinh doanh tín dụng của ngân hàng thương mại.

Tín dụng được coi là mặt trận hàng đầu là khâu then chốt kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Nó có tầm quan trọng rất lớn đối với nền kinh tế. Với vai trò là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư ,tín dụng huy động những ngồn vốn nhàn rỗi trong dân cư để cho vay với nền kinh tế ,đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế mang lại hiệu quả kinh tế xã hội và mang lại chính lợi ích cho ngân hàng.Thực tế cho thấy, trên thế giới cũng như tại nước ta ngân hàng luôn luôn đi tiên phong trong mọi hoạt động kinh tế , nhất là trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay Hoạt động tín dụng chưa an toàn và chất lượng chưa cao không chỉ là mối quan tâm của ngân hàng mà của toàn xã hội. Bởi vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng tín dụng là một yêu cầu cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng và quyết định cả về mặt lý thuyết và thực tiễn hiện nay.

Với mong muốn tìm hiểu thêm về một hoạt động cơ bản và quan trọng nhất của một ngân hàng thương mại cả về mặt lý luận và thực tiễn em chọn đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại . Do tính chất rộng của đề tài đó là quan hệ tín dụng- hoạt động đi vay để cho vay của ngân hàng, do đó bài luận chỉ tập chung chủ yếu vào hoạt động cho vay của ngân hàng.

 

doc30 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1071 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tiểu luận Quan hệ tín dụng- Hoạt động đi vay để cho vay của ngân hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i. Mở đầu Từ năm 1990 đến nay ngành ngân hàng đã trải qua quá trình đổi mới tuy chưa dài nhưng đã đạt được nhiều thành tựu nhất định. Kết quả đổi mới hoạt động ngân hàng đã góp phần xứng đáng vào kết quả đổi mới chung của nền kinh tế mà nét nổi bật là đã góp phần đẩy lùi và kiềm chế lạm phát thúc đẩy kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên hoạt động ngân hàng ở nước ta hiện đang gặp nhiều khó khăn và còn không ít tồn tại cần phải giải quyết nhất là trong khâu kinh doanh tín dụng của ngân hàng thương mại. Tín dụng được coi là mặt trận hàng đầu là khâu then chốt kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Nó có tầm quan trọng rất lớn đối với nền kinh tế. Với vai trò là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư ,tín dụng huy động những ngồn vốn nhàn rỗi trong dân cư để cho vay với nền kinh tế ,đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế mang lại hiệu quả kinh tế xã hội và mang lại chính lợi ích cho ngân hàng.Thực tế cho thấy, trên thế giới cũng như tại nước ta ngân hàng luôn luôn đi tiên phong trong mọi hoạt động kinh tế , nhất là trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay Hoạt động tín dụng chưa an toàn và chất lượng chưa cao không chỉ là mối quan tâm của ngân hàng mà của toàn xã hội. Bởi vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng tín dụng là một yêu cầu cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng và quyết định cả về mặt lý thuyết và thực tiễn hiện nay. Với mong muốn tìm hiểu thêm về một hoạt động cơ bản và quan trọng nhất của một ngân hàng thương mại cả về mặt lý luận và thực tiễn em chọn đề tài ‘Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại ‘. Do tính chất rộng của đề tài đó là quan hệ tín dụng- hoạt động đi vay để cho vay của ngân hàng, do đó bài luận chỉ tập chung chủ yếu vào hoạt động cho vay của ngân hàng. ii. Một số khái luận cơ bản 1. Khái niệm tín dụng Tín dụng là quan hệ vay mượn tạm thời sử dụng vốn của nhau dựa trên nguyên tắc hoàn trả và sự tin tưởng Sinh ra từ nền sản xuất hàng hóa ,tín dụng gắn liền với sự luân chuyển vốn của quá trình tái sản xuất và được thể hiện thông qua sự vận động giá trị vốn tín dụng dưới hình thức tiền tệ với đặc trưng nổi bật của nó là sự hoàn trả luân được bảo tồn về mặt giá trị và có phần tăng thêm nhờ phần lợi tức. Đây cũng là nguyên tắc bắt buộc trong hoạt động tín dụng. Về mặt hình thức ,sự hoàn trả được thực hiện trên cơ sở thoả thuận bằng hợp đồng tín dụng giữa người cho vay và người đi vay. 2. Chức năng của tín dụng Tập trung tích tụ phân phối lại vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trên nguyên tắc hoàn trả. Đây là chức năng chủ yếu của tín dụng phản ánh bản chất của tín dụng. Do quá trình luân chuyển vốn của các loại hình doanh nghiệp khác nhau sẽ có khác nhau về nhu cầu về vốn. Hơn nữa ngay trong bản thân một doanh nghiệp quá trình luân chuyển các loại vốn cũng khác nhau nên trong nền kinh tế hàng hóa luôn luôn xảy ra hiện tượng tạm thời thừa hoặc thiếu vốn. Thông qua hoạt động tín dụng vốn tiền tệ được từ nơi tạm thời thừa đến những nơi tạm thời thiếu. Ngoài việc thu hút vốn tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp ,các ngân hàng còn thu hút các khoản tiền nhàn rỗi khác trong phạm vi toàn xã hội (tiền tiết kiệm của các tầng lớp dân cư,tiền gửi của các tổ chức kinh tế xã hội ,tôn giáo ,các tổ chức từ thiện...) để đầu tư cho nền kinh tế và các nhu cầu của dân cư ,của nhà nước và không ngừng mở rộng và tăng cường qui mô cho vay của mình . Chức năng giám đốc các hoạt động kinh tế bằng đồng tiền Chức năng này xuất phát từ chức năng đầu tiên. Bản thân quan hệ tín dụng cũng bao gồm nhiều mối quan hệ như: quan hệ vay quan hệ về dư nợ...do đó quan hệ tín dụng bao hàm khả năng kiểm soát các loại hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp . Để hình thành được quan hệ tín dụng ,người cho vay phải biết và kiểm soát hoạt động của người đi vay như tình hình vốn ,mặt hàng sản xuất kinh doanh ,khả năng trả nợ nói riêng và tình hình tài chính nói chung,quan hệ với các chủ nợ khác...các trục trặc trong quan hệ tín dụng như vay không trả được hoặc trả không đúng hạn phản ánh những trục trặc trong quá trình sản xuất kinh doanh như không tiêu thụ hàng hóa, không có lãi bị phá sản ... 3. Vai trò của tín dụng Tín dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển Là một mối quan hệ kinh tế ,tín dụng có những tác động nhất định đối với các hoạt động kinh tế. Trước hết tín dụng là công cụ tích tụ và tập trung vốn rất quan trọng. Thông qua tín dụng : các doanh nghiệp nhận khối lượng vốn bổ sung rất lớn từ đó tăng qui mô sản xuất,tăng năng suất lao động,đổi mới thiết bị ,áp dụng tiến bộ kỹ thuật. Tín dụng tập trung các khoản vốn nhỏ,lẻ tẻ thành các khoản vốn lớn tạo khả năng đầu tư vào các công trình lớn.hiệu quả cao. Thông qua quá trình tích tụ và tập trung vốn,tín dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sau nữa tín dụng là công cụ bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận. Tín dụng giúp các doanh nghiệp đầu tư vào các nghành có tỷ suất lợi nhuận cao ,kích thích khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ,tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó ,tín dụng là công cụ tăng vòng quay của vốn và tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông. 4. Phân loại tín dụng Để giám sát và kiểm tra những khoản nợ hiện có theo các mức độ khác nhau ,xác định chất lượng và mức độ rủi ro của những khoản nợ người ta tiến hành phân loại tín dụng ,từ đó có chế độ quản lý thích hợp đối với từng khoản vay. Phân loại theo thời hạn có ba loại : tín dụng ngắn hạn ,tín dụng trung hạn ,tín dụng dài hạn.Thông thường tín dụng ngắn hạn có liên quan đến việc bổ xung vốn phục vụ cho việc mua sắm tài sản lưu động còn tín dụng trung hạn khoảng từ một đến năm năm mục đích sửa chữa lớn và vừa với tài sản cố định ,cho vay để áp dụng sáng kiến cải tiến kỹ thuật để cải tạo sản phẩm cho thị trường ,tín dụng dài hạn có thời hạn lớn hơn năm năm để đầu tư dài hạn phát triển sản xuất theo chiều rộng hoặc cho vay cải tạo cơ sở hạ tầng ,cho vay dự án Phân loại theo kỳ hạn nợ người ta chia thành :nợ chưa đến hạn ,nợ đến hạn và nợ quá hạn. Nợ chưa đến hạn là nợ chưa đến thời hạn thanh toán khoản nợ sẽ được thu hồi khi đến hạn.nợ đến hạn là khoản nợ đến hạn thanh toán,nó được dùng để đánh giá chất lượng của một khoản tín dụng đã cung cấp có ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh toán của Ngân HàngThương Mại. Nợ quá hạn là những khoản nợ vì lý do nào đó mà đến hạn thanh toán mà chưa thanh toán được. Nợ quá hạn càng lớn ,mức độ thiếu thanh khoản càng cao. Vấn đề gải quuyết nợ quá hạn là vấn đề quan trọng với hoạt động của Ngân HàngThương Mại. Phân loại theo tính chất đảm bảo của khoản nợ. Theo cách này các khoản nợ được chia làm hai loại: nợ có đảm bảo và nợ không có đảm bảo. Trong khoản nợ có đảm bảo có hai hình thức là cho vay thế chấp đó lá người đi vay phải thế chấp tài sản nhưng tài sản thế chấp vẫn thuộc quyền sử dụng của khách hàng,một hình thức nữa là cho vay cầm cố tài sản thế chấp thuộc quyền quản lý của ngân hàng.nợ không có tài sản đảm bảo có hai hình thức là cho vay tín chấp khi các khoản cho vay không căn cứ vào tài sản thế chấp mà căn cứ vào uy tín của khách hàng lòng tin của ngân hàng với khách hàng, một hình thức nữa là cho vay bảo lãnh ngân hàng cho vay dựa vào sự bảo lãnh của một người thứ ba Phân loại theo mức độ rủi ro của các khoản nợ. Dựa vào cách phân loại này,Ngân HàngThương Mại có khả năng quản lý chặt chẽ các khoản nợ,phát hiện sớm các khoản nợ có vấn đề để xử lý kịp thời,đảm bảo khả năng thanh toán khi đến hạn. 5. Nguyên tắc tín dụng Nguyên tắc tín dụng là kim chỉ nam cho việc điều hành hoạt động tín dụng ,là chuẩn mực và thước đo để cán bộ thừa hành thực thi nhiệm vụ một cách tốt nhất.thông thường nguyên tắc tín dụng phải đảm bảo nội dung cơ bản là giải quyết hợp lý giữa ba lợi ích của nhà nước ,của khách hàng và của ngân hàng, đồng thời phải hạn chế tới mức tối đa rủi ro tín dụng vì sự tồn tại của ngân hàng. Tín dụng ngân hàng được thực hiện đựa trên cơ sở các nguyên tắc sau . Cho vay những khoản vay có mục đích. Cho vay có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định. Đây là nguyên tắc đảm bảo thực chất của tín dụng. Tính chất tín dụng sẽ bị phá vỡ nếu nguyên tắc này không được thực hiện đầy đủ. Doanh nghiệp khi vay vốn phải cam kết trả đầy đủ vốn và lãi sau một thời gian nhất định cam kết này được ghi trong khế ước vay nợ. Cho vay có tài sản thế chấp tài sản thế chấp có thể là vật tư hàng hoá ,tài sản cố định của doanh nghiệp ,số dư trên tài khoản tiền gửi hoặc có thể cam kết trả nợ thay của cơ quan khác...thậm chí có thể là uy tín của chủ doanh nghiệp. Cho vay theo kế hoạch thỏa thuận từ trước(theo hợp đồng đã kí kết ). Quan hệ tín dụng phản ánh nhu cầu về vốn và lợi nhuận của các doanh nghiệp. Nó liên quan chặt chẽ tới quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp song lại mang tính thoả thuận rất lớn. Do đó cần được pháp luật bảo hộ. 6. Chất lượng tín dụng Chất lượng tín dụng theo một cách hiểu nào đó chính là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại ,phát triển của ngân hàng. Đối với khách hàng chất lượng tín dụng thể hiện ở sự phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng ,với lãi suất và kì hạn nợ hợp lý ,thủ tục đơn giản ,thuận tiện thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng. Đối với sự phát triển kinh tế xã hội ,tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá ,giả quyết công ăn việc làm ,khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế ,thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất ,giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế. Đối với Ngân HàngThương Mại phạm vi ,mức độ ,giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. 7. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng a. Các nhân tố khách quan: Về mặt vĩ mô nền kinh tế ổn định sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố lạm phát ,khủng hoảng làm cho khả năng tín dụng và khả năng trả nợ vay không biến động lớn. Song với mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhà nước sử dụng mức lạm phát vừa phải để tăng trưởng tín dụng kích thích đầu tư nhưng có một vấn đề đặt ra là qui mô của hoạt động tín dụng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Nếu mở rộng qui mô quá mức giới hạn các Ngân HàngThương Mại sẽ chịu thiệt hại lớn do lạm phát. Lãi suất của nền kinh tế cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Doanh nghiệp chỉ tham gia hoạt động tín dụng khi họ kỳ vọng lợi tức thu được từ các khoản đầu tư bù đắp được lãi suất mà ngân hàng đưa ra. Lợi tức của ngân hàng được bị giới hạn bởi mức lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì vậy khi lãi suất cao hơn lợi nhuận của doanh nghiệp ,các doanh nghiệp sẽ không có khả năng trả nợ ngân hàng ảnh hưởng tới quá trình tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế Nhóm nhân tố trực tiếp ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng là các tác nhân trực tiếp tham gia quan hệ tín dụng ,đó là người gửi tiền,ngân hàng và người vay tiền. Tín dụng nghĩa là sự vay mượn dựa trên cơ sở tín nhiệm ,lòng tin. Vì vậy chất lượng tín dụng phụ thuộc vào ba yếu tố: khách hàng ,ngân hàng và sự tín nhiệm , trong đó sự tín nhiệm là cầu nối giữa mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Sự tín nhiệm càng cao,thu hút khách hàng càng lớn. Khách hàng vừa là chủ thể đại diện cho bên cung về vốn vừa là người đại diện cho bên cầu về vốn. Với tư cách người cung vốn tín dụng họ mong muốn nhận được từ ngân hàng một khoản lãi từ tiền gửi. Hay những dịch vụ thanh toán thuận tiện. Sự tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng sẽ làm tăng thêm tính ổn định của nguồn vốn huy động để đáp ứng nhu cầu của người đi vay. Đối với người đi vay, họ đến ngân hàng với mong muốn được đáp ứng một khoản tín dụng để sử dụng cho mục đích sản xuất kinh doanh của họ với sự xác định rõ ràng về số lượng tiền vay, thời hạn và lãi suất có thể chấp nhận được. Nếu nhu cầu của khách hàng được chấp nhận với thái độ niềm nở và thủ tục đơn giản sẽ thu hút được nhiều khách hàng tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng được thuận lợi, chất lượng tín dụng được đảm bảo. Nhóm nhân tố pháp lý bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật,tính đầy đủ và khoa học của hệ thống pháp luật đồng thời gắn liền với quá trình chấp hành pháp luật và trình độ dân trí của dân cư. Thực tiễn qua lịch sử phát triển của kinh tế thị trường cho ta thấy rằng pháp luật là một phần không thể thiếu của nền kinh tế thị trường. Pháp luật có nhiệm vụ tạo lập một môi truờng pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành thuận tiện và đạt hiệu quả kinh tế cao, là cơ sở giải quyết các vấn đề khiếu nại khi có tranh chấp xảy ra. Vì vậy nhân tố pháp lý có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động ngân hàng nói chung và chất lượng hoạt động tín dụng nói riêng. Ngoài những yếu tố kể trên còn có những yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng như đạo đức xã hội có liên quan đến rủi ro trong tín dụng trong trường hợp lợi dụng lòng tin để lừa đảo, hoặc do dân trí chưa cao ,kém hiểu biết dẫn đến chưa hiểu đúng bản chất hoạt động ngân hàng có những biểu hiện làm ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động tín dụng. Bên cạnh đó chu kỳ phát triển kinh tế trong nước, tình hình kinh tế xã hội của nước ngoài cũng ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động tín dụng. Các yếu tố tự nhiên như thiên tai, lũ lụt... tác động đến các dự án đầu tư của khách hàng dẫn đến khó khăn trong khả năng trả nợ. b. Các nhân tố bên trong. Chính sách tín dụng là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng đi đúng hướng đã đề ra, nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của một ngân hàng. Điều đó cũng có nghĩa rằng chất lượng tín dụng tùy thuộc vào việc xây dựng chính sách tín dụng của ngân hàng thương mại có đúng đắn hay không. Bất cứ một ngân hàng nào muốn có chất lượng tín dụng đều phải có chính sách tín dụng rõ ràng, thích hợp cho ngân hàng mình. Thông tin tín dụng có vai trò quan trọng trong quản lý chất lượng tín dụng , nhờ có thông tin tín dụng người quản lý có thể đưa ra những quyết định cần thiết đến cho vay,theo dõi và quản lý tài sản cho vay. Thông tin tín dụng có thể thu được từ các nguồn có sẵn từ ngân hàng, từ khách hàng ,từ các nguồn thông tin khác(các cơ quan thông tấn báo chí, toà án). Số lượng, chất lượng của thông tin thu nhận được có liên quan đến độ chính xác trong việc phân tích ,nhận định thị trường, khách hàng...để đưa ra những quyết định phù hợp. Thông tin càng đầy đủ nhanh nhạy chính xác,toàn diện thì khả năng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng càng cao. Tổ chức ngân hàng được xắp xếp một cách có khoa học đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ,nhịp nhàng giữa các phòng ban trong từng ngân hàng trong toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng như giữa ngân hàng với các cơ quan khác như tài chính pháp lý sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng , theo dõi, quản lý sát sao các khoản vốn huy động cũng như các khoản vốn cho vay. Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng cũng như trong hoạt động của ngân hàng. Xã hội ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao để có thể đối phó kịp thời , có hiệu quả với các tình huống khác nhau của hoạt động tín dụng. Việc tuyển chọn nhân sự có đạo đức nghề nghiệp tốt và giỏi chuyên môn sẽ giúp cho ngân hàng có thể ngăn ngừa được những sai phạm có thể xảy ra khi thực hiện chu kỳ khép kín của một khoản tín dụng. Một nhân tố cũng không kém phần quan trọng đó là sự kiểm tra kiểm soát nội bộ. Đây là biện pháp giúp ban lãnh đạo ngân hàng có được những thông tin về tình trạng kinh doanh nhằm duy trì có hiệu quả các hoạt động kinh doanh đang được xúc tiến phù hợp với mục tiêu đề ra. Các hoạt động đó bao gồm việc kiểm tra chính sách tín dụng và các thủ tục có liên quan đến các khoản vay(thẩm quyền về điều hành quản lý , giám sát các hoạt động cho vay ). Bên cạnh đó tiến hành kiểm tra định kỳ, báo cáo các trường hợp ngoại lệ , những vi phạm chính sách, thủ tục , kiểm soát kế toán và các hoạt động có liên quan đến cho vay. Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng là một yếu tố không thể xem nhẹ, để có thể quản lý và theo dõi hiệu quả hoạt động tín dụng song song với việc nâng cao chất lượng các công tác trên cần phải chú ý tới các phương tiện cần thiết phục vụ cho quá trình quản lý hoạt động tín dụng. Trang bị đầy đủ trang thiết bị tiên tiến phù hợp với khả năng tài chính và phạm vi hoạt động của ngân hàng. Cùng với sự phát triển của công nghệ ngân hàng những trang thiết bị cho hoạt động của nó đòi hỏi ngày càng hiện đại. 8. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng a. với sự phát triển kinh tế -xã hội Sinh ra từ nền sản xuất hàng hoá,tín dụng đã có những đóng góp đáng kể trong việc thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn để thúc đẩy tiến trình phát triển của xã hội. Khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tăng vòng quay vốn tín dụng , với một khối lượng tiền như cũ , có thể thực hiện số lần giao dịch lớn hơn tạo điều kiện tiết kiệm tiền trong lưu thông,củng cố sức mua của đồng tiền ,qua đó ngân hàng thực hiện tốt hơn chức năng tạo tiền hay tạo ra phương tiện thanh toán trong lưu thông làm tốt hơn vai trò trung tâm thanh toán Chất lượng tín dụng làm cho ngân hàng thực hiện tốt hơn chức năng trung gian tín dụng trong nền kinh tế quốc dân, là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư,tín dụng góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế. Tăng cường tín dụng sẽ giảm thiểu lượng tiền thừa trong lưu thông. Điều đó không chỉ giải quyết mối quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế mà còn tạo điều kiện mở rộng phạm vi thanh toán không dùng tiền mặt ,từ đó tiết kiệm chi phí lưu thông cho xã hội góp phần điều hoà và ổn định lưu thông tiền tệ. Tín dụng là công cụ thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước về phát triển kinh tế theo từng nghành ,từng lĩnh vực. Chất lượng tín dụng được nâng cao sẽ góp phần tăng hiệu quả sản xuất xã hội, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. b.Với sự tồn tại và phát triển của Ngân HàngThương Mại Chất lượng tín dụng làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ của các ngân hàng thương mại do đó tạo thêm vốn do việc tăng thêm vòng quay vốn tín dụng và thu hút được nhiều khách hàng bởi các hình thức của sản phẩm , dịch vụ tạo ra hình ảnh tốt về biểu tượng và uy tín của ngân hàng và sự trung thành của khách hàng. Chất lượng tín dụng tăng khả năng sinh lợi của các sản phẩm , dịch vụ do giảm được , giảm chi phí nghiệp vụ,quản lý. Chất lượng tín dụng cải thiện tình hình tài chính của ngân hàng , tạo thế mạnh cho ngân hàng trong quá trình cạnh tranh. Thực tế cho thấy ngân hàng chỉ tồn tại và phát triển khi hoạt động có hiệu quả, tức là thu được lợi nhuận từ các dịch vụ của mình. Mà trong các dịch vụ của ngân hàng cung cấp cho khách hàng thì quan trọng nhất là hoạt động tín dụng ,do đó chất lượng tín dụng có liên quan hệ mật thiết và cực kỳ quan trọng tới sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt hoạt động trên lĩnh vực tài chính và tiền tệ nhưng mục tiêu của nó cũng không khác các doanh nghiệp khác đó là cũng bỏ vốn ra kinh doanh để thu được lợi nhuận do dó việc nâng cao chất lượng tín dụng là một tất yếu nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh khốc liệt không khoan nhượng hiện nay. iii. Thực trạng hoạt động tín dụng 1. Trước thời kỳ đổi mới (trước năm 1986) Ngày 6 tháng 5 năm 1951 chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số15/SL thành lập ngân hàng quốc gia Việt Nam. Kể từ ngày đó hệ thống ngân hàng đã từng bước lớn lên cùng với đất nước qua các giai đoạn của sự phát triển. Hệ thống ngân hàng Việt Nam là hệ thống ngân hàng một cấp. Ngân hàng nhà nước vừa đóng vai trò phát hành tiền, quản lý lưu thông tiền tệ, vùa đóng chức năng của một ngân hàng chuyên doanh đó là hoạt động nhận tiền gửi của nhân dân và cho vay đối với nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng được xác lập theo địa giới hành chính, mỗi tỉnh có một chi nhánh ngân hàng trung ương tỉnh, mỗi huyện có một chi nhánh ngân hàng trung ương huyện. Hoạt động tín dụng được sử dụng làm công cụ có hiệu lực thực hiện nhiệm vụ kinh tế ,chính trị của Đảng và nhà nước trong từng thời kỳ cách mạng. Vốn tín dụng ngân hàng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng, duy trì củng cố và phát triển các tổ chức kinh tế XHCN. Trong quá trình phát triển ,hoạt động tín dụng không ngừng được cải tiến cho phù hợp với tình hình thực tế nhằm từng bước nâng cao hiệu quả vốn tín dụng. Tuy vậy do ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân, việc quản lý theo nguyên tắc kế hoạch hoá tập trung thống nhất tình hình đất nước có chiến tranh, hạn chế về trình độ cán bộ... nên chất lượng tín dụng có những hạn chế nhất định. Đầu tư dựa trên cơ sở chỉ đạo của chính phủ, chủ yếu cho vay quốc doanh, không quan tâm đến các thành phần kinh tế khác; tín dụng mang tính bao cấp cho vay không quan tâm đến hiệu quả , chỉ thực hiện theo kế hoạch, mệnh lệnh, không quan tâm đến thị trường cũng như các quy luật kinh tế khách quan nên hiệu quả thấp, chế độ hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Tỷ Lệ (%) vốn td tham gia cấu thành địng mức vốn lưu động của doanh nghiệp Đơn vị % Các qđ Nghành QĐ 54/ttg ngày 19/12/1959 QĐ 32/cp ngày 11/2/1977 NSNN cấp NH cho vay NSNN cấp NH cho vay XN công nhiệp,GTVT XN nông nghiệp XN thương nghiệp XN dịch vụ 70 70 30 30 30 30 70 70 50 50 30 10 50 50 70 90 Tín dụng được tập trung chủ yếu cho kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể . Trong tín dụng ngắn hạn, tổng dư nợ không ngừng tăng thêm, dư nợ đến cuối năm 1985 đã tăng 43 lần so với cuối năm 1980. Tốc độ tăng bình quân hàng năm 150,3%. Sự bất cập trong hệ thống ngân hàng là nguyên nhân gây ra hiện tượng ngân hàng nhà nước vừa là người phát hành vừa là người cho vay; vừa quản lý vừa kinh doanh. Hoạt động tín dụng chỉ coi trọng tín dụng ngắn hạn coi nhẹ tín dụng trung hạn và dài hạn, bao cấp vốn tín dụng thay cấp vốn ngân sách cho các đơn vị kinh tế. Lấy tiền phát hành làm nguồn vốn, lấy vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn và cho vay xây dựng cơ bản. Coi nhẹ công cụ lãi suất trong điều hoà cung cầu vốn điều chỉnh tiền tệ và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Lãi suất tiền gửi cao hơn lãi suất cho vay làm cho các doanh nghiệp tìm mọi biện pháp để vay vốn ngân hàng với lãi suất thấp, sử dụng tiền vay không đúng mục đích,không hiệu quả ,có trường hợp dùng tiền vay để gửi tiết kiệm hay cho vay lại. Do tổ chức chồng chéo, đội ngũ cán bộ đông về số lượng nhưng trìng độ không đồng đều, quản lý theo kiểu hành chính mệnh lệnh nên hiệu suất công tác thấp. Nguyên nhân của tình hình trên là do thời gian dài không thừa nhận thị trườngvà chịu ảnh hưởng nặng nề của tính bao cấp trong hoạt động tín dụng dẫn đến sự ỷ lại vào nhà nước ,các đơn vị sử dụng vốn lãng phí thất thoát không thu hồi được nợ, làm thiệt hại cho nhà nước. Chất lượng tín dụng thời kì này mang tính bề nổi. 2. Giai đoạn 1986 đến 1990 Trong thời kỳ này nhận định được hạn chế của thời kỳ bao cấp , khi cả nước bước vào thời kỳ đổi mới chất lượng tín dụng cũng được cải thiện đáng kể. Tín dụng thời kỳ này đã bước đầu chú ý đến hiệu quả và góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế trong các xí nghiệp quốc doanh. Tín dụng tăng nhanh chủ yếu là tín dụng ngắn hạn cho vay vốn lưu động (chiếm 90 đến 95% tổng số dư nợ cho vay nền kinh tế ). Tín dụng vốn cố định bị hạn chế. Điều đáng chú ý là việc cải thiện cho vay với doanh nghiệp quốc doanh. Tín dụng không còn tham gia theo phần định mức vốn lưu động mà chỉ nhằm bổ xung nhu cầu vốn cần thiết vượt quá vốn tự có của doanh nghiệp. Điều đó dã phát huy chức năng đòn bẩy của tín dụng chống bao cấp thu hẹp dần phạm vi cấp phát của ngân sách nhà nước. Bằng việc cho vay trong hạn mức tín dụng và cho vay ngoài hạn mức tín dụng đã bước đầu gắn liền với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tuy nhiên tín dụng vẫn bị động và chưa có ảnh hưởng tích cực đối với nền kinh tế tín dụng cho ngân sách ngày càng chiếm tỷ trọng lớn. Tín dụng chưa theo kịp sự phát triển của sản xuất xã hội theo đường lối đổi mới của Đảng sản xuất thời kỳ này bung ra mạnh , các ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu vốn đã làm cho có sự nảy sinh gần như tự phát của nhiều tổ chức tín dụng đứng ra huy động với lãi suất hấp dẫn và cho vay tràn lan. Do lãi suất thị truờng không có sự quản lý và điều tiết các quy chế chưa được ban hành kịp thời đã làm xuất hiện mộy số tổ chức tín dụng thiếu lành mạnh chạy theo mục đích kiếm lời lừa đảo. Tính đến 20/11/1990 chỉ còn có 18 đơn vị hoạt động bình thường trên 100 đơn vị có khó khăn , số còn lại mất khả năng chi trả trầm trọng hoặc vỡ nợ. Hoạt động tín dụng chưa thực hiện được cơ chế kinh doanh theo chế độ hạch toán kinh tế thể hiện lãi âm lãi suất cho vay <lãi suất tiền gửi< tốc độ lạm phát (trong thời kỳ 1987-1990 lãi suất tiền gửi bình quân là 72% cho vay bình quân là 51,6%, mức độ lạm phát bình quân là 183,8%), nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên do đây là giai đoạn chuyển tiếp từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường nên cơ chế quản lý mới chưa hoàn chỉnh chưa đủ mạnh để bứt khỏi cơ chế cũ. Mọi hoạt động tín dụng còn mang nặng ảnh hưởng của cơ chế bao cấp,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2319.doc
Tài liệu liên quan