Loài người đang chứng kiến sự ra đời của một xu hướng phát triển mới - phát triển kinh tế tri thức. Trên thực tế, kinh tế tri thức đang tự khẳng định mình ở những khía cạnh rất cơ bản và đã trở thành tiêu điểm chú ý không chỉ của các học giả mà còn của nhiều nhà hoạch định chiến lược phát triển của các quốc gia. Việt Nam là nước kém phát triển, nhưng cũng không thể bỏ qua xu thế này, không thể đáp ứng một cách chủ động, hoặc là để hướng tới việc "Từng bước xây dựng nền kinh tế tri thức" hoặc là để thích nghi với nền kinh tế tri thức ở các nước khác nhau, bởi chúng ta chủ trương mở cửa, hội nhập quốc tế và trong mọi văn bản chiến lược, bối cảnh quốc tế luôn được coi là một cơ sở quan trọng xác định quan điểm, mục tiêu, giải pháp phát triển.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định nhiệm vụ phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện được nhiệm vụ này, chúng ta cần nhanh chóng tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong điều kiện ngày nay không thể đi theo con đường truyền thống kéo dài hàng trăm năm như các nước đi trước, mà phải kết hợp hợp lý giữa tuần tự với bước nhảy vọt, mạnh dạn và táo bạo, đi ngay vào trình độ hiện đại. Muốn vậy, phải phát huy lợi thế đất nước, tận dụng mọi khả năng thuận lợi từng bước phát triển kinh tế tri thức để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chỉ bằng cách đó, chúng ta mới có khả năng rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
21 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1182 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tiểu luận Phát triển kinh tế tri thức đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Môn tự chọn
Đề tài:
Phát triển kinh tế tri thức đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Hà Nội, 2/ 2006
Mở đầu
Loài người đang chứng kiến sự ra đời của một xu hướng phát triển mới - phát triển kinh tế tri thức. Trên thực tế, kinh tế tri thức đang tự khẳng định mình ở những khía cạnh rất cơ bản và đã trở thành tiêu điểm chú ý không chỉ của các học giả mà còn của nhiều nhà hoạch định chiến lược phát triển của các quốc gia. Việt Nam là nước kém phát triển, nhưng cũng không thể bỏ qua xu thế này, không thể đáp ứng một cách chủ động, hoặc là để hướng tới việc "Từng bước xây dựng nền kinh tế tri thức" hoặc là để thích nghi với nền kinh tế tri thức ở các nước khác nhau, bởi chúng ta chủ trương mở cửa, hội nhập quốc tế và trong mọi văn bản chiến lược, bối cảnh quốc tế luôn được coi là một cơ sở quan trọng xác định quan điểm, mục tiêu, giải pháp phát triển.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định nhiệm vụ phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện được nhiệm vụ này, chúng ta cần nhanh chóng tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong điều kiện ngày nay không thể đi theo con đường truyền thống kéo dài hàng trăm năm như các nước đi trước, mà phải kết hợp hợp lý giữa tuần tự với bước nhảy vọt, mạnh dạn và táo bạo, đi ngay vào trình độ hiện đại. Muốn vậy, phải phát huy lợi thế đất nước, tận dụng mọi khả năng thuận lợi từng bước phát triển kinh tế tri thức để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chỉ bằng cách đó, chúng ta mới có khả năng rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
I. Sự cần thiết và khả năng từng bước phát triển kinh tế tri thức để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
1. Tình hình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam được thực hiện từ đầu những năm 1960 của thế kỷ XX. Hơn 40 năm qua, đường lối công nghiệp hóa đất nước đã có nhiều điều chỉnh thay đổi khá cơ bản theo sự thay đổi tư duy và điều kiện cụ thể.
Đặc trưng cơ bản của công nghiệp hóa trong thời kỳ 1960 - 1985 là việc thực hiện đường lối đã được xác định từ Đại hội III của Đảng (1960): "Xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời gia sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành nước có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại"(1) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, Văn kiện Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam xuất bản, 1960, tập 1, tr.67.
.
Đường lối này được thực hiện có kết quả ở miền Bắc vào những năm đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1960-1965. Sau khi đất nước thống nhất, đường lối này tiếp tục được thực hiện trong phạm vi cả nước với những điều chỉnh và bổ sung nhất định. Đại hội IV của Đảng nhấn mạnh: "...Điều có ý nghĩa quyết định là phải thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tạo ra một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp hiện đại. Con đường cơ bản để tạo ra cơ cấu ấy là "ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ""(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ tư, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1977, tr.57.
.
Tại Đại hội V của Đảng, đường lối đó đã được điều chỉnh một bước khá cơ bản: "Nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong 5 năm 1981-1985 và những năm 80 là: tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp quan trọng"(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1982, tr.26.
.
Việc thực hiện đường lối công nghiệp hóa theo mô hình của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, cùng với việc duy trì khá lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung ngày càng bộc lộ rõ những khiếm khuyết, bất cập và dẫn nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng vào những năm 1980.
Thời kỳ 1986 đến nay là thời kỳ thực hiện đổi mới toàn diện và đồng bộ cả về tư duy nhận thức, quan điểm, đường lối và tổ chức chỉ đạo thực hiện. Đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã có những điều chỉnh và bổ sung quan trọng.
Tại Đại hội VI của Đảng xác định nhiệm vụ: "Tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo"(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.42.
. Và "Trong kế hoạch 5 năm 1986 - 1990 phải thực sự tập trung sức người, sức của vào thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu"(3) Sđd, tr.47.
.
Đại hội VII của Đảng, Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ và các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã xác định rõ chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng: Xây dựng nền kinh tế mở, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả...
Với những kết quả đạt được trong việc thực hiện nhiệm vụ Đại hội VII đề ra, Đại hội VIII của Đảng xác định nhiệm vụ đẩy tới một bước nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Theo tinh thần đó, Đại hội VIII tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm còn lại của thập kỷ 90 là: "Đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn diện nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Nâng cấp, cải tạo, mở rộng và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế, trước hết ở những khâu ách tắc và yếu kém nhất đang cản trở sự phát triển. Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và hết sức cấp thiết, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, phát huy tác dụng nhanh và có hiệu quả cao. Mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ. Đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại. Hình thành dần một số ngành mũi nhọn như chế biến: nông, lâm, thủy sản, khai thác và chế biến dầu khí, một số ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, du lịch. Phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ"(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.86.
.
Trên cơ sở phân tích rõ bối cảnh trong nước và đặc điểm của thời đại khi bước vào thiên niên kỷ mới, Đại hội IX của Đảng xác định rõ: "Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế trí thức"(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.91.
.
Từ việc điểm lại một cách khái quát tư tưởng cơ bản của Đảng ta về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có thể thấy rằng nhiệm vụ công nghiệp hóa được kiên trì thực hiện không phải chỉ trong điều kiện hòa bình mà ngay cả trong những năm chống chiến tranh phá hoại, đường lối công nghiệp hóa có sự điều chỉnh và bổ sung để thích ứng với điều kiện cụ thể trong nước, bối cảnh và xu thế chung của thời đại.
Chỉ xét thời gian hơn mười năm từ 1991 - 2005, việc thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đạt được những thành tựu to lớn đó là:
- Tốc độ tăng trưởng đạt mức cao liên tục trong nhiều năm, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân được tăng cường nhất là trong công nghiệp. Năng lực sản xuất, trình độ công nghệ đã có sự phát triển tích cực. Trong hơn 10 năm qua, GDP tăng bình quân 7,5%/năm. Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 5,4%/năm. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 12,9%. Các ngành dịch vụ có bước chuyển dịch tích cực, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 7%/năm.
- Cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng chú trọng khai thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế của đất nước. Cơ cấu ngành kinh tế có sự thay đổi đáng kể: nông nghiệp tuy tăng lên về giá trị tuyệt đối, song tỷ trọng GDP giảm từ 38,7% năm 1990 xuống còn 25% năm 2000, 23% năm 2002 và khoảng 22,2% năm 2003; tương ứng công nghiệp và xây dựng tăng từ 22,7% lên 34,5%, 38,6%, 39% và dịch vụ duy trì khoảng 38,6%.
Cơ cấu thành phần kinh tế đã có sự chuyển dịch trên cơ sở phát huy tiềm năng, thế mạnh của các thành phần kinh tế tạo nên động lực mới cho sự phát triển. Kinh tế nhà nước tiếp tục được đổi mới sắp xếp lại theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII.
Cơ cấu theo vùng lãnh thổ bước đầu có chuyển biến theo hướng khai thác thế mạnh từng vùng, hình thành các vùng phát triển trọng điểm. Các vùng kinh tế còn khó khăn đang từng bước vươn lên được sự hỗ trợ của Nhà nước tiếp tục có những bước phát triển khá. Đời sống kinh tế - xã hội đã có sự chuyển biến tốt.
- Chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế đã mang lại những kết quả quan trọng.
Từ nền kinh tế chủ yếu chỉ có quan hệ với các nước thuộc Hội đồng tương trợ kinh tế, Việt Nam đã mở rộng được quan hệ kinh tế với nhiều nước trên thế giới trong có cả những nước công nghiệp phát triển.
Quan hệ thương mại đã mở sang được những thị trường mới, kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, một số sản phẩm đã xác định vị thế trên thị trường quốc tế.
Việc thu hút nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức đã đạt được những kết quả đáng kể. Việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tuy có gặp khó khăn do dòng vốn trên thế giới 3 năm 2001 - 2003 bị hạn chế và cạnh tranh giữa các nước tiếp nhận đầu tư ngày càng gay gắt; nhưng do môi trường đầu tư trực tiếp được cải thiện nên Việt Nam đã thu hút được nhiều dòng vốn đầu tư và mở rộng quy mô đầu tư.
- Sự nghiệp y tế, giáo dục, văn hóa cũng phát triển đáng kể. Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư từng bước được cải thiện.
Nhìn chung, những năm qua nước ta đã phát huy được nhân tố thuận lợi bên trong và bên ngoài; vượt qua những khó khăn, thách thức; duy trì khả năng phát triển kinh tế và giữ gìn ổn định chính trị - xã hội. Đây là những kết quả rất đáng khích lệ. Tuy vậy, nền kinh tế Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức, yếu kém, hạn chế sau đây đang cản trở quá trình phát triển bền vững:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp so với mục tiêu kế hoạch đề ra, chất lượng tăng trưởng còn thấp và chưa bền vững; các cân đối kinh tế vĩ mô vừa hạn hẹp, chưa đủ sức cơ cấu lại kinh tế; vừa không vững chắc, dễ bị phá vỡ bởi những tác động khách quan, quy mô kinh tế nhìn chung còn nhỏ bé.
- Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp do chi phí sản xuất của nhiều sản phẩm công, nông nghiệp và dịch vụ còn ở mức cao. Công tác quy hoạch còn nhiều yếu kém, bất cập; nhất là khâu dự báo dài hạn và xác định đúng nhu cầu thị trường; thiếu những thông tin cập nhật. Công tác quản lý quy hoạch và thực hiện còn nhiều bất cập.
- Cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch chậm và thiếu vững chắc; tính hiện đại còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu vùng còn mang tính tự phát; chưa cập nhật dự báo các yếu tố thị trường; các ngành dịch vụ chậm phát triển, tăng trưởng thấp không đạt kế hoạch đề ra; hệ thống dịch vụ hỗ trợ phát triển sản xuất vừa yếu, vừa thiếu, vừa kém hiệu quả.
- Sự chuyển dịch cơ cấu lao động còn mang tính tự phát, chưa theo một quy hoạch, kế hoạch đào tạo có chất lượng, chưa dựa trên cơ sở phân bố lại lực lượng lao động và dân cư, chưa đáp ứng được nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Việc sử dụng nguồn lực của nền kinh tế chưa có hiệu quả, còn nhiều lãng phí. Nguồn thu ngân sách nhà nước chưa thật ổn định, chủ yếu dựa vào nguồn thu từ yếu tố đầu vào và từ khai thác tài nguyên. Chi ngân sách tiếp tục tăng nhanh so với tốc độ tăng trưởng kinh tế, các khoản chi có tính chất bao cấp, trợ cấp trực tiếp từ ngân sách đã tăng nhanh.
- Đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ thiết kế, tư vấn, giám sát... trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng còn nhiều yếu kém, hạn chế. Tình trạng nợ dây dưa, kéo dài chưa được xử lý dứt điểm. Lĩnh vực kinh tế đối ngoại còn nhiều khó khăn, chưa vượt qua những thách thức gay gắt về cạnh tranh và thị trường.
- Một số lĩnh vực xã hội còn nhiều bức xúc. Chất lượng giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém; hoạt động về khoa học và công nghệ chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Đời sống của nhân dân nhiều nơi còn khó khăn, nhất là vùng nông thôn, vùng bị thiên tai; nạn tham nhũng, tệ nạn xã hội chưa giảm; tai nạn giao thông đã giảm bớt nhưng vẫn còn nhiều bức xúc; trật tự trị an ở một số vùng còn phức tạp; tình hình khiếu kiện vẫn chưa có dấu hiệu giảm...
2. Sự cần thiết từng bước phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
Xu thế phát triển sang kinh tế tri thức trong những năm gần đây khá phổ biến với nhiều nước trên thế giới, trong đó có cả những nước đang phát triển. Việt Nam với sự chuyển mình đi lên đã mạnh mẽ trong những năm qua cũng không nằm ngoài xu thế chung đó. Sự cần thiết phải phát triển kinh tế tri thức trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta xuất phát từ những lý do khách quan sau đây:
Thứ nhất, từng bước phát triển kinh tế tri thức là cách thức nhanh chóng thoát khỏi tình trạng lạc hậu.
Những năm qua, tuy đã có những bước phát triển tích cực nhưng về cơ bản Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi tình trạng nước nghèo và kém phát triển. Việt Nam phải đương đầu với những thách thức và gay gắt, những nhiệm vụ nan giải: một mặt phải tập trung giải quyết những vấn đề cơ bản đặt ra cho nền kinh tế trong quá trình chuyển từ trình độ kinh tế nông nghiệp sang trình độ của nền kinh tế công nghiệp. Mặt khác, phải nhanh chóng nắm bắt các xu thế phát triển hiện đại không những chỉ để chống tụt hậu ngày càng xa hơn so với trình độ chung của thế giới mà còn có thể thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển khi hiện tại bản thân họ đã có trình độ phát triển cao và có nền tảng vật chất trí tuệ cho sự phát triển cao hơn. Khi các yếu tố cho phát triển không còn đơn thuần là vốn, lao động, tài nguyên mà còn có thêm nhân tố tri thức với tư cách là một nhân tố quan trọng và trực tiếp đối với sự phát triển thì việc không nhanh chóng nắm bắt và vận dụng được nhân tố này sẽ tạo nên sự tụt hậu tuyệt đối so với các nước khác.
Khi tri thức trở thành yếu tố của lực lượng sản xuất trực tiếp và có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế - xã hội, nước ta không thể bỏ lỡ cơ hội mà phải nhanh chóng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, từng bước phát triển kinh tế tri thức mới có thể rút ngắn khoảng cách với các nước trên thế giới.
Là một nước kém phát triển và thuộc loại nghèo nhất trên thế giới được đặt trong xu thế mở cửa, hội nhập. Việc thực hiện từng bước phát triển kinh tế tri thức ngay trong quá trình chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp là một thách thức rất lớn đối với nước ta. Điều này xuất phát từ thực tiễn của nước ta: nguy cơ sự tụt hậu ngày càng xa so với các nước trong khu vực và trình độ phát triển chung của thế giới. Đây cũng chính là vấn đề cơ bản đòi hỏi bắt buộc phải giải quyết đồng thời nhiệm vụ "kép": phát triển để vượt khỏi sự lạc hậu và từng bước chuyển sang phát triển kinh tế tri thức.
Thứ hai, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Nếu trong kinh tế tự nhiên và phần nào đó trong kinh tế thị trường sự phân công và trao đổi còn bị giới hạn bởi tính vùng, địa phương và quốc gia, thì trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, sự phân công và trao đổi được thực hiện thông qua mạng liên kết toàn cầu. Xu thế này tất yếu làm cho các nước xích lại gần nhau hơn trong hoạt động đầu tư và thương mại. Giờ đây các sản phẩm công nghiệp được sản xuất ra phần lớn vượt ra khỏi phạm vi của một quốc gia cụ thể, hay nói cách khác là có sự tham gia của nhiều doanh nghiệp thuộc các quốc gia khác nhau, rồi tổ hợp chúng lại với nhau. Sự giao lưu về công nghệ sản xuất, trao đổi bộ phận chi tiết sản phẩm, ứng dụng thành tựu mới của khoa học giữa các doanh nghiệp thuộc các quốc gia khác nhau để cùng sản xuất và tổ hợp thành một sản phẩm hoàn chỉnh trở thành khá phổ biến. Nói cách khác, biên giới quốc gia không bị giới hạn chặt chẽ như trước đây, mà xích lại gần nhau. Tri thức, đặc biệt là công nghệ thông tin, kinh tế mạng là những yếu tố quan trọng kết dính các doanh nghiệp và các quốc gia với nhau. Do vậy, quốc tế hóa cho hệ thống thông tin (môi trường, thị trường, khoa học - công nghệ, kinh tế...) không còn là riêng của từng quốc gia mà là chung của nhiều quốc gia trên thế giới.
Tóm lại, bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay về mặt thời đại xu hướng chủ đạo là tiến lên kinh tế tri thức như là một lực lượng quyết định sự phát triển. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới tất yếu phải nhanh chóng đi vào kinh tế tri thức và coi tri thức như là một đòn bảy để phát triển.
Thứ ba, con đường phát triển kinh tế và mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà nước ta đã chọn.
Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để đến năm 2020 biến nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp, là một định hướng cơ bản trong phát triển kinh tế - xã hội mà Đại hội IX của Đảng đã khẳng định. Công nghiệp hóa trong thời đại kinh tế tri thức đã có nhiều thay đổi so với quan niệm trước đây, bởi vậy chúng ta không thể rập khuôn theo mô hình công nghiệp hóa của các nước đã thực hiện trước đây. "Không nên hiểu công nghiệp hóa chủ yếu là xây dựng công nghiệp, mà phải hiểu đây là sự chuyển nền kinh tế từ tình trạng lạc hậu, năng suất, chất lượng hiệu quả thấp, dựa vào phương pháp sản xuất nông nghiệp, lao động thủ công là chính sang nền kinh tế có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, theo phương pháp sản xuất công nghiệp, dựa vào tiến bộ khoa học và công nghệ mới nhất, vì vậy công nghiệp hóa đi đôi với hiện đại hóa"(1) GS.TS Đặng Hữu, Báo cáo đề dẫn tại Hội thảo khoa học kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, Hà Nội, 6-2000.
.
Đối với nước ta, vấn đề cốt lõi ở đây là cần xem xét mối quan hệ hai chiều giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân với phát triển kinh tế tri thức. Có mạnh dạn đi ngay vào phát triển kinh tế tri thức mới có khả năng thay đổi phương thức và đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa thực hiện được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020. Ngược lại, việc thực hiện các bước đi và mục tiêu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mới tạo ra kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kể cả hạ tầng xã hội cho phát triển kinh tế tri thức mới có điều kiện để đi thẳng vào kinh tế tri thức.
Thứ tư, ảnh hưởng nhanh chóng và sâu rộng của kinh tế tri thức đối với sản xuất và đời sống.
ở nước ta hiện nay, xét cả trên phương diện lý luận và thực tế nhiều người vẫn còn xa lạ với phạm trù kinh tế tri thức. Song trong cuộc sống thực tại họ lại rất gần gũi với các sản phẩm hoặc công nghệ do tri thức hiện đại mang lại. Kinh tế tri thức tác động tới con người qua nhiều phương tiện (truyền hình, máy vi tính và internet, công cụ sản xuất hoặc sản phẩm giải trí...). Những thành tựu của khoa học và tri thức hiện đại được ứng dụng nhanh chóng trong các trường học, viện nghiên cứu và được lớp trẻ tiếp cận nhanh chóng. Kinh tế tri thức cũng nhanh chóng tác động đến hệ thống cơ quan công quyền, các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội,... Hiện nay nhiều chương trình ứng dụng công nghệ thông tin và triển khai áp dụng công nghệ mới như: Chính phủ điện tử, doanh nghiệp điện tử, công viên phần mềm, khu công nghệ cao, thông tin trực tuyến và hội nhập với kinh tế mạng toàn cầu.
Thứ năm, nhu cầu của các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và người dân đối với tri thức, khoa học và thông tin.
Xuất phát từ tính tích cực của của công nghệ thông tin nói riêng, kinh tế tri thức nói chung, các tổ chức và cá nhân đã hướng vào việc khai thác các sản phẩm của công nghệ tri thức. Điều đó thể hiện nhu cầu của thị trường đối với các sản phẩm của kinh tế tri thức. Chẳng hạn, việc nghiên cứu tìm tòi con đường cải cách nền hành chính quốc gia; việc nghiên cứu và áp dụng các phương thức và các công cụ nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Cũng tương tự như vậy, người tiêu dùng nắm bắt thông tin trên thị trường và sản phẩm, thông tin hội nhập để có sự lựa chọn thông minh và tiết kiệm thời gian, quãng đường do phải lãng phí các yếu tố không cần thiết.
Tóm lại, đứng trước xu thế có tính tất yếu của thời đại chuyển sang kinh tế tri thức, Việt Nam không còn sự lựa chọn nào khác nếu không chịu bị tụt hậu, cách xa các nước trong sự phát triển. Những lập luận trên đây nhằm mục đích cung cấp thêm những khía cạnh để khẳng định rõ hơn xu thế phát triển tất yếu của một quốc gia cụ thể. Vấn đề còn lại là nên xác định bước đi, tốc độ như thế nào cho phù hợp với khả năng, điều kiện và mục tiêu, nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
3. Khả năng phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
Để có cơ sở xác định đúng phương hướng phát triển kinh tế tri thức phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, vấn đề quan trọng là cần xem xét khả năng thực tế của nước ta, những gì đã có và đang có, những chuẩn bị cho phát triển lĩnh vực này như thế nào. Với cách đặt vấn đề như vậy, việc phân tích, đánh giá khả năng này cần nhìn nhận trên hai khía cạnh: những yếu tố tạo thế thuận lợi cho phát triển (hay những mặt mạnh) và những yếu tố cản trở sự phát triển (hay mặt yếu) của nó.
Thuận lợi:
- Trước hết, việc phát triển kinh tế tri thức và công nghệ thông tin là vấn đề mà Đảng và Nhà nước rất quan tâm. Điều đó được thể hiện thông qua việc hoạch định các chính sách phát triển, chính sách ưu tiên đầu tư việc thành lập các tổ chức và nhanh chóng đưa vào hoạt động.
- Thứ hai, đã có những cơ sở vật chất ban đầu của một nền công nghiệp mới, trong đó có những yếu tố đã tiếp cận với hiện đại.
Trong những năm qua, chúng ta đã thu hút được khá lớn nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành, các vùng, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Đây là bộ phận quan trọng đưa lại công nghệ kỹ thuật cao, hiện đại cho nền kinh tế nước ta (công nghiệp điện tử, công nghiệp lắp ráp và chế tạo ô tô, xe máy, khai thác dầu khí...). Ngoài ra, nhờ cải cách kinh tế theo hướng mở cửa, khu vực kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh cũng chuyển động đi lên, thực hiện đầu tư đổi mới công nghệ nhanh chóng, nắm bắt công nghệ hiện đại, bước đầu đưa ra được những sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
- Thứ ba, công nghệ thông tin và lĩnh vực viễn thông phát triển với tốc độ nhanh.
Nhờ đi thẳng vào hiện đại hóa theo hướng tin học hóa, số hóa và kinh tế mạng, bưu chính viễn thông Việt Nam và ngành công nghiệp thông tin phát triển khá nhanh đã có một số lĩnh vực đạt trình độ quốc tế. Nhận thức của xã hội về công nghệ thông tin, về kinh tế tri thức cũng như ý nghĩa, vai trò của nó trong sản xuất và đời sống và với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ngày càng được nâng cao.
- Thứ tư, yếu tố kinh tế mở đã bước đầu thâm nhập vào các doanh nghiệp và dân chúng.
Từ khi chuyển sang kinh tế thị trường, sản xuất hàng hóa có sự phát triển đáng kể. Hàng hóa do các doanh nghiệp trong nước sản xuất không chỉ lấy vị thế ở thị trường trong nước vốn đã mất trong những năm trước đây, mà còn dần dần từng bước chiếm lĩnh được thị trường thế giới. Nhờ quan điểm và chính sách kinh tế mở cửa hơn nên giao lưu kinh tế giữa các doanh nghiệp trong nước với các đối tác nước ngoài và ngược lại có sự gia tăng đáng kể. Các quan hệ này được xem xét trên cả phạm vi quốc gia, ngành, địa phương và các doanh nghiệp. Tất cả điều đó đòi hỏi nhanh chóng nắm bắt công nghệ thông tin và tri thức hiện đại vào giải quyết các công việc của tổ chức. Bởi vậy, việc ra đời các tổ chức ảo hay Chính phủ điện tử, doanh nghiệp điện tử, khu công nghệ phần mềm, hội nhập với kinh tế mạng... là những biểu hiện cụ thể của khả năng này trong nền kinh tế.
- Thứ năm, đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực đã được xã hội coi trọng.
Nguồn nhân lực trong cơ chế thị trường vẫn là yếu tố quyết định cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong kinh tế tri thức, việc tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao, sáng tạo và luôn đổi mới là rất cần thiết và coi đó như là một vấn đề trung tâm để chuyển từ nền công nghiệp sang kinh tế tri thức.
Khó khăn:
Thứ nhất, nền kinh tế và công nghiệp nước ta về cơ bản vẫn còn ở tình trạng lạc hậu, các ngành công nghiệp truyền thống vẫn còn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tieu luan .doc