Tiểu luận Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã trải qua 20 năm và đã thu được những thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Nền kinh tế nước ta đã chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Có thể nói những thành tựu to lớn vừa qua có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân cơ bản có tính quyết định là đường lối đổi mới đúng đắn trong kinh tế. Với tư duy kinh tế đúng đắn, nước ta chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường đã tạo được động lực cao cho nền kinh tế. Dưới tác động của những quy luật kinh tế khách quan nền kinh tế thị trường đã thúc đẩy sự sáng tạo của mọi cá nhân, doanh nghiệp, mọi thành phần kinh tế góp phần khai thác có hiệu quả các nguồn lực về đất đai, lao động, vốn và khoa học - công nghệ, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, nền kinh tế thị trường với những quy luật khách quan của nó cũng gây ra những khuyết tật, những mặt trái có tác động không nhỏ đến sự vận động phát triển kinh tế - xã hội, đến định hướng XHCN. Vì vậy để phát huy những mặt tích cực của nền kinh tế thị trường và khắc phục những khuyết tật của nó đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định đúng định hướng đòi hỏi phải có sự quản lý của Nhà nước.

Nước ta đang quá độ lên CNXH từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, thực hiện nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải tăng cường vai trò quản lý của nhà nước XHCN. Thực tế những năm qua cho thấy, nền kinh tế thị trường đã tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế - xã hội nước ta. Bên cạnh những thành tựu mà nó đem lại, những tiêu cực như tham nhũng, hối lộ, ma tuý, mại dâm, đạo đức xuống cấp, các thang giá trị xã hội thay đổi. đã và đang trở nên nhức nhối và thách thức Nhà nước XHCN chúng ta. Có thực hiện được mục tiêu "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ" hay không. Có định hướng lên CNXH hay không phụ thuộc vào sự quản lý của Nhà nước XHCN. Do vậy nhận thức rõ nền kinh tế thị trường, để ra được những giải pháp, công cụ để quản lý nền kinh tế thị trường là đòi hỏi khách quan mang tính cấp bách của Nhà nước XHCN ở nước ta hiện nay.

 

doc17 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1248 | Lượt tải: 1download
Nội dung tài liệu Tiểu luận Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận Đề tài: Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Hà Nội, 6/2006 Mở đầu Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã trải qua 20 năm và đã thu được những thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Nền kinh tế nước ta đã chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Có thể nói những thành tựu to lớn vừa qua có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân cơ bản có tính quyết định là đường lối đổi mới đúng đắn trong kinh tế. Với tư duy kinh tế đúng đắn, nước ta chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường đã tạo được động lực cao cho nền kinh tế. Dưới tác động của những quy luật kinh tế khách quan nền kinh tế thị trường đã thúc đẩy sự sáng tạo của mọi cá nhân, doanh nghiệp, mọi thành phần kinh tế góp phần khai thác có hiệu quả các nguồn lực về đất đai, lao động, vốn và khoa học - công nghệ, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, nền kinh tế thị trường với những quy luật khách quan của nó cũng gây ra những khuyết tật, những mặt trái có tác động không nhỏ đến sự vận động phát triển kinh tế - xã hội, đến định hướng XHCN. Vì vậy để phát huy những mặt tích cực của nền kinh tế thị trường và khắc phục những khuyết tật của nó đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định đúng định hướng đòi hỏi phải có sự quản lý của Nhà nước. Nước ta đang quá độ lên CNXH từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, thực hiện nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải tăng cường vai trò quản lý của nhà nước XHCN. Thực tế những năm qua cho thấy, nền kinh tế thị trường đã tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế - xã hội nước ta. Bên cạnh những thành tựu mà nó đem lại, những tiêu cực như tham nhũng, hối lộ, ma tuý, mại dâm, đạo đức xuống cấp, các thang giá trị xã hội thay đổi... đã và đang trở nên nhức nhối và thách thức Nhà nước XHCN chúng ta. Có thực hiện được mục tiêu "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ" hay không. Có định hướng lên CNXH hay không phụ thuộc vào sự quản lý của Nhà nước XHCN. Do vậy nhận thức rõ nền kinh tế thị trường, để ra được những giải pháp, công cụ để quản lý nền kinh tế thị trường là đòi hỏi khách quan mang tính cấp bách của Nhà nước XHCN ở nước ta hiện nay. Chương 1 Một số vấn đề về kinh tế thị trường và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 1.1. Một số khái niệm - Thị trường: Thị trường là tổng hoà các mối quan hệ giữa người với người trong trao đổi mua bán hàng hoá. - Kinh tế hàng hoá: là một kiểu tổ chức nền kinh tế trong đó sản xuất ra để bán, trao đổi trên thị trường thông qua quan hệ hàng hoá tiền tệ. - Nền kinh tế thị trường: là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao khi tất cả các yếu tố của quá trình sản xuất đều được coi là hàng hoá và đều được trao đổi trên thị trường. Nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường hình thành một cách khách quan trong lịch sử khi có hai điều kiện: Một là, có sự tách biệt về sở hữu tư liệu sản xuất của các chủ thể. Hai là, có sự phân công lao động xã hội. Hay xã hội đạt đến sự xuất hiện các ngành nghề sản xuất khác nhau trong nền kinh tế. 1.2. Các quy luật và đặc trưng của nền kinh tế thị trường 1.2.1. Hệ thống các quy luật của nền kinh tế thị trường Nền kinh tế thị trường vận hành theo quy luật khách quan chịu sự tác động chi phối của hệ thống các quy luật kinh tế thị trường đó là: - Quy luật giá trị: đòi hỏi sản xuất và lưu thông phải theo nguyên tắc ngang giá tức là phải giữa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết sản xuất ra hàng hoá. Quy luật giá trị có ba tác động cơ bản: Điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông. Trong quá trình tìm kiếm lợi nhuận người sản xuất sẽ tập trung sản xuất những ngành có lợi nhuận cao, loại bỏ những ngành, nghề sản xuất kém hiệu quả. Hàng hoá ở những nơi có giá thấp sẽ chuyển đến những nơi có giá cao hơn (cơ chế tự điều chỉnh của nền kinh tế). Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, những người sản xuất luôn luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ sản xuất, đổi mới tổ chức quản lý để nhằm hạ hao phí cá biệt, nâng cao chất lượng sản phẩm để thu được lợi nhuận. Dưới tác động của quy luật giá trị, làm phân hoá người sản xuất trong xã hội. Người sản xuất kinh doanh có hiệu quả giàu lên, người làm ăn kém dẫn đến phá sản nghèo đi trở thành người làm thuê. Do vậy người ta nói quy luật giá trị là nguồn gốc của sản xuất tư bản chủ nghĩa. - Quyluật cung cầu hàng hoá. Cung là khả năng cung ứng hàng hoá dịch vụ cho xã hội trong những thời điểm nhất định. Cung do sản xuất quyết định. Cầu là nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội đối với sản phẩm hàng hoá dịch vụ trong một điều kiện, thời gian nhất định. Cầu do tiêu dùng quyết định. Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ cung cầu luôn luôn biến động và tác động mạnh đến nền kinh tế. Nếu cung lớn hơn cầu, giá cả sẽ thấp hơn giá trị làm cho sản xuất không có hiệu quả hoặc bị lỗ. Hiện tượng khủng hoảng thuần xuất hiện. Nếu cầu lớn hơn cung thì giá cả cao hơn giá trị, xuất hiện khủng hoảng thiếu... Do vậy, sự tác động của quan hệ cung cầu rất lớn đối với quá trình sản xuất kinh doanh đối với nền kinh tế. - Quy luật lưu thông hàng hoá tiền tệ. Trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi hàng hoá phải được lưu thông không được ngăn sông, cấm chợ. Những mệnh lệnh hành chính, ngăn cấm, giới hạn bằng địa lý, bằng các quy định cứng nhắc chỉ làm cho nền kinh tế bị kìm hãm, trì trệ rơi vào khủng hoảng. Và, là nền kinh tế thị trường thì tất cả các yếu tố của sản xuất đều phải được coi là hàng hoá như: sức lao động, chất xám, đất đai... đều được tiền tệ hoá và được trao đổi trên thị trường. - Quy luật cạnh tranh. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế có động lực cao đó là cạnh tranh. Cạnh tranh giữa các chủ thể sản xuất, giữa các doanh nghiệp, giữa các ngành... là động lực của sản xuất. Cạnh tranh làm cho sản xuất phát triển. Hàng hoá rõ hơn, chất lượng tốt hơn, người tiêu dùng và xã hội được lợi. 1.2.2. Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường Do sự tác động chi phối của hệ thống các quy luật kinh tế khách quan, nền kinh tế thị trường có những đặc trưng cơ bản là: - Các chủ thể được tự do kinh doanh, cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. - Cạnh tranh là môi trường và động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. - Nền kinh tế thị trường tạo nên khả năng phân bổ hợp lý và khai thác có hiệu quả các nguồn lực. - Trên cơ sở tối đa hoá lợi nhuận, nền kinh tế thị trường, giải quyết tốt vấn đề cơ bản của sản xuất là: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? 1.3. Các mô hình kinh tế thị trường Lịch sử phát triển của nền sản xuất nhân loại đã trải qua một số mô hình kinh tế thị trường cơ bản là: 1.3.1. Mô hình kinh tế thị trường tự do cạnh tranh Theo học thuyết của Ri các đô và A.Smith, thị trường tự bản thân nó tạo nên cơ chế tự điều tiết (bàn tay vô hình). Dưới tác động của các quy luật kinh tế khách quan nền kinh tế có cơ chế "tự điều tiết". Nhà nước không được can thiệp vào nền kinh tế. Nhà nước chỉ thực lực chức năng quản lý xã hội. 1.3.2. Mô hình kinh tế có sự điều tiết của Nhà nước ở hệ thống tư bản có học thuyết Keynes. Theo học thuyết này, nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh dẫn đến sự khủng hoảng kinh tế, tình trạng thất nghiệp và thiệt hại kinh tế cũng như sự mất cân đối mà tự do cạnh tranh đưa đến nên Nhà nước phải quản lý, điều tiết. ở hệ thống XHCN trước đây, thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ. Thực chất là sự quản lý trực tiếp, can thiệp quá sâu của Nhà nước đối với nền kinh tế (hệ thống SEV). Với hàng loạt chỉ tiêu pháp lệnh, cùng với cơ chế, tập trung quan liêu bao cấp đã làm cho nền kinh tế, các nước XHCN thiếu động lực, đi vào khủng hoảng, trì trệ không khai thác các nguồn lực tiềm năng một cách hiệu quả. Và là một nguyên nhân cơ bản dẫn đến khủng hoảng của hệ thống XHCN. 1.3.2. Mô hình kinh tế thị trường hội nhập Cuối thập kỷ 40, đầu thập kỷ 50 của thế kỷ XX. Xuất hiện lý thuyết mô hình kinh tế hỗn hợp. Học thuyết của Samueson (kinh tế học thường thức) cho rằng: Người ta không thể có tay bằng một bàn tay. Mô hình kinh tế thị trường tự do cạnh tranh là bàn tay hữu hình. Mô hình kinh tế có sự quản lý cao độ của nhà nước là bàn tay hữu hình. Nền kinh tế phải đồng thời sử dụng bàn tay vô hình của thị trường đồng thời với bàn tay vô hình của nhà nước - Mô hình kinh tế hỗn hợp. Ngày nay hầu như tất cả các nước trên thế giới đều thực hiện mô hình kinh tế hỗn hợp nhưng sự phối hợp giữa vai trò quản lý của nhà nước với sự vận động của nền kinh tế thị trường khác nhau tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội của từng quốc gia. Chương 2 Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 2.1. Sự cấp thiết khách quan phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta 2.1.1. Nước ta có đủ điều kiện để phát triển nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường Nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường ra đời khi có hai điều kiện: Phân công lao động xã hội và tách biệt về sở hữu tư liệu sản xuất. Nền kinh tế nước ta tuy còn ở trình độ thấp song đã có sự phân công lao động xã hội giữa các ngành, nghề,vùng. Trước đây do chủ quan duy ý chí nên ta chỉ duy trì 2 hình thức sở hữu cơ bản là quốc doanh và tập thể. Thực tiễn cho thấy không thể thủ tiêu một cách duy ý chí các loại hình sở hữu, các thành phần kinh tế bất chấp quy luật khách quan. Sự tác động của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là không thể đảo người. Vì vậy, nước ta thực hiện nền kinh tế hàng hóa, xuấtkinh tế thị trường là phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất, phù hợp quy luật khách quan. 2.1.2. Kinh tế thị trường tồn tại phát triển cùng với CNXH Thực tế lịch sử của nền văn minh nhân loại đã chứng minh: vùng với các giá trị của nền văn minh nhân loại, kinh tế thị trường cũng là một sản phẩm, thành tựu của nền văn minh nhân loại trong quá trình tìm tòi con đường phát triển sản xuất, phát triển xã hội. Kinh tế thị trường không phải chỉ là sản phẩm của CNTB và gắn liền với CNTB mà nó còn tồn tại dưới CNXH, cùng với sự phát triển của CNXH. 2.2. Đặc trưng kinh tế thị trường XHCN 2.2.1. Những ưu thế và khuyết tật của nền kinh tế thị trường - Do sự tác động chi phối của các quy luật kinh tế khách quan. Nền kinh tế thị trường có những ưu thế cơ bản là: Tạo được động lực cao cho nền kinh tế góp phần khai thác có hiệu quả các nguồn lực tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội. Tính linh hoạt mềm dẻo, tự điều chỉnh cao. Khả năng sáng tạo, nhanh nhạy của các chủ thể trong sản xuất kinh doanh được phát huy mạnh mẽ. Đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng, dịch vụ cho xã hội. Nâng cao đời sống vật chất tinh thần nhân dân, góp phần tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội... - Những hạn chế của kinh tế thị trường. Bên cạnh những ưu thế cơ bản nền kinh tế thị trường cũng bộc lộ những khuyết tật, hạn chế là: Do chạy theo lợi nhuận, dẫn đến điều tiết quá trình sản xuất lưu thông mang tính tự phát. Sự phát triển thiếu quy hoạch, kế hoạch dẫn đến các cuộc khủng hoảng (thừa, thiếu) các cơn sốt cục bộ... xẩy ra thường xuyên. Chủ nghĩa cá nhân phát triển, tệ sùng bái đồng tiền, các thang giá trị xã hội thay đổi. Do chạy theo lợi nhuận các hàng hoá công cộng, các lĩnh vực xã hội ít được chú ý. Tình trạng lạm phát thất nghiệp gia tăng. Tệ nạn xã hội phát triển. Nền kinh tế dễ rơi vào các cuộc khủng hoảng chu kỳ... 2.2.2. Sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta Do nền kinh tế thị trường có những ưu thế và khuyết tật, vì vậy, nhà nước phải thực hiện vai trò, chức năng quản lý nền kinh tế để phát huy những ưu điểm khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường nhằm mục tiêu ổn định, phát triển kinh tế - xã hội. Để quản lý nền kinh tế thị trường tuỳ thuộc vào điều kiện thực ế của từng nền kinh tế và tính đúng hướng chính trị của nền kinh tế. Nước ta quá độ lên CNXH, thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nhà nước có vai trò chức năng công cụ quản lý kinh tế là: - Tạo môi trường cho hoạt động sản xuất kinh doanh, trước hết là môi trường pháp luật: xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật để điều chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh gắn với xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Pháp luật kinh tế phải chứa đựng nội dung kinh tế cùng với việc ban hành là việc thực thi một cách nghiêm minh. Cùng với pháp luật là môi trường kinh tế - xã hội khác bao gồm xây dựng thị trường đồng bộ trong và ngoài nước, kết cấu hạ tầng sản xuất với giao thông tài chính, thông tin... và kết cấu hạ tầng xã hội. - Làm tốt công tác kế hoạch hoá, sử dụng công cụ kế hoạch một cách khoa học. Trên cơ sở xây dựng quy hoạch, chiến lược phát triển có cơ sở khoa học trong nền kinh tế thị trường. Công tác kế hoạch phải lấy thị trường làm căn cứ. Kết hợp kế hoạch với thị trường sử dụng linh hoạt, mềm dẻo các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô như các chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng ngân hàng, chính sách kinh tế đối ngoại, chính sách thuế, chính sách giá cả, chính sách tiền lương và thu thập... để điều tiết thị trường. Nhà nước chỉ đóng vai trò cầm lái, chứ không phải là người chèo thuyền. Tách chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với chức năng sản xuất kinh doanh. Nhà nước đóng vai trò định hướng nền kinh tế. - Nhà nước xây dựng kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo của nền kinh tế. Kinh tế nhà nước bao gồm các DNNN, NSNN, dự trữ quốc gia... Trở thành công cụ quản lý vĩ mô nhà nước thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô theo định hướng XHCN. Tuy nhiên, kinh tế nhà nước chỉ đóng vai trò chủ đạo khi nó nắm giữ những vị trí then chốt, có tầm quan trọng đặc biệt, có quy mô đủ lớn, có trình độ khoa học - công nghệ hiện đại, có trình độ quản lý tiên tiến và hiệu quả kinh tế cao. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo không phải là ở quy mô lớn, nhiều, theo quan điểm trước đây. -Thực hiện các chính sách xã hội. Nền kinh tế thị trường tự bản thân nó tạo ra sự bất bình đẳng nhiều mặt trong xã hội. Tình trạng cá lớn nuốt cá bé, kẻ ăn không hết người lần không ra... thường xẩy ra. Là một nước định hướng lên CNXH, một xã hội mang bản chất nhân văn cao cả, đòi hỏi Nhà nước phải giải quyết và thực hiện tốt chính sách xã hội bao gồm: chính sách tiền lương và thu nhập. Chính sách xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, dân số kế hoạch hoá gia đình, chính sách dân tộc, chính sách việc làm, thất nghiệp đặc biệt là các chính sách về giáo dục, y tế, văn hoá... Thực tế cho thấy, định hướng XHCN cơ bản trực tiếp là ở CNXH. Quanđiểm và sự phát triển bền vững hiện nay trên thế giới cũng đang giải quyết những vấn đề này. Chương 3 Vai trò quản lý nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay 3.1. Khái quát hiện trạng nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã trải qua hơn 20 năm. Bắt đầu từ đổi mới tư duy kinh tế thực hiện kinh doanh XHCN đến kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN và ngày nay là kinh tế thị trường định hướng XHCN (Đại hội IX). Có thể nói, với chuyển đổi cơ chế kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường nền kinh tế nước ta đẫtọ được bước đột phá lớn. Quá trình đổi mới toàn diện nhưng với những hình thức, bước đi phù hợp đã làm cho chính trị xã hội ổn định nền kinh tế phát triển với tốc độ nhanh. Những ưu thế của nền kinh tế thị trường đã được khai thác và phát huy có hiệu quả. Các nguồn lực lao động, vốn, tài nguyên, khoa học - công nghệ được khơi dậy. Năng lực sáng tạo bởi tự do kinh doanh, bởi đa dạng và sở hữu nhiều thành phần kinh tế được thúc đẩy... Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh (đứng thứ 2 thế giới). Đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng, ổn định bước vào thời kỳ mới, thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" tiến lên CNXH... Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, kinh tế thị trường ở nước ta cũng đã bộc lộ những khiếm khuyết rất đáng lo ngại. Trước hết đó là tình trạng chạy theo lợi nhuận, chạy theo đồng tiền kinh doanh "chụp giật" buôn lậu, trốn thuế. Tình trạng móc ngoặc, cùng với nạn tham ô, tham nhũng đang làm nhức nhối xã hội, PMU18, FCô Minh Phụng, Lã Thị Kim Oanh, Mai Văn Dân, Bưu chính viễn thông, Hàng không Việt Nam... Hầu như lĩnh vực nào cũng có tiêu cực. Các tệ nạn xã hội tăng nhanh: Ma tuý, mại dâm, xã hội đen... Các thang giá trị đang có những thay đổi lệch lạc. Phân hoá giàu nghèo quá mức giữa các tầng lớp dân cư, các ngành lĩnh vực, và ngay trong đội ngũ cán bộ công chức xảy ra phổ biến mà phần lớn sự phân hoá này không phải do năng lực lao động, khả năng sáng tạo đưa đến. Nền kinh tế phát triển thiếu bền vững, ô nhiễm môi trường, lạm dụng khai thác tài nguyên... Các chính sách giáo dục, y tế, giải quyết việc làm đang tỏ ra bất cập... Bộ máy cồng kềnh kém hiệu quả. Như vậy, có thể nói, bên cạnh những thành tựu nền kinh tế thị trường đang đặt ra những thách thức, nguy cơ đối với định hướng XHCN ở nước ta. 3.2. Một số mặt đạt được, hạn chế và yêu cầu bảo đảm tốt hơn vai trò của Nhà nước ta trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN 3.2.1. Mặt được Trong thời gian qua Nhà nước ta đã tích luỹ thêm nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý, điều hành nền kinh tế. Hệ thống pháp luật đã được sử dụng ngày càng hoàn chỉnh, tạo khuôn khổ pháp lý điều hành nền kinh tế. Đã ban hành nhiều cơ chế, các chính sách phù hợp hơn với thực tế, tập trung quy luật khách quan, từ đó đã tạo nhiều điều kiện, môi trường thuận lợi cho các thể chế kinh tế thị trường hoạt động và phát triển. 3.2.2. Mặt hạn chế Chúng ta vẫn còn chậm trong việc xây dựng khuôn khổ pháp lý và thể chế để định hướng, tạo môi trường cạnh tranh và điều tiết của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nhiều chính sách phát triển kinh tế còn bất cập, chậm, thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với thực tế cuộc sống của hoạt động sản xuất kinh doanh, với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, chưa tạo động lực thúc đẩy sự tăng trưởng phát triển kinh tế - xã hội. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với nền kinh tế còn thấp thể hiện: - Chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa được xác định rõ. - Chất lượng các chiến lược, quy hoạch được xây dựng còn thấp, chậm được bổ sung điều chỉnh kịp thời. - Cải cách hành chính chậm, hiệu quả thấp, chưa đạt yêu cầu. - Quản lý quy hoạch lỏng lẻo, yếu kém. 3.3. Những yêu cầu đối với nhà nước ta để đảm bảo tốt hơn vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN - Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của nhà nước, thực hiện cải cách hành chính, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Để quản lý tốt nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải đổi mới tổ chức các cơ quan nhà nước. Trước hết đổi mới hoạt động Quốc hội và các cơ quan dân cử các cấp đáp ứng yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ công cuộc đổi mới. Đẩy mạnh đồng bộ cải cách hành chính nhà nước, xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh từng bước hiện đại hoá. Thực hiện tốt cơ chế "một cửa" trên cơ sở tách chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh. Xây dựng đội ngũ công chức có đủ năng lực phẩm chất cùng với việc cơ cấu lại bộ máy quản lý nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Tăng cường pháp chế XHCN, quản lý xã hội bằng pháp luật, thực hiện nghiêm minh trong hoạt động tư pháp, toà án, kỷ cương xã hội được duy trì... Cùng với việc củng cố tăng cường hiệu lực hiệu quả bộ máy nhà nước là phát huy dân chủ. Xây dựng nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân. Mở rộng dân chủ để nhân dân tham gia quản lý nhà nước. Thực hiện xã hội công dân, để nhân dân kiểm tra, giám sát các hoạt động nhà nước. Thực tiễn cho thấy, chỉ khi phát huy dân chủ, đảm bảo quyền lực của nhân dân thì khi đó mới phát huy đầy đủ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, khơi dậy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong việc đấu tranh chống tiêu cực, chung tay xây dựng đất nước. - Tăng cường vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: Nhằm quản lý tốt nền kinh tế thị trường định hướng XHCN khắc phục được những hạn chế, tiêu cực, trước hết phải hoàn thiện hệ thống luật pháp, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh theo đúng định hướng. Thực tế đòi hỏi nhà nước ta phải đổi mới các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, hoàn thiện các chính sách thuế, tài chính, tín dụng, ngân hàng, hải quan, thị trường, dự trữ quốc gia, kết cấu hạ tầng... đổi mới sắp xếp nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước... Đổi mới nâng cao công tác kế hoạch hoá, nâng cao chất lượng quy hoạch, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phát triển ngành, vùng, lĩnh vực, phát triển đô thị, nông thôn... Xây dựng tư duy chiến lược, khoa học trong việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, trong việc quy hoạch phát triển vùng kinh tế, các ngành, lĩnh vực kinh tế đảm bảo sự phát triển mang tính ổn định, bền vững. Công tác quy hoạch, kế hoạch phải là định hướng phát triển cho các ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ trong một chiến lược lâu dài. - Giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Cùng với tăng cường và phát triển kinh tế đồng thời phải từng bước giải quyết các va án đề xã hội, thực hiện phát triển bền vững. Làm tốt chính sách công bằng xã hội trong phân phối thu nhập, trong xoá đói giảm nghèo, trong chính sách đền ơn đáp nghĩa, giải quyết việc làm... Nhà nước phải chú trọng chính sách giáo dục, y tế, văn hoá trong nền kinh tế thị trường. Khắc phục tình trạng phân hoá trong kinh tế dẫn đến phân hoá trong giáo dục, y tế và những lệch lạc trong văn hoá xã hội. Thực trạng một số học sinh nghèo, học giỏi không được tiếp tục theo học, một số nông dân không có khả năng chữa bệnh... do kinh tế khó khăn đã xuất hiện ở nông thôn, ở bộ phận có thu nhập thấp. Đây là hiện tượng không phù hợp với định hướng XHCN, trong việc đảm bảo nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, phát huy năng lực sáng tạo, phát triển toàn diện cá nhân trong CNXH. Kết luận Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta đã, đang và ngày càng khẳng định ưu thế và tầm quan trọng của nó. Thực hiện công cuộc đổi mới cùng với việc chuyển đổi cơ chế kinh tế, thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nền kinh tế nước ta đã có bước phát triển vượt bậc, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao, chính trị - xã hội ổn định. Với những thắng lợi bước đầu của sự nghiệp đổi mới nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, bước vào một thời kỳ mới, thời kỳ đẩy tới sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu không thể phủ nhận, những mặt trái của kinh tế thị trường cũng đang tác động không nhỏ, lên mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội nước ta. Tình trạng tham nhũng, hối lộ, quan liêu, cửa quyền, thoái hoá biến chất của một số không nhỏ cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước. Các tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm... đang có xu hướng phát triển cùng nhiều nhức nhối trong thu nhập, hưởng thụ, trong các lĩnh vực y tế, giáo dục... Đang là thách thức không nhỏ đối với định hướng XHCN và chứng tỏ những hạnchế của nhà nước ta trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy, đòi hỏi khách quan mang tính thời sự là đổi mới cải cách hành chính nâng cao năng lực quản lý, hiệu lực hiệu quả của bộ máy nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong những kỳ Đại hội gần đây, qua các Nghị quyết Trung ương và sự quyết liệt trong đổi mới hoạt động của bộ máy nhà nước, thực hiện cải cách hành chính, quản lý nhà nước trong kinh tế thị trường đã, đang có nhiều chuyển biến tích cực. Các vụ tiêu cực, tham nhũng lớn được kiên quyết xử lý đang chứng tỏ sự quyết tâm của Đảng và Nhà nước. Tuy vậy, thực tế đòi hỏi chúng ta phải quyết tâm hơn nữa, kiên quyết hơn nữa và cùng với nó là xây dựng một nhà nước trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo, quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Chỉ có như vậy chúng ta mới thực hiện thành công mục tiêu: D ân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tiến lên CNXH.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu luan.doc
Tài liệu liên quan