Trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, triết học cổ điển Đức là một giai đoạn phát triển rất quan trọng, xuất hiện vào cuối thế kỷ XVIII và tồn tại cho đến hết thế kỷ XIX, cùng với Phoiơbăc, Hêghen, thì Kant là một trong những đại biểu tiêu biểu nhất. Những đóng góp quan trọng của Kant làm cho ông xứng đáng là người sáng lập nền triết học cổ điển Đức vĩ đại này. Triết học cổ điển Đức được xem là sự chuẩn bị lý luận đầy đủ nhất cho sự ra đời của triết học Mác.
Cùng với triết học thẫm mỹ; triết học thực tiễn thì triết học lý luận là một trong ba bộ phận quan trọng trong triết học của Kant. Triết học lý luận là nền tảng duy tâm tiên nghiệm của triết học Kant, bao hàm những tư tưởng sâu sắc về nhận thức của con người và có ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống tinh thần của người Tây Âu từ đó đến nay. Triết học lý luận đã tạo ra một “cuộc cách mạng Côpécníc” trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Triết học lý luận của ông là sự tổng kết những vấn đề mà nhận thức nhân loại đã và đang đặt ra cho thời đại ông. Những tổng kết của Kant bắt đầu từ chỗ phê phán, tìm tòi rồi đi đến sáng tạo, mở ra nhiều vấn đề, nhiều con đường mới cho sự phát triển của lý luận nhận thức và phương pháp của lôgíc học về sau này.
Với tầm quan trọng đó, việc nghiên cứu “triết học lý luận” của Kant là một vấn đề cấp thiết. Tìm hiểu triết học lý luận của Kant không chỉ giúp chúng ta làm sáng tỏ những đóng góp của Kant đối với lịch sử triết học mà còn giúp cho chúng ta nắm vững hơn những nguyên lý của triết học Mác trong đó có kế thừa nhất định những thành tựu mà triết học Kant đã đạt được. Vì vậy em chọn vần đề “Nhận thức luận trong triết học của Kant” làm tiểu luận nghiên cứu của mình.
14 trang |
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1229 | Lượt tải: 1
Nội dung tài liệu Tiểu luận Nhận thức luận trong triết học của Kant làm nghiên cứu của mình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, triết học cổ điển Đức là một giai đoạn phát triển rất quan trọng, xuất hiện vào cuối thế kỷ XVIII và tồn tại cho đến hết thế kỷ XIX, cùng với Phoiơbăc, Hêghen, thì Kant là một trong những đại biểu tiêu biểu nhất. Những đóng góp quan trọng của Kant làm cho ông xứng đáng là người sáng lập nền triết học cổ điển Đức vĩ đại này. Triết học cổ điển Đức được xem là sự chuẩn bị lý luận đầy đủ nhất cho sự ra đời của triết học Mác.
Cùng với triết học thẫm mỹ; triết học thực tiễn thì triết học lý luận là một trong ba bộ phận quan trọng trong triết học của Kant. Triết học lý luận là nền tảng duy tâm tiên nghiệm của triết học Kant, bao hàm những tư tưởng sâu sắc về nhận thức của con người và có ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống tinh thần của người Tây Âu từ đó đến nay. Triết học lý luận đã tạo ra một “cuộc cách mạng Côpécníc” trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Triết học lý luận của ông là sự tổng kết những vấn đề mà nhận thức nhân loại đã và đang đặt ra cho thời đại ông. Những tổng kết của Kant bắt đầu từ chỗ phê phán, tìm tòi rồi đi đến sáng tạo, mở ra nhiều vấn đề, nhiều con đường mới cho sự phát triển của lý luận nhận thức và phương pháp của lôgíc học về sau này.
Với tầm quan trọng đó, việc nghiên cứu “triết học lý luận” của Kant là một vấn đề cấp thiết. Tìm hiểu triết học lý luận của Kant không chỉ giúp chúng ta làm sáng tỏ những đóng góp của Kant đối với lịch sử triết học mà còn giúp cho chúng ta nắm vững hơn những nguyên lý của triết học Mác trong đó có kế thừa nhất định những thành tựu mà triết học Kant đã đạt được. Vì vậy em chọn vần đề “Nhận thức luận trong triết học của Kant” làm tiểu luận nghiên cứu của mình.
NỘI DUNG
Vài nét về cuộc đời và triết học của Kant.
Imanuel Kant (1724- 1804) được mọi người biết đến là người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức; là một trong những nhà tiết học vĩ đại nhất của lịch sử tư tưởng phương Tây trước Mác. Triết học của ông là “nền tảng và điểm xuất phát của triết học Đức hiện đại, những hạn chế trong triết học của ông không làm lu mờ công lao đó của Kant”.
Kant sinh năm 1724 ở Kênisbec. Năm 1745 ông tốt nghiệp đại học tổng hợp Kênisbec và trở thành một gia sư. Năm 1755 ông là giáo sư và từ năm 1770 là giáo sư của trường đại học Kênisbec. Là một trong những học giả uyên bác nhất đương thời, ông giảng dạy về nhiều lĩnh vực: siêu hình học, logic học và toán học, cơ học, địa chất học…
Trong suốt cuộc đời 80 năm của mình, ông đã sản sinh ra hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng để đời như : Phê phán lý tính thuần túy (1781); Mở đầu khoa siêu hình học tương lai (1783); Các nguyên tắc của siêu hình học về đạo đức (1785) Phê phán lý tính thực tiễn (1788); Phê phán năng lực phán đoán (1790); Nhân học (1798)…..
Sự phát triển về tư tưởng triết học của Kant được phân làm 2 thời kỳ: thời kỳ tiền phê phán (trước 1770) và thời kỳ phê phán (sau 1770).
Thời kỳ tiền phê phán.
Thời kỳ đầu các tác phẩm chủ yếu của Kant viết về triết học tự nhiên, chẳng hạn như tác phẩm Lịch sử tự nhiên đại cương và học thuyết về bầu trời viết năm 1755 ông đưa ra giả thuyết giải thích nguồn gốc sự hình thành của vũ trụ. Trong các tác phẩm triết học của thời kỳ tiền phê phán lúc đầu Kant chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa duy lý của Lépnít và Vônphơ nhưng về sau trong các tác phẩm Về những sai lầm tinh tế của bốn loại hình tam đoạn luận (Xuất bản 1762) và trong Kinh nghiệm của việc dựa vào triết học khái niệm các đại lượng phủ định (Xuất bản 1763) thì Kant đi tìm hạn chế của chủ nghĩa duy lý và logic. Với ảnh hưởng của Hium, Kant ngày càng xa rời cách nhìn suy lý và logic. Đó chính là xuất phát cho sự chuyển biến từ các tác phẩm thời kỳ tiền phê phán sang các tác phẩm thời kỳ phê phán.
Triết học thời kỳ phê phán
Do chịu ảnh hưởng của các biến đổi ở Pháp và Tây âu trước cách mạng tư sản 1789 và đặc biệt là ảnh hưởng của Hium, thế giới quan của Kant đã biến đổi. Ông đặt nhiệm vụ nghiên cứu toàn bộ các vấn đề triết học từ trước tới nay, trên tinh thần phê phán như quan niệm về con người, về lý tính về khả năng nhận thức của con người, về hành vi đạo đức, về trách nhiệm và hạnh phúc của con người. Theo Kant khoa học về con người chưa được chú trọng nghiên cứu và phát triển đúng mức, chưa hướng vào việc giải quyết những vấn đề của cuộc sống và hoạt động thực tiễn cho con người có cách nhìn về bản thân và về thế giới từ đó vạch ra những nguyên tắc cơ bản cho hoạt động sống của con người vì những lý tưởng nhân đạo, đạo đức, tự do, xứng với nhân vị cuả con người. Hệ thống triết học của ông được thể hiện qua bộ 3 tác phẩm “phê phán” nổi tiếng của ông. Trong Phê phán lý tính thuần túy, ông trình bày nhận thức luận. Ngoài ra nhận thức luận còn được trình bày một các phổ cập hơn trong cuốn Tiểu luận về mọi siêu hình học tương lai có quyền được tự coi là khoa học(1783). Luân lý học của ông được trình bày trong cuốn Phê phán lý tính thực tiễn (1788). Cuốn Phê phán năng lực phán đoán (1790) dành chủ yếu cho những vấn đề mỹ học và cả vấn đề về tính có mục đích trong thế giới hữu cơ.
Theo Kant các triết gia từ xưa tới nay hình như quên mất vấn đề quan trọng là con người. Vì vậy Kant đặt nhiệm vụ hàng đầu cho mình là phải xác định bản chất của con người, toàn bộ các vấn đề của triết học phải được hướng vào việc giải quyết những vấn đề của cuộc sống và hoạt động thực tiễn của con người. Triết học phải đem lại cho con người một cơ sở và nền tảng thế giới quan mới, vạch ra những nguyên tắc cơ bản của cuộc sống của con người vì những lý tưởng nhân đạo. Để làm được điều đó thì triết học phải lý giải các vấn đề : Tôi có thể biết được cái gì?, Tôi cần phải làm gì?, Tôi có thể hy vọng cái gì?, Con người là gì?
Bước ngoặt trong sự phát triển triết học của Kant là cuộc gặp gỡ của ông với thuyết duy nghiệm của Hume. Ông nói: tôi công khai thú nhận, gợi ý của David Hume chính là điều lần đầu tiên đã đánh thức tôi ra khỏi giấc ngủ giáo điều nhiều năm về trước và đã vạch ra một hướng đi mới cho các tra cứu của tôi trong lĩnh vực tư duy triết học”. Kant từ chối theo con đường của Hume không chỉ vì nó có thể dẫn ông tới chủ nghĩa hoài nghi mà còn vì ông cảm thấy rằng mặc dù Hume đã đi đúng đường nhưng không hoàn thành nhiệm vụ giải thích làm thế nào đạt được tri thức. Vì vậy, Kant đã tìm cách xây dựng trên điều mà ông nghĩ là có giá trị cả trong chủ nghĩa duy lý lẫn trong chủ nghĩa duy nghiệm, và bác bỏ điều gì không thể bảo vệ trong hệ thống này. Ông bắt đầu một đường lối mới mà ông gọi là “triết học phê phán”.
Triết học phê phán của Kant chủ yếu phân tích khả năng của lý trí con người, được ông hiểu là “ một sự truy tìm phê phán khả năng của lý trí liên quan tới mọi nhận thức mà nó có thể cố gắng đạt tới một cách độc lập với mọi kinh nghiệm”. Đường lối của triết học phê phán của ông đặt ra là “năng lực hiểu biết và lý trí có thể biết những gì và bao nhiêu mà không cần kinh nghiệm?” chính vì vậy mà triết học lý luận của Kant chủ yếu đề cập tới nhận thức luận và logic học với mục đích xây dựng một nền tảng thế giới quan mới cho con người nhằm giải đáp cho câu hỏi “ con người có thể biết được cái gì?”.
Những nội dung chính của “triết học lý luận”
Triết học lý luận là một trong ba bộ phận cơ bản của triết học Kant, nó giải quyết một trong ba vấn đề lớn được đặt ra trong hệ thống triết học của ông. Bộ phận này được ông trình bày một cách chi tiết và toàn diện trong tác phẩm “ Phê phán lý tính thuần tuý” được ông viết vào năm 1781. Tác phẩm này đã vạch ra giới hạn cho lý trí con người trong hoạt động nhận thức và nó chính là lời giải đáp cho một trong ba câu hỏi lớn mà Kant đã đặt ra trong hệ thống triết học của mình: Với tư cách là con người, tôi có thể biết gì? Câu hỏi này được trả lời trong “Triết học lý luận”. Ở đây, ông xác định những điều kiện và giới hạn nhận thức của con người, vạch ra rằng con người có tri thức về cái gì? Giới hạn của chúng ra sao, do đó địa vị con người được xác định trong hoạt động nhận thức như thế nào?
Trong hệ thống triết học của mình, Kant còn đặt ra hai câu hỏi lớn khác nằm trong hai bộ phận còn lại: với tư cách là con người, tôi cần phải làm gì?, được trả lời trong “ triết học thực tiễn”; với tư cách là con người, tôi có thể hy vọng gì?, được trả lời trong “triết học thẫm mỹ” và “ Mục đích luận”.
Kant được coi là người đầu tiên trong lịch sử loài người đã đứng ra nghiên cứu về khả năng cũng như giới hạn của tri thức con người. Ông phân biệt thế nào là tri thức và thế nào là suy tưởng. Ông cũng là người phân biệt hai loại tri thức của con người: tri thức thường nghiệm (tri thức kinh nghiệm cảm tính) và tri thức thực nghiệm (tri thức khoa học). Kant cho rằng mỗi tri thức bao giờ cũng là một thể thống nhất của quan niệm và cảm giác; trong đó quan niệm là khuôn hình hay hình thức của tri thức, còn cảm giác là vật liệu hay chất thể của tri thức. Thiếu cảm giác, những quan niệm của ta chỉ là những khuôn hình trống rỗng, không phải là tri thức; thiếu quan niệm thì những cảm giác của ta sẽ chỉ là những cảm giác mù, tức cảm giác mà không biết là cảm giác gì.
Khi giải quyết vấn đề khả năng tri thức của con người, Kant đã bắt đầu từ chổ phân biệt thế nào là tri thức khoa học và thế nào là tri thức kinh nghiệm cảm tính. Kant viết: “tất cả mọi tri thức của ta bắt đầu từ kinh nghiệm...nhưng nói như thế không có nghĩa là tri thức của ta hoàn toàn do kinh nghiệm đâu, vì trong tri thức của ta còn có phần trí năng không lệ thuộc vào kinh nghiệm”. Như vậy, giữa hai loại tri thức trên có một sự khác biệt lớn; một bên hoàn toàn thụ động nhưng bê kia lại rất năng động và luôn tìm kiếm những phương pháp mới.
Khi nói về tri thức kinh nghiệm cảm tính, ông cho rằng, kinh nghiệm cho ta biết sự vật thế này hay thế khác, nhưng không thể cho ta biết sự vật có thể là thế khác chăng. Do đó, tri thức kinh nghiệm cảm tính luôn có tính chất vụn vặt, lẽ tẻ và bó hẹp vào từng sự kiện mà ta đã kinh nghiệm. Trái lại, tri thức khoa học vượt tới mức phổ quát và tất yếu, bao trùm lên tất cả mọi trường hợp có thể xãy ra giống như vậy, đó chính là trí năng của con người, Kant gọi loại tri thức này là tri thức tiên thiên. Kant viết: “ tính chất tất yếu và tính chất phổ quát thực sự là những dấu hiệu chắc chắn của một tri thức tiên thiên và hai tính chất này không khi nào lìa nhau”. Từ quan niệm về tri thức nêu trên, Kant đã phê phán nghiêm khắc những quan niệm của các triết gia duy cảm và duy lý.
Như vậy, có thể thấy ở học thuyết của Kant, tri thức được cấu tạo bởi hai yếu tố không thể thiếu: quan niệm và cảm giác, không có yếu tố nào được coi là cần thiết hoặc quan trọng hơn yếu tố kia. Trên cơ sở đó ông đã dùng phương pháp phê bình để chứng minh sự khác biệt hoàn toàn giữa hai loại tri thức trên . Từ đó, ông đi đến khẳng định chỉ có tri thức khoa học mới có thể vạch ra được quy luật của thế giới hiện tượng.
Kant xác định đối tượng của “ triết học lý luận” không phải là bản thân thế giới tự nhiên như nó tồn tại, mà là hoạt động nhận thức của con người, là nghiên cứu những điều kiện và năng lực chủ thể của nhận thức. Phù hợp với đối tượng đó thì nhiệm vụ của triết học lý luận là vạch ra xem khoa học sản sinh ra tri thức như thế nào và từ đó xác định bản chất của con người trong lĩnh vực sinh hoạt tri thức.
Để giải quyết các vấn đề đó, Kant đã chỉ ra đối tượng nhận thức của con người là thế giới, nhưng bản thân thế giới này được Kant chia làm hai, thế giới hiện tượng và thế giới “ vật tự nó”; trong đó thế giới hiện tượng là sản phẩm của sự tác động của thế giới “ vật tự nó” vào chủ thể, còn thế giới “ vật tự nó” là thế giới của những gì tồn tại do bản thân nó hay nó là nguyên nhân tồn tại của nó, nói cách khác đây là thế giới tồn tại khách quan đối với con người. Thế giới hiện tượng mang tính hữu hạn vì những sự vật của nó tồn tại trong không gian và thời gian, hơn nữa chúng có không gian và thời gian, do đó nó là cái tạm thời. Còn thế giới “ vật tự nó” là cái vô hạn, vĩnh viễn vì nó tồn tại ngoài không gian và thời gian, nó không có không gian và thời gian. Nếu thế giới hiện tượng tồn tại tuân theo quy luật, tất yếu thì thế giới “ vật tự nó” tồn tại không tuân theo quy luật, tất yếu hay nói cách khác nó không bị chi phối bởi quy luật, tất yếu. Nếu thế giới hiện tượng mang tính nhân quả thì thế giới “ vật tự nó” tồn tại ngoài liên hệ nhân quả. Từ đó Kant nhận xét, thế giới hiện tượng là thường nghiệm, là thế giới của những cái tương đối, còn thế giới “ vật tự nó” là siêu nghiệm, nó là thế giới của những cái tuyệt đối.
Khi bàn về quá trình nhận thức của con người, Kant cho rằng con người ta nhận thức và từ đó có tri thức bởi một năng lực tiên thiên mà ông gọi là lý tính lý luận (hay lý tính tiên thiên, lý tính thuần tuý). Ông coi lý tính là một năng lực tinh thần có sẵn ở con người từ đầu ngay khi mới sinh ra và có như nhau ở tất thảy mọi người. Ông gọi tính chất ấy là tiên thiên. Lý tính lý luận trong hoạt động nhận thức của con người có ba cấp độ: cảm năng, trí năng và lý năng. Mặc dù đối tượng nhận thức là thế giới nói chung nhưng ba cấp độ này có chức năng khác nhau và tương ứng với chúng có ba học thuyết nghiên cứu về những khả năng nhận thức của con người. Như vậy “ triết học lý luận” của Kant không phải nghiên cứu giới tự nhiên mà là nghiên cứu hoạt động nhận thức của con người với mục đích là xác lập các quy luật, giới hạn của lý tính con người.
Học thuyết về cảm giác siêu nghiệm.
Học thuyết này nghiên cứu về tất cả các hình thái của khả năng cảm giác ở con người. Điều này cho thấy ông luôn chú tâm đến những gì là căn nguyên, là khả năng thuần tuý của nhận thức.
Kant cho rằng nhận thức của con người trước hết được thực hiện bởi cảm năng. Cảm năng là một năng lực tiên thiên thuộc về lý tính lý luận. Cảm năng đem lại cho con người những tri thức kinh nghiệm cảm tính. Nhưng để có những tri thức kinh nghiệm cảm tính đó thì hoạt động của cảm năng phải có bộ công cụ đó là không gian và thời gian. Vì không có bất kỳ tri giác nào vượt ra khỏi không gian và thời gian cụ thể nên tri thức gắn liền với nó không có được tính phổ quát và tất yếu. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh rằng không gian và thời gian không phụ thuộc vào sự vật mà đó là những hình thứcn tiên thiên của cảm năng và nó có sẵn trong cảm năng.
Nếu như chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: không gian và thời gian là phương thức tồn tại của vật chất thì trong Triết học phê phán, Kant đã xem không gian là hình thức bên ngoài và thời gian là hình thức bên trong của kinh nghiệm cảm tính. Theo Kant, quá trình nhận thức được tiến hành khi sự vật tác động vào giác quan của chúng ta tạo cho chúng ta những cảm giác hỗn độn, không có trật tự, không có khuôn hình. Nhờ không gian và thời gian tiên thiên mà cảm năng sắp xếp những cảm giác lại làm cho chúng trở nên có trật tự, có khuôn hình. Khi những cảm giác có trật tự, có khuôn hình thì đó là những tri thức cảm tính. Quá trình thực hiện cảm năng để sản sinh ra những tri thức kinh nghiệm cảm tính Kant gọi là cảm tính. Nhưng vì tri thức kinh nghiệm cảm tính có đặc trưng đơn lẽ, cá biệt, mang tính chất chủ quan nên theo Kant những tri thức chưa có thể vạch ra được các quy luật, các liên hệ tất yếu nhân quả của sự vật. Vì vậy theo Kant, trong lý tính lý luận còn có năng lực đem lại cho chúng ta tri thức đó là trí năng.
Học thuyết về phép phân tích siêu nghiệm.
Khi bàn về vấn đề tri thức trong “ triết học lý luận”, Kant quả quyết rằng con người chỉ có trực giác giác quan mà nhờ đó con người biết sự vật theo cách đã bị sự vật kích động và sau đó nhờ trí năng con người mới thực sự nhận thức sự vật. Như vậy, nhiệm vụ của trí năng là nhận thức sự vật. Kant cho rằng, cảm năng mới chỉ cho ta những tri giác cá thể, đơn lẽ, mang tính chủ quan. Để những tri giác trở thành kinh nghiệm, là cái khách quan và chung hơn thì nhận thức phải dựa vào trí năng. Trí năng là một năng lực tiện thiên cho ta những tri thức về các mối liên hệ tất yếu, nhân quả của sự vật. Hay nói cách khác, trí năng có thể thoả mãn con người về những tri thức khoa học với hai đặc tính: phổ quát và tất yếu. Để sản sinh ra những tri thức khoa học đó, trí năng phải dựa trên bộ công cụ là những phạm trù tiên thiên. Quá trình trí năng sản sinh ra tri thức khoa học Kant gọi là giác tính.
Trong “ Triết học lý luận”, ngay khi bàn về tri thức, Kant đã bàn ngay đến phạm trù vì ông coi đó là những điều kiện để ta có thể có tri thức và cũng là hình thức nhất định phải có của tri thức ta. Kant đã xây dựng hệ thống gồm 12 phạm trù được chia thành 4 nhóm. Nhóm thứ nhất gồm các phạm trù về số lượng: số đơn, số nhiều, toàn thể; nhóm thứ hai gồm các phạm trù về chất: hiện thực, phủ định, hạn chế; nhóm thứ ba là các phạm trù tương quan: tuỳ thuộc và độc lập, nguyên nhân và kết quả, tác động lẫn nhau; nhóm thứ tư là các phạm trù hình thức: khả năng và không khả năng, tồn tại và không tồn tại, tất yếu và ngẫu nhiên.
Các phạm trù trên là những khái niệm tiên nghiệm của trí năng có sẵn tính phổ quát và tất yếu. Chúng là những khái niệm đã được con người định trước về sự vật. Nhờ tính phổ quát, tất yếu và khả năng khái quát và các phạm trù của trí năng vượt ra khỏi phạm vi ý thức cá nhân. Khi lí luận về các phạm trù thiên tiên, Kant cho rằng chúng nguyên chỉ là những khuôn hình trống rỗng mà chưa có nội dung tức chưa có tri thức, mà “ tư tưởng thiếu nội dung thì trống rỗng, trực quan thiếu khái niệm thì mù quáng”. Do vậy, để có nội dung và trở thành tri thức, các phạm trù phải được vận dụng vào kinh nghiệm cảm tính của con người, lúc đó trở nên, lúc đó chúng trở nên có nội dung kinh nghiệm và những kinh nghiệm do được vận dụng bởi các phạm trù mang sẵn tính phổ quát và tất yếu, cho nên những kinh nghiệm cảm tính trở thành tri thức khoa học. Với điều này thì sự phê phán lý luận của Kant có tác dụng khắc phục cái cực đoan, hạn chế của chủ nghĩa duy lí và duy cảm.
Với tư cách là chủ thể nhận thức, con người chỉ biết được những gì do nó tạo ra. Các phạm trù là những khuôn mẫu do giác tính tạo nên và sự vật được tạo dựng theo những khuôn mẫu này. Do đó nguồn gốc tri thức của con người là giác tính, là kết quả “suy diễn tiên nghiệm” của các phạm trù vào kinh nhgiệm cảm tính. Đến đây, Kant khẳng định lại tri thức của con người chỉ là sự hiểu biết về những gì có tính chất hiện tượng luận, còn vật tự nó với tính cách là cái tuyệt đối thì không thể nhận thức được.
Học thuyết về phép biện chứng siêu nghiệm.
Nếu cảm năng và trí năng là những năng lực tiên thiên cho ta tri thức về sự vật, hiện tượng thì lý năng-một năng lực tiên thiên khác thuộc về lý tính lý luận, cho ta những ý tưởng, ý niệm siêu nghiệm về thế giới “vật tự nó”; đó là những ý tưởng, ý niệm về những tồn tại ngoài không gian và thời gian, ngoài liên hệ nhân quả, ngoài tính quy luật, tính tất yếu, tức là ý niệm, ý tưởng về cái tuyệt đối hay là ý tưởng, ý niệm về cái siêu nghiệm. Quá trình sử dụng lý năng, Kant gọi là lý tính.
Kant cho rằng, nếu giác tính đã dừng lại ở khuôn khổ hiện tượng luận và thừa nhận “ vật tự nó” là không thể nhận thức được lý tính- đó là khả năng trí tuệ cao nhất của con người, lại có khát vọng để vươn tới nhận thức mọi cái một cách trọn vẹn, tuyệt đối. Kant yêu cầu nhận thức của con người phải vượt qua giới hạn giác tính, xem cái tuyệt đối như là mục tiêu vươn tới.
Theo Kant bản chất của lý tính là có tính chất biện chứng và học thuyết về lý tính là phép biện chứng tiên nghiệm. Năng lực lý tính là năng lực cao nhất của chủ thể. Năng lực này không thể trực tiếp vận dụng vào đối tượng cụ thể và kinh nghiệm cảm tính mà chỉ vận dụng vào khái niệm, phán đoán và quy luật của lý trí. Năng lực tổng hợp của lý tính thông qua phương thức suy luận gián tiếp để khái quát những tri thức phong phú của tư duy cảm tính thành những nguyên lý cơ bản, quan trọng nhất. Chính điều này làm cho lý tính có được tri thức khách quan khoa học. Trong khi năng lực nhận thức của cảm tính là trực tiếp, tương đối hữu hạn có điều kiện thì ngược lại năng lực nhận thức của lý tính luôn luôn khát vọng đạt tới những tri thức tuyệt đối, tự do, vô điều kiện. Điều này được Kant thể hiện dưới dạng các ý niệm chủ yếu của lý tính bao gồm ý niệm về tâm lý học, về vũ trụ học và về thần học. Tương ứng tâm lý học đó là linh hồn, là sự thống nhất tối cao của mọi hiện tượng tinh thần; tương ứng với vũ trụ học là thế giới, là sự thống nhất tối cao của mọi hiện tượng vật lý; tương ứng với thần học là Thượng đế, là sự thống nhất tất cả mọi hiện tượng vật chất và tinh thần.
Như vậy Kant đã hình thành nên các con đường tiếp cận với đối tượng truyền thống của triết học duy tâm như linh hồn, thế giới và thượng đế..Theo Kant khi lý tính của con người muốn xâm nhập vào thế giới vật tự nó để đạt được tri thức tuyệt đối thì lại nảy sinh ra mâu thuẫn (gọi là antinomia) vì khả năng của con người không cho phép làm được việc đó. Kant khẳng định tồn tại 4 antinomia là 4 câu hỏi được đặt ra cho ý niệm về thế giới. Các antinomia này cũng chính là những mâu thuẫn bên trong của ý niệm lý tính, là những sai lầm bất lực của lý tính sau khi vượt ra khỏi phạm vi kinh nghiệm để xâm nhập vào thế giới vật tự nó. Chính điều này bộc lộ hạn chế của lý tính. Những ý niệm trên đây là lĩnh vực mà nhận thức của con người không đạt tới được, là những gì nằm ngoài phạm vi tri thức của con người, cho nên không thể dựa vào lý tính của con người để đạt tới được mà chỉ có dùng tín ngưỡng, niềm tin để giải quyết chúng.
Như vậy khi đi từ giác tính đến lý tính, Kant đã hạ thấp ý nghĩa của tư duy bằng cách phủ nhận năng lực của lý tính có thể đạt được chân lý khách quan. Kant cho triết học không thể nhận thức được chân lý khách quan. Kant đã cố gắng để làm cho người ta tin chỉ có triết học của ông là có thể chấp nhận được. Tuy nhiên triết học của Kant đã tách rời nhận thức ra khỏi hiện thực khách quan cho nên đã kìm hãm ông trong vòng luẩn quẩn của ý thức tiên nghiệm. Nhận thức hoàn toàn bị tách rời khỏi hiện thực khách quan và làm nhiệm vụ tự nó nghiên cứu bản thân nó nghĩa là đối tượng của triết học không phải là thế giới khách quan, là những quy luật chung của thế giới hiện thực mà là thế giới hiện tượng do lý tính của con người xây dựng nên. Kant không coi nhận thức như là quá trình lịch sử dựa vào hoạt động thực tiễn của con người mà coi nó như là một cái gì khi đã có thì lúc nào cũng như vậy. Ở đây Kant đã tách rời hiện tượng ra khỏi bản chất, không nhìn thấy được thống nhất biện chứng của chúng cho nên theo Kant triết học thực sự không phải là học thuyết về vật tự nó mà là hiện tượng luận, nghĩa là chủ thể nhận thức chỉ nhận thức được những gì do chính mình sáng tạo ra.
Thông qua các quan niệm về antinomia và cách giải quyết chúng, Kant đã chứng tỏ sự nhất quán là “vật tự nó” không thể nhận thức được. Con người chỉ có tri thức về thế giới hiện tượng mà không thể có tri thức về thế giới “vật tự nó” vì khi vấp phải những antinômi thì lý tính rơi vào sai lầm, do đó lý năng không thể đem lại cho ta tri thức về “vật tự nó”. Đây là quan điểm bất khả tri của Kant, nhưng “vật tự nó” bất ti mà khả niệm tức là không thể tri thức về “vật tự nó” nhưng lại có thể có ý niệm về “vật tự nó”. “Vật tự nó” theo quan niệm của Kant là vũ trụ vô hạn, linh hồn bất tử và chúa trời. Đây là thế giới không tuân theo quy luật, không tuân theo liên hệ nhân quả, không tồn tại trong không gian và thời gian cho nên nó là thế giới tự do tuyệt đối và ông tuyên bố tự do tuyệt đối không thuộc thẩm quyền của nhận thức, “vật tự nó” vơi tư cách là thế giới tự do tuyệt đối nằm ngoài lĩnh vực nhận thức. Điều đó thể hiện sự khác nhau trong quan niệm về tự do của Kant và Spinôda và Hêghen. Nếu như Spinôda và Hêghen coi tự do như là tất yếu được nhận thức thì Kant cho rằng tự do chỉ là tương đối thuộc về hiện tượng luận. Ngoài ra còn có thế giới siêu nghiệm, lĩnh vực của tự do tuyệt đối thì nhận thức của con người không đạt tới được.
Đối với Kant mọi tri thức và ý tưởng của con người bất luận về cái gì cũng đều có nguồn gốc tiên thiên và đều là sản phẩm của sự thực hiện lý tính lý luận ở con người. Xét về nguồn gốc nhận thức là lĩnh vực của những hành động tự quyết và tự do của lý tính con người. Nhưng tri thức đòi hỏi có nội dung đối tượng và ở gốc độ này mà xét thì nhận thức là lĩnh vực của những hành động chất thể và thường nghiệm của con người. Chính vì vậy trong sinh hoạt tri thức, quá trình nhận thức hoặc chỉ đem lại cho con người những tri thức về thế giới hiện tượng bởi cảm năng và trí năng, hoặc đem lại ý tưởng về thế giới siêu nghiệm “vật tự nó” bởi lý năng.
Trong triết học phê phán, Kant còn đề cập tới lôgic học. Khi tới giai đoạn nhận thức thứ 2 (giác tính) thì cần có tư duy dựa trên các khái niệm. Mà tư duy lại là đối tượng nghiên cứu của lôgic học. Kant phân biệt hai dạng logic: logic đại cương tức logic hình thức và logic tiên nghiệm. Sự khác nhau giữa chúng ở chỗ “logic đại cương sao nhãng với mọi nội dung của nhận thức, tức mọi quan hệ của nó tới khách thể, mà chỉ nhận xem xét hình thức logic…của tư duy nói chung. Trong trường hợp đó cần tồn tại một logic học không lãnh tránh với mọi nội dung của nhận thức…nó cần phải nghiên cứu cả nguồn gốc của các tri thức của chúng ra về sự vật”. Kant chủ yếu đề cập tới logic tiên nghiệm vì đây là công cụ nhận thức, là phương tiện làm giàu tri thức tiên nghiệm tổng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tl_co_dien_duc_3175.doc