Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy rằng, đường lối phát triển kinh tế là yếu tố đầu tiên quyết định sự thành bại trong quá trình phát triển kinh tế của một đất nước. Thực tế cho thấy rằng, Chính phủ các nước Nics Châu á, sau gần một thập kỉ thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu, đã nhận ra những mặt hạn chế của nó, và ngay đầu thập kỉ 60 đã có sự chuyển hướng chiến lược. Với khoảng thời gian ngắn họ đã đưa đất nước trở thành những con rồng Châu á.
Đối với Việt Nam, các chuyên gia kinh tế đều có nhận xét chung là, chúng ta đã có bước khởi đầu tốt đẹp trong quá trình phát triển mới. Nhưng để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và liên tục trong thời gian tới còn nhiều khó khăn. Việt Nam đang trong quá trình chuyển biến nền kinh tế từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế thị trường hoạt động theo quy luật khách quan của nó. Do vậy mà Việt Nam đang đứng trước các thuận lợi cũng như các khó khăn cần được giải quyết.
Nhận thức được vấn đề cấp bách của xã hội em đã mạnh dạn chọn đề tài:
Quan hệ giữa cái chung và cái riêng, và vận dụng vào xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Bài tiểu luận này gồm 5 phần:
Phần I: Cái chung và cái riêng theo quan điểm của các nhà triết học duy vật biện chứng.
Phần II: Bước chuyển từ nền kinh tế giản đơn sang nền kinh tế thị trường.
Phần III: Thị trường và cơ chế thị trường
Phần IV: Những đặc trưng chung của nền kinh tế thị trường và tính định hướng XHCN của kinh tế thị trường ở Việt Nam
Phần V:Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam
22 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2374 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tiểu luận Quan hệ giữa cái chung và cái riêng, và vận dụng vào xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy rằng, đường lối phát triển kinh tế là yếu tố đầu tiên quyết định sự thành bại trong quá trình phát triển kinh tế của một đất nước. Thực tế cho thấy rằng, Chính phủ các nước Nics Châu á, sau gần một thập kỉ thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu, đã nhận ra những mặt hạn chế của nó, và ngay đầu thập kỉ 60 đã có sự chuyển hướng chiến lược. Với khoảng thời gian ngắn họ đã đưa đất nước trở thành những con rồng Châu á.
Đối với Việt Nam, các chuyên gia kinh tế đều có nhận xét chung là, chúng ta đã có bước khởi đầu tốt đẹp trong quá trình phát triển mới. Nhưng để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và liên tục trong thời gian tới còn nhiều khó khăn. Việt Nam đang trong quá trình chuyển biến nền kinh tế từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế thị trường hoạt động theo quy luật khách quan của nó. Do vậy mà Việt Nam đang đứng trước các thuận lợi cũng như các khó khăn cần được giải quyết.
Nhận thức được vấn đề cấp bách của xã hội em đã mạnh dạn chọn đề tài:
Quan hệ giữa cái chung và cái riêng, và vận dụng vào xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Bài tiểu luận này gồm 5 phần:
Phần I: Cái chung và cái riêng theo quan điểm của các nhà triết học duy vật biện chứng.
Phần II: Bước chuyển từ nền kinh tế giản đơn sang nền kinh tế thị trường.
Phần III: Thị trường và cơ chế thị trường
Phần IV: Những đặc trưng chung của nền kinh tế thị trường và tính định hướng XHCN của kinh tế thị trường ở Việt Nam
Phần V:Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam
Nội dung
Phần I: cái chung và cái riêng theo quan điểm của các nhà triết học duy vật biện chứng.
1/ định nghĩa cái chung và cái riêng
1.1/ Định nghĩa cái riêng
Cái riêng là một phạm trù triết học để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan. Chẳng hạn một hiện tượng kinh tế một giai đoạn xã hội, một con người…
1.2/ Định nghĩa cái chung
Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ, tồn tại không chỉ ở một sự vật mà trong nhiều sự vật hiện tượng khác nhau. Chẳng hạn, phạm trù triết học Mác-xít về vật chất vận động, không gian, thời gian…
2/ mối liên hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng
Phạm trù cái riêng và cái chung đã được bàn đến nhiều trong triết học phương Tây thời trung cổ. Phái duy thực đồng nhất Thượng đế với cái chung ( phổ biến ) và nhấn mạnh rằng: Chỉ có cái chung mới tồn tại độc lập, khách quan, là cội nguồn sản sinh ra cái riêng.
Đối lập lại chủ nghĩa duy thực, các nhà triết học duy danh như Đun-xcốt (1265-1308), P.Abơla (1079-1142) lại cho rằng chỉ có những sự vật, hiện tượng tồn tại riêng biệt với những chất lượng riêng của chúng mới là có thực; còn các khái niệm chung ( cái phổ biến ) là sản phẩm tư duy của con người. Mặc dù có một số hạn chế, chủ nghĩa duy danh có một cái nhìn duy vật về toàn bộ hiện thực.
Khắc phục nhược điểm của chủ nghĩa duy danh, tách biệt cái riêng khỏi cái chung một cách trừu tượng và tuyệt đối; chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng giữa cái riêng và cái chung có mối quan hệ biện chứng với nhau. Chúng là hai mặt đối lập tồn tại trong bản thân một sự vật, hiện tượng bất kì và tồn tại một cách khách quan.
Mối liên hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng
2.1/ Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung. Không có cái riêng cô lập tuyệt đối, bất kì cái riêng nào cũng vừa liên hệ với cái riêng n hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung:
khác, vừa liên hệ với cái chung sự liên hệ trên mới thoạt nhìn mang tính chất song trùng, nhưng thực chất chỉ là một, vì cái chung-xét cho cùng là- sản phẩm được rút ra từ sự khái quát hoá những phẩm chất của những caid\s rieng cùng loại.
Chẳng hạn khi khảo sát hiện tượng khủng hoảng kinh tế trong một nước nhất định, chúng ta có thể thấy được những đường nét riêng như: những hoàn cảnh địa lý đặc thù, tình trạng kinh tế của nước đó khi bắt đầu khủng hoảng, các quan hệ xã hội-chính trị khác nhau…Đây là những yéu tố riêng biệt. Song đằng sau tất cả những cái riêng đó và những cái chung mang tính quy luật của hiện tượng khủng hoảng kinh tế như tính chu kì, hiện tượng thất nghiệp các giai đoạn chuyển biến theo hình sóng…
2.2/ Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại. Không có cái chung tồn tại độc lập ở đâu đó. Cái chung chỉ tồn tại trong từng cái riêng. Trở lại ví dụ nêu trên ta có thể thấy không tồn tại hiện tượng khủng hoảng kinh tế với những dấu hiệu chung mà bao giờ hiện tượng này cũng chỉ được nhìn thấy qua các cuộc khủng hoảng kinhtế tại những thời điểm và không gian xác định.
Phép biện chứng của cái chung và cái riêng nói trên có thể thấy rõ trong vấn đề lợi ích kinh tế.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, lợi ích kinh tế phải được thể hiện qua lợi ích của từng thành phần kinh tế với những hình thức sở hữu khác nhau, đối lập nhau.Vì vậy phải làm thế nào để vừa bảo đảm lợi ích chung của toàn dân, vừa không rơi vào tình trạng triệt tiêu mọi lợi ích chính đáng của từng công dân.
2.3/ Cái chung là cái bộ phận, cái riêng là cái toàn bộ. Thật vậy cái chung chiếm giữ phần bản chất, hình thành nên chiều sâu của sự vật. Còn cái riêng là cái toàn bộ vì nó là một thựcthể hoàn chỉnh và sóng động. Cái riêng tồn tại trong sự “va chạm” với những cái riêng khác. Sự va chạm này vừa làm cho các sự vật xích lại gần nhau bởi cái chung, với tuiư cách là một bộ phận-tồn tại trong cái chung, vừa làm cho chúng xa nhau bởi cái đơn nhất không lặp lại trong các sự vật khác.
Như vậy cái chung và cái đơn nhất cùng tồn tại trong cái riêng, làm phong phú và sâu sắc cho cái riêng.
2.4/ Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá cho nhau. Đây là chuyển hoá của các mặt đối lập trong một sự vật. Sự chuyển hoá này phản ánh quá trình vận động đa dạng của các kết cấu vật chất trong thế giới.
Quá trình chuyển hoá cái đơn nhất thành cái chung thể hiện quá trình phát triển biện chứng của sự vật. Ngược lại sự chuyển hoá cái chung thành cái đơn nhất chỉ ra sự thoái bộ của một sự vật, hiện tượng trong quá trình tồn tại của chúng.
3/ Một số kết luận có tính chất phương pháp luận
3.1/ Không có cái chung tồn tại cô lập mà nó tồn tại trong cái riêng; nói cách khác, thông qua cái riêng mà cái chung biểu hiẹn sự tồn tại của mình. ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm này là trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, để phát hiện ra cái chung cần phải thông qua ngững cái riêng.
Mặt khác nói cái chung tồn tại như một bộ phận của cái riêng. Thì phải thấy rằng khi áp dụng cái chung vào từng trường hợp riêng thì cần phải cá biệt hoá nó.
Hiện tượng cá biệt hoá cái chung vào từng trường hợp riêng thường thấy xuất hiện trong lĩnh vực kinhtế, chẳng hạn, lý thuyết về quản lí kinh tế ( vi mô và vĩ mô ) đã được xây dựng từ lâu ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Song điều đó không đảm bảo chắc chắn sự thành công, nếu như chung ta áp dụng nguyên chúng vào thực tiễn kinh tế nước ta mà không có sự điều chỉnh, cải biến cho phù hợp với những đặc thù ở Việt Nam.
3.2/ Từ phép biện chứng giữa cái chung và cái riêng nêu trên, có thể rút ra kết luận rằng: khi giải quyết các vấn đề riêng trong thực tế, cần phải đặt nền tảng trên những nguyên tắc chung. Nói cách khác không được lẩn tránhcác vấn đề chung khi bắt tay giải quyết các vấn đề riêng. Nừu không sẽ rơi vào tình trạng dò dẫm và vô nguyên tắc.
3.3/ Cần nắm vững tính quy luật của quá trình chuyển hoá giữa cái riêng ( đơn nhất ) và cái chung. Việc tạo điều kiện cần thiết để nhanh chóng phổ biến những hiện tượng hợp quy luật, hoặc triệt tiêu những đièu kiện làm kéo dài những nhân tố không phù hợp, trì trệ có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy sự phát triển.
Phần II: bước chuyển từ nền kinh tế giản đơn sang nền kinh tế thị trường
1/ kinh tế thị trường ( kttt )
Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá phát triển đồng nghĩa với phạm trù hàng hoá, phạm trù tiền tệ, phạm vi thị trường được mở rộng. Hàng hoá không chỉ bao gồm những sản phẩm đầu ra mà còn bao gồm yếu tố đầu vào. Dung lượng thị trường và cơ cấu thị trường được mở rộng và hoàn thiện. Mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều được tiền tệ hoá. Khi đó người ta gọi kinh tế hàng hoá là kinh tế thị trường ( KTTT ).
2/ điều kiện hình thành kimh tế thị trường
Điều kiện cơ bản để hình thành KTTT là phải có một nền kinh tế hàng hoá phát triển cùng với sự xuất hiện của một số điều kiện sau:
Một là, sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động và thị trường sức lao động. Hàng hoá sức lao động là loịa hàng hoá đặc biệt, khác hẳn so với hàng hoá thông thường bởi ngoài thời gian lao động cần thiết còn có thời gian lao động thặng dư. Khi lực lượng sản xuất phát triển, năng suất xã hội nâng cao thì sức lao động trở thành đối tượng của quan hệ mua bán, kéo theo sự ra đời thị trường sức lao động, và thị trường yếu tố sản xuất.
Hai là, phải tích luỹ được một số tiền nhất định và số tiền đó phải trở thành vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục đích có lợi nhuận.
Ba là, phải có hệ thống tài chính, tín dụng ngân hàng tương đối phát triển đấp ứng được nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh.
Bốn là, phải có hệ thống cơ sở hạ tầng tương đối phát triển, đảm bảo cho lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ được thuận lợi dễ dàng, tăng phương tiện vật chất nhằm mở rộng quan hệ trao đổi.
Năm là, tăng cường vai trò kinh tế nhà nước nhằm tạo ra môi trường và hành lang pháp lí cho thị trường phát triển lành mạnh, mở rộng hình thức kinh tế, tăng cường sức cạnh tranh, thực hiện chính sách phân phối và điều tiết trên cơ sở kết hợp nguyên tắc công bằng xã hội và hieẹu quả kinh tế, phát huy ưu thế và hạn chế những mặt tiêu cực của nền KTTT.
Phần III: thị trường và cơ chế thị trường
1/ thị trường
Có nhiều định nghĩa khác nhau về thị trường tuy nhiên có thể hiểu theo nghĩa đầy đủ thì nó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm môi giới, tại đây người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng lưu thông trên thị trường, hình thành các quan hệ hàng hoá-tiền tệ, cung-cầu, và giá cả hàng hoá.
2/ cơ chế thị trường
Nói tới cơ chế thị trường là nói tới bộ máy tự điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, điều tiết sự vận động của nền KTTT.
Hiện nay còn nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm cơ chế thị trường. Có thể xem xét một vài khái niệm sau:
“Cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ môi trường, động lực và quan hệ chi phối sự vận động của thị trường.”
“Cơ chế thị trường là thiết chế kinh tế chi phối ý chi phối ý chí và hành động của người sản xuất và người tiêu dùng,người bán và người mua thông qua thị trường và giá cả.”
Sự hoạt động của quy luật giá trị có biểu hiện: Giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị của hàng hoá, nghĩa là sự hình thành giá cả thị trường phải dựa trên cơ sở giá trị thị trường.Ngoài giá trị thị trường, sự hình thành giá cả thị trường còn chịu sự tác động của qui luật hàng hoá.
Tính qui luật của quan hệ giữa giá cả thị trường với giá trị trong sự tác động của quan hệ cung cầu được biểu hiện:
Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ nhỏ hơn giá trị thị trường và nghược lại.quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường là biểu hiện của quan hệ giữa người bán và người mua cũng như quan hệ của người sản xuất và người tiêu dùng.Trên cơ sở giá trị thị trường,giá cả thị trường là kết quả của sự thoả thuận giữa người mua và bán.Giá cả thị trường điều hoà được quan hệ giữa người mua và người bán.
Thông qua sự biến động của giá cả thị trường, qui luật giá trị có tác dụng điều tiết sản suát và lưu thông hàng hoá.
Điều tiết sản xuất hàng hoá được hiểu theo nghĩa là điều tiết tư liệu sản xuất và sức lao động vào từng ngành kinh tế. Điều này tạo ra động lực kinh tế thúc đẩy người sản xuất hàng hoá khai thác ngững khả năng tiềm tàng,tranh thủ giá cao,mở rộng quan hệ sản xuất và ngược lại.
Như vậy, lợi nhuận là động lực thúc đẩy hoạt động của cơ chế thị trường. Theo C.Mác, những nhà kinh doanh dưới CNTB “ Ghét cay ghét đắng tình trạng không có lợi nhuận hay lợi nhuận quá ít, chẳng khác gì thế giới tự nhiên chân không.”
2.1/ Ưu điểm của cơ chế thị trường:
Một là, KTTT lấy lợi nhuận siêu ngạch làm động lực hoạt động. Động lực hoạt động. Động lực này đòi hỏi các doanh nghiệp thường xuyên hạ thấp chi phí lao động cá biệt xuống thấp hoưn lao động chi phí xã hội cần thiết. Điều này đòi hỏi phải nâng cao năng suất lao động trên cơ sở áp dụng những thành tựu mới của khoa học kĩ thuạt công nghệ.
Hai là, cơ chế thị trường có tinh năng động do trong kinh tế thị trường tôn tại môt nguyên tắc ai đưa ra thịo trương một loại hang hoá mới và đưa ra sơm nhất sẽ thu đươc nhiêu lợi nhuân nhất.
Ba là :trong nền kinh tế thị trưòng,hàng hoá rất phong phú và đa dạng.Do vậy,nó có thể đáp ứng mọi nhu cầu ngưòi tiêu dùng.
2.2/ Những khuyết tật mà bản thân cơ chế thị trường không tự giải quyết được.
Căn bệnh nổi bật gắn liền với sự hoạ động của cơ chế thị trường:khủngt hoảng kinh tees thất nghiệp,lạm phát,phân hoá giàu nghèo và ô nhiễm môi trường.
Khủng hoảng”thừa là căn bệnh cố hữu của nền kinh tế thị trường phát triển.Do mức cung hàng hoá vượt quá sưc cầu nên dẫn tới tình trạng”dư thừa hàng hoá”.Xu hướng mở rộng sản xuất vô hạn độ mâu thuẫn với sức mua có hạn.Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Một khuyết tật khác của cơ chế thị truờng là gây ô nhiễm môi trường sinh thái, tàn phá đất đai, rừng đầu nguồn do chạy theo mục đích lợi nhuận.
Tóm lại, cơ chế thị trường có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá, chi phối sự vận động của KTTT nhưng các chủ thể tham gia thị trường hoạt động vì lợi ích riêng của mình, cho nên sự vận động của cơ chế thị trường tất yếu dẫn tới những mâu thuẫn và xung đột. Cạnh tranh khó tránh khỏi lừa gạt, phá sản và thất nghiệp…Vì vậy, cần có sự kiểm tra của xã hội, đó là lí do cần thiết lập vai trò quản lí của nhà nước. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế của nước ta là hướng tới sự ổn địnhvề kinh tế xã hội, sự công bằng và làm cho nền kinh tế ngày càng tăng trưởng, phát triển với tốc độ cao.
Phần IV: những đặc trưng chung của nền KTTT và tính định hướng XHCN của KTTT ở việt nam
1/ những đặc trưng chung của nền ktnh tế thị trường
Do KTTT là sự phát triển cao của nền kinh tế hàng hoá và mọi yếu tố của sản xuất đều được thị trường hoá nên KTTT có những đặc trưng chủ yếu sau:
Một là, tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh của mình, được tự do liên kết, tự do liên doanh theo luật định. Kinh tế hàng hoá không bao dung hành vi bao cấp. Nó đối lập với bao cấp và đồng nghĩa với tự chủ năng động.
Hai là, hàng hoá trên thị trường rất phong phú, phản ánh trình độ cao của năng suất lao động xã hội, trình độ phân công lao động xã hội, Sự phát triển của sản xuất và thị trường.
Ba là, giá cả được hình thành ngay trên thị trường, vừa chịu tác động của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ.
Bốn là, cạnh tranh là một tất yếu của KTTT, có nhiều hình thức phong phú vì mục tiêu lợi nhuận.
Năm là, kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở.
2/ tính định hướnh xhcn của kinh tế thị trường ở việt nam
2.1/ Bản chất và nguyên tắc hình thành
Để hiểu sâu hơn khái niệm KTTT định hướng XHCN, cần làm rõ bản chất và nguyên tắc hình thành
Phương pháp luận tiếp cận bản chất và nguyên tắ hình thành KTTT định hướng XHCN ở nước ta đòi hỏi phải đặt nó trong sự kết hợp giữa cái chung( KTTT ) với cái đặc thù ( định hướng XHCN ). Xoay quanh phương pháp luận này, có ý kiến cho rằng KTTT với định hướng XHCN như “ nước với lửa” làm sao có thể kết hợp được với nhau? Thực tế KTTT không phải là cái riêng có của CNTB, mà là thành quả chung của văn minh nhân loại tồn tại qua nhiều phương thức sản xuất xã hội khác nhau. Đúng như Đảng ta đã nhận định: “Sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH, mà là thành tịu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng.”( Văn kiện Đại Hội VIII )
Bên cạnh những phạm trù kinh tế và quy luật kinh tế chung, KTTT còn có những đặc điểm riêng gắn với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, gắn với bản chất của chế độ xã hội trong đó nó tồn tại qua mỗi giai đoạn lịch sử. Đúng là KTTT đã đạt tới đỉnh cao dưới CNTB nhưng không vì thế mà đồng nhất KTTT là kinh tế TBCN. Hơn nữa xét về bản chất KTTT không chỉ hoàn toàn là tiêu cực như người ta lầm tưởng trước đây mà nó có những yếu tố tích cực không thể phủ nhận. KTTT tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển, đẩy nhanh quá trình hoá sản xuất,làm thay đổi cung cầu theo hướng có lợi cho sản xuất và cải thiện đời sống.Cần ý thức rằng chỉ có KTTTtư bản chủ nghĩa và KTTTđịnh hướng xã hội chủ nghĩa mới khác nhau về mục đích,chế độ sở hữu,tính chất phân phối và tính chất của nhà nước trong quản lý KTTT.nếu giai cấp tư sản có thể lợi dụng được KTTT để phát triển chủ nghĩa tư bản,thì không có lý do gì lại cho rằng giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đang cộng sản không thể vận dụng được KTTT.Vì vậy ý kiến coi KTTT và đinh hướng XHCN ‘như nước với lửa’chỉ có giá trị như lời nhắc nhở,phải quan tâm giữ vững định hướng XHCNkhi phát triển KTTT,nó không có nghĩa coi chúnh hoàn toàn đôí lập với nhau…Trên tinh thần đó có thể thấy ‘phát triển KTTT định hướng XHCN,thực chất là một kiểu tổ chức nền kinh tế vừa phát huy đươc nhân tố động lực thúc đẩy sản xuất xã hội,vừa phát huy được nhân tố mơ đường,hướng dẫn và chế định sự vận động của nền kinh tế theo mục tiêu XHCN đã chọn’’
2.2/ Định nghĩa về KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
Từ phương pháp luận nêu trên có thể hiểu bản chất của KTTT định hướng XHCN là:Kiểu tổ chức kinh tế phản ánh sự kết hợp giữa cái chung là KTTT với cái đặc thù là định hướng XHCN,dựa trên nguyên tắc lấy cái đặc thù-định hướng XHCN-làm chủ đạo.
2.3/ Ba khía cạnh chủ yếu về bản chất của KTTT định hướng XHCN.
Thứ nhất:với tư cách là cái chung-KTTT-đòi hỏi trong quá trình kết hợp phải tạo lập và vận dụng đồng bộ các yếu tố:a)Cơ sở kinh tế mang tính đa dạng về sở hữu và thành phần kinh tế để nền kinh tế có thể có “tự do hoá kinh tế’’(tự do cạnh tranh, tự do kinh doanh và tự chủ).b)các phạm trù kinh tế vốn có của KTTT như hàng hoá,tiền tệ thị trường cạnh tranh,cung cầu,giá trị thị trườngvà lợi nhuận.c)các quy luật kinh tế của KTTT (Quy luật giá trị,quy luật lưu thông tiền tệ,quy luật cạnh tranh và quy luật cung cầu).d)Cơ chế vận hành nền KTTT-cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Thứ hai :với tư cách là cái đặc thù-định hướngXHCN-trong quá trình kết hợp đòi hỏi phải tuân theo các mục tiêu,nguyên tắc và nhiệm vụ kinh tế cơ bảnhướngđến mục tiêu và các đặc trưng của CNXH mà nước ta cần xây dựng.Định hướngXHCN ở nước ta là một sự lựa chọn tất yếu một khái niệm khoa học.tuy vậy, vẫn còn một số cách hiểu khác nhauthậm chí không phải không có tư tưởng hoài nghivề tính hiện thực của định hướng XHCN mà Đảng,Nhà nướcvà nhân dân ta đã chọn.
Cần ý thức rằng định hướng XHCN đã chọn là một tất yếu,vì sự lựa chọn phù hợp với nội dung thời đại- “thời đại quá độ từ chủ nnghĩa tư bản lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới’’.Đảng ta nhận định : “XHCNtrên thế giới,từ những bài học thành công thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnhcủa các dân tộc,có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử. Loài người sẽ nhất định tiến tới XHCN.”( Văn kiện Đại Hội Đảng IX ). Định hướng XHCN không chỉ là một tất yếu về chính trị và nguyện vọng mong muốn của nhân dân ta, mà còn là một tất yếu kinh tế, nếu chúng ta đặt những tiền đề cho việc xây dựng CNXH ở nước ta theo tư duy mới, mở cửa về kinh tế với tất cả các nước trên thế giới, và nếu chúng ta xem xét các tiền đề kinh tế không dừng lại ở điểm xuất phát ban đầu mà xem xét những thành tịu đã đạt được sau hơn 15 năm đôỉ mới nền kinh tế.
Thứ ba: Trong mối quan hệ giữa cái chung-KTTT với cái đặc thù- định hướng XHCN, không thể lấy KTTT làm chủ đạo. Đây là nguyên tắc cơ bản trong mối quan hệ kết hợp giữa cáo chung và cái đặc thù, vì chúng ta không chủ trương xây dựng mô hình KTTT bất kì, trừu tượng, càng không chủ trương xây dựng mô hình KTTT tư bản chủ nghĩa, mà chủ trương xây dựng KTTT định hướng XHCN, tất yếu phải lấy định hướng XHCN làm chủ đạo. Hơn nữa KTTT có nhiều yếu tố tích cực, song vẫn có một số tiêu cực nhất định, muốn phát huy yếu tố tích cực và hạn chế tiêu cực không thể không định hướng XHCN trong quá trình xây dựng và phát triển KTTT. Xa rời nguyên tắc này sẽ làm cho việc xây dựng KTTT dễ đi chệch hướng XHCN. Vì vậy lấy định hướng XHCN làm chủ đạo trở thành nguyên tắc cơ bản chi phối lương tâm, trách nhiệm đối vớ các ngành, các cấp và các chủ doanh nghiệp trong việc ban hành và thực hiện các chủ trương, quyết định về sản xuất kinh doanh trong tiến trình xây dựng KTTT ở nước ta.
3/ các đăc điểm chủ yếu của KTTT định hướng xhcn
Các đặc điểm chủ yếu của KTTT định hướng XHCN có quan hệ mật thiết với nhau được tiếp cận đi từ lực lượng sản xuất đến cơ sở kinh tế, chế độ phân phối, cơ chế vận hành, văn hoá và mở cửa.
Thứ nhất: Lấy sự phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại làm cơ sở vật chất-kĩ thuật nhằm mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Thứ hai: Lấy nền kinh tế đa dạng về hình thức sở hữu tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế làm cơ sơ kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước làm chủ đạo.
Thứ ba: Dựa trên chế độ phân phối đa dạng bao gồm các nguyên tắc phân phối theo kiểu CNXH với phân phối theo kiểu KTTT. Trong đó, lấy phân phối theo lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh và phân phối qua phúc lợi tập thể và xã hội làm chủ đạo.
Thứ tư: Lấy cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước làm cơ chế vận hành, nhưng không phải là Nhà nước tư sản mà Nhà nước XHCN-Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Thứ năm: Kết hợp hài hoà văn hoá dân tộc truyền thống với văn hoá hiện đại có chọn lọc. Trong đó, lấy văn hoá dân tộc làm gốc.
Thứ sáu: Không dựa trên cơ cấu kinh tế khép kín, mà dựa trên cơ cấu kinh tế mở cửa, chủ đọng hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, song phải đảm bảo độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ.
Cần nhận thức các đặc điểm nói trên ở trạng thái động và đang trong quá trình hình thành; đang phát triển đi từ thấp đến cao, từ chỗ chưa định hình đến định hình, gắn liền với giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá và sẽ định hình vào năm 2020 ở nước ta.
4/ nội dung định hướng xhcn
4.1/ Mục đích
Mục đích của KTTT định hướng XHCN là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân.
4.2/ Các nội dung định hướng chính
Ngoài nhũng giá trị đặc trung chunh của nền KTTT, nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta còn mang những đặc trưng riêng dựa trên nguyên tắc của bản chất của CNXH, dựa trên tính đặc thù về tình hình kinh tế- chính trị-xã hội Việt Nam. Tính đặc thù ấy thể hiện ở chỗ sự phát triển KTTT nước ta diễn ra với hai bước chuyển cơ bản: từ mô hình kinh tế chỉ huy sang nè KTTT và từ nền kinh tế tự nhiên của người tiểu nông sang KTTT.
Từ thực tiễn hơn 15 năm xây dựng và phát triển KTTT, có thể rút ra nội dung định hướng XHCN đối với nền KTTT nước ta là:
Thứ nhất, nền KTTT địnhnhướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế kết hợp hai mặt kinhtế- xã hội ngay trong từng bước phát triển.
Trong nhiều đặc tính có thể làm tiêu thức để phân biệt nền KTTT này với nền KTTT khác, phải nói đến mục tiêu kinh tế-xã hội mà Nhà nước và nhân dân đã lựa chọn làm định hướng chi phối sự vận động, phát triển của nền KTTT. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đã quy định tính tất yếu khách quan phải định hướng XHCN cho nền KTTT ở nước ta.Đó chính là sự khác biệt rõ nét nhất giữa KTTT nước ta với các nước khác.
Cái khác cơ bản của thị trường XHCN là thu hẹp dần sự phân biệt giàu nghèo. Công bằng về phân phối thu nhập đã tạo ra và là nguồn gốc của mọi công bằng khác như công bằng về chăm sóc về y tế, về học hành…Muốn vậy phải vận dụng các quy luật thị trường đẻ kiên trì thực hiện công bằng xã hội chứ không phải là những mệnh lệnh hành chính thay cho thị trường hay dùng một bộ máy phân phối thay cho thị trường, phải dùng luật pháp để cho quy luật phân phối theo lao động dần dần phát huy tác dụng ngày càng cao hơn kiểu tư bản.
Để đạt tới công bằng trong phân phối thu nhập, chúng ta thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập: phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, hiệu suất công tác, phân phối theo mức góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh, phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội, trong đó, hình thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đi dôi với chính sách điều tiết thu nhập một cách hợp lí nhằm thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, vừa khuýen khích lao động vừa đảm bảo những phúc lợi xã hội cơ bản.
Để phát triển trong công bằng, cần có nhìn nhận mới hơn đối với phạm trù lợi ích với tư cách là động lực cho phát triển, về mối quan hệ giữa lợi í
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 60101.doc