Ngày nay, việc nghiên cứu và đánh giá lại vai trò của Nho giáo đã được giới nghiên cứu ở các nước châu Âu cũng như châu Á đặc biệt lưu tâm.
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức đã có nhiều đóng góp cho việc tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tư tưởng Nhân chính là cốt lõi, là nội dung cơ bản trong tư tưởng chính trị của Nho giáo.
Nhân chính là sự vận dụng phạm trù Nhân - phạm trù cốt lõi, trung tâm và cơ bản của Nho giáo vào việc “trị quốc, bình thiên hạ”, đồng thời cũng là để thực hiện mục đích cao nhất trong việc đào tạo con người mà Nho giáo đề cập. Vì vậy, khi tìm hiểu Nho giáo không thể bỏ qua tư tưởng Nhân chính - một tư tưởng đã góp phần cho việc xây dựng hệ thống hành chính và quản lý xã hội được Khổng Tử và Mạnh Tử đề cập trong tác phẩm Luận ngữ và Mạnh Tử.
11 trang |
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1284 | Lượt tải: 1
Nội dung tài liệu Tiểu luận Một số tác phẩm kinh điển phương đông tư tưởng nhân chính qua các tác phẩm luận ngữ và mạnh tử, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------
TIỂU LUẬN
MÔN: MỘT SỐ TÁC PHẨM KINH ĐIỂN PHƯƠNG ĐÔNG
TƯ TƯỞNG NHÂN CHÍNH QUA CÁC TÁC PHẨM
LUẬN NGỮ VÀ MẠNH TỬ
MỞ ĐẦU
Ngày nay, việc nghiên cứu và đánh giá lại vai trò của Nho giáo đã được giới nghiên cứu ở các nước châu Âu cũng như châu Á đặc biệt lưu tâm.
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức đã có nhiều đóng góp cho việc tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tư tưởng Nhân chính là cốt lõi, là nội dung cơ bản trong tư tưởng chính trị của Nho giáo.
Nhân chính là sự vận dụng phạm trù Nhân - phạm trù cốt lõi, trung tâm và cơ bản của Nho giáo vào việc “trị quốc, bình thiên hạ”, đồng thời cũng là để thực hiện mục đích cao nhất trong việc đào tạo con người mà Nho giáo đề cập. Vì vậy, khi tìm hiểu Nho giáo không thể bỏ qua tư tưởng Nhân chính - một tư tưởng đã góp phần cho việc xây dựng hệ thống hành chính và quản lý xã hội được Khổng Tử và Mạnh Tử đề cập trong tác phẩm Luận ngữ và Mạnh Tử.
NỘI DUNG
1. QUAN NIỆM VỀ DÂN
1.1. Khái niệm về dân
Khái niệm về Dân đã được Khổng - Mạnh nói tới trong khi trình bày học thuyết chính trị của mình. Trong những năm 60 của thế kỷ này, đã từng có cuộc tranh luận của các học giả Trung Quốc về khái niệm Dân.
Trong các bài nghiên cứu của các tác giả Việt Nam về học thuyết Khổng Mạnh cũng có những quan niệm khác nhau về Dân. Không có điều kiện để giới thiệu về các tranh luận trên, trong luận văn này chúng tôi tự hạn chế ở việc coi Dân là khái niệm dùng để chỉ những người không ở bộ máy cai trị, đối lập với người cầm quyền.
Đọc sách Luận ngữ, ta thấy việc sử dụng hai danh từ Người và Dân của Khổng Tử có sự khác biệt tương đối chặt chẽ. Trong Luận ngữ có tới 48 lần dùng đến chữ Dân trong đó có 42 lần mang nội hàm là trăm họ, dân thường và 6 lần mang nội hàm là con người nói chung. Như vậy là có sự phân biệt giữa Dân với Người, đó cũng chính là sự phân biệt giữa người thống trị - là Người với người cai trị - là Dân.
Còn trong sách Mạnh Tử có đến 199 lần nói về chữ Dân cũng với các nội hàm tương tự như ý của Khổng Tử. Dân được Khổng - Mạnh nói đến khá nhiều và được trình bày theo các tiêu chí phân biệt như sau: hoặc là theo tiêu chuẩn đạo đức (người quan tử với kẻ tiểu nhân), hoặc là theo cương vị chính trị (người cai trị với người bị trị); hoặc theo nghề nghiệp (người lao tâm với người lao lực); hoặc theo hoàn cảnh sống (quan, quả, cô, độc).
Trong phạm vi nghiên cứu về Nhân Chính thì sự phân chia cơ bản dựa vào tiêu chí: Người cai trị và dân thường, cho nên có thể hiểu Dân là khái niệm để chỉ giai cấp nô lệ, còn Người là để chỉ giai cấp chủ nô cầm quyền, Dân là những người lao động chân tay, người bị sai kheién, người lao lực, nuôi người chứ không phải là người lao tâm, người có quyền lực chính trị, hành chính.
Từ quan niệm về Dân như vậy, Khổng - Mạnh đã đưa ra những quan niệm khác nhau về vị trí và vai trò của Dân.
1.2. Vị trí và vai trò của Dân
Khổng Tử nói: “Quân tử chi đức phong, tiểu nhân chi đức thảo. Thảo thươngj chi phong tất yểu” - Này địa vị của người quân tử tức nhà cầm quyển tỷ như gió, đian vị của kẻ tiểu nhân tức là dân chúng tỷ như cỏ. Gió thổi qua thì cỏ rạp xuống). Như vậy, theo Khổng Tử Dân là người có vị trí thấp nhất và phải phụ thuộc vào người quân tử có vị trí, địa vị cao. Bởi vì vị trí thấp hèn “như cỏ” Dân phải phụ thuộc vào người cầm quyền chẳng khác gì gió thổi qua làm rạp cỏ xuống.
Mà dù Khổng Tử có đánh giá thấp về vị trí của Dân, nhưng mặt khác Khổng Tử lại nói rõ trong kinh Thư mà ông san định rằng: “Dân vi bang bảng” (dân là gốc nước). Điều này cho thấy mệnh đề tiến bộ, đề cao vai trò của Dân ấy được thể hiện rõ trong học thuyết chính trị của ông.
Mạnh Tử đã gọi Dân là dân thường, là người có vị trí thấp trong mối quan hệ giữa người có vị trí cao với dân thường, kẻ dưới thì mtu lại thể hiện quan niệm khá tiến bộ; coi mối quan hệ bề trên - kẻ dưới đó như mối quan hệ mật thiết giữa cha với con. Nhà cầm quyền là cha mẹ dân, phải thương yêu dân như thương yêu con cái của mình: “Thú tương thực, thả nhân ố chi. Vi nhân phụ mẫu, hành bất miễn ư suất thú nhi thực nhân, ô tại kỳ vi dân pụ mẫu giã” (Huống chi làm bậc cha mẹ dân, thi hành chính trị, lại chẳng ngăn cản được loài thú để cho chúng ăn thịt người, há đáng làm cha mẹ dân sao).
Như vậy nhà cầm quyền thi hành Nhân chính phải năhmf vào Dân, vì Dân. Vượt xa hơn Khổng Tử, Mạnh Tử đã đưa ra mệnh đề nổi tiếng khi đánh giá về vị trí, vai trò của Dân: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” - mệnh đề này chỉ rõ trong các vấn đề nều trên vấn đề Dân được coi là quan trọng nhất, tiếp theo là vấn đề xã tắc, cuối cùng mới đến vấn đề vua. Như vậy, chính Mạnh Tử đã đặt vua - xã tắc và dân trong mối quan hệ nối liền mà ở đó vị trí của Dân được nhấn mạnh và đề cao hơn cả. Theo trật tự Nho giáo quy định thì trong mối quan hệ bộ ba đó phải nói tới vua trước, rồi đến xã tắc, sau cùng mới đến Dân. Nhưng Mạnh Tử đã đảo trật tự đó và giải thích lý do cần phải đảo ngược trật tự như vậy là vì được lòng Dân thì mới có thể đạt ngôi Thiên tử, còn nếu được lòng vua, quan chư hầu thì nhiều lắm cũng chỉ có thể đạt chức quan to mà thôi. Ông nói: “Được lòng kẻ dân quê làm đến ngôi Thiên tử, được lòng Thiên tử chẳng qua làm chư hầu, được lòng chư hầu chẳng qua làm quan đại phu”, qua đây ta cũng cần hiểu rằng Mạnh Tử gắn liền đề cao Dân với lợi ích của người cai trị, đó cũng chính là sự đồng thời tồn tại trong mệnh đề của ông cả mặt tiến bộ cả mặt tiêu cực. Điều quan trọng cần ghi nhận ở tư tưởng của Mạnh Tử là nhận thức của ông về vai trò có ý nghĩa quyết định của Dân đối với an ninh của xã tắc và ngôi vua.
Như vậy phải chăng quan niệm như trên của Mạnh Tử đi ngược lại với nguyên tắc tôn quân của Nho giáo? Khổng Tử đánh giá hoàn toàn như vậy được bởi chính Mạnh Tử cùng quan niệm quyền cai trị Dân là do mệnh trời trao cho, người đứng đầu thiên hạ là do trời định nên ông cũng như Khổng Tử đã đồng nhất ý dân với lòng trời tạo nên sự lô gic trong quan niệm của mình như: “Dân với trời đã tương quan với nhau như thế thì trong thiên hạ dân là quý hơn.
Mệnh đề “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” của Mạnh Tử là mệnh đề tư tưởng cơ bản chỉ đạo các chính sách cụ thể để thực hiện Nhân Chính của ông, đồng thời cũng là mệnh đề rất có giá trị trong đường lối chính trị của Khổng - Mạnh.
2. VỀ ĐẠO TRỊ NƯỚC
Trong quan niệm của Khổng - Mạnh về các mối quan hệ xã hội, ta thấy hai ông đặc biệt quan tâm tới Lễ. Như đã trình bày trong chương I, Nhân là hạt nmhân của học thuyết chính trị của Khổng Tử. Nhân và Lễ quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, Nhân là nội dung của Lễ, còn Lễ là hình thức của Nhân. Vận dụng Nhân vào chính sách cai trị yêu cầu phải được thực hiện đúng Lễ vua lấy Lễ để sai khiến bề tôi, bề tôi lấy điều trung để thờ vua. Bởi vậy “Quân sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung” (Vua khiến bề tôi thì phải giữ lế phép, bề tôi thờ vua thì phải cho hết lòng đó là đạo quân thần”.
3. NHÂN VÀ NHÂN NGHĨA TRONG NHÂN CHÍNH
Theo Khổng Tử thực hiện theo Lễ thì đạo trị nước là vâng theo “mệnh trời” chứ không phải do nhà cầm quyền tự đặt ra.
Đạo trị nước của Khổng - Mạnh là dùng Nhân và Nhân Nghĩa làm gốc, làm cơ sở của học thuyết Nhân Chính cho nên theo Khổng Tử thì điều Nhân của ông chẳng qua cũng dựa trên cơ sở lịch sử xã hội trước đó. Bởi vậy ông yêu cầu phải thực hiện đường lối đó một cách kiên trì như cổ nhân đã dạy: “Thiện nhân vi bang bá niên, diệc khả dĩ thăng tàn, khử sát hỹ. Thành tại thi ngôn giữa” (Nếu bực thiện nhân nối nhau mà trị nước được trăm năm, thì đủ khiến những kẻ tàn bạo hóa ra hiền lương và chính phủ chẳng dùng đến phép xử giết nữa).
Theo Khổng Tử nhà cầm quyền cai trị không phải là làm điều gì xa lạ, to tát mà chỉ là làm những việc rất đơn giản thường ngày trong tu dưỡng đạo đức con người tức là làm cho Dân trở nên chính đính, trở nên người ngay thẳng mà thôi.
Theo Mạnh Tử, đạo trị nước không phải là điều gì cao xa mà chẳng qua chính là đạo của vua Nghiêu, vua Thuấn, lấy Nhân làm cốt lõi và nhằm vào mục đích nuôi dân, dạy dân, giúp dân tránh khỏi đau khổ, chết chóc vì chiến tranh liên miên.
Điều Nhân Nghĩa của Mạnh Tử trong việc cai trị được thể hiện qua việc trước hết làm sao cho dân đủ ăn, đó vừa là yêu cầu vừa là điều kiện để thực hiện Nhân Chính của nhà cầm quyền. Nhân Chính đòi hỏi nhà cầm quyền phải làm cho dân “hằng sản” để có “hằng tâm”.
Nếu Khổng Tử yêu cầu nhà cầm quyền phải kiên trì đường lối trị nước theo điều Nhân để Nhân được phổ cập trong thiên hạ đưa đến xã hội ổn định thì Mạnh Tử đề cao đường lối đó tới mức cao độ và gắn với lương tâm, địa vị của nhà cầm quyền. Mạnh Tử khuyên: “Cẩu bất trí ư nhân, chung nhân ư nhục, dĩ hãm ư tử vong” (nay các nước chư hầu nếu không chí hướng về điều nhân thì suốt đời phải lo sợ sỉ nhục, rồi sa sút đến chết mất).
Mạnh Tử còn giải thích cho các vua chư hầu rõ điều Nhân có sức mạnh to lớn như vậy song không ở đâu xa cả mà “Nhân, nhân chi an trạch dã” (điều nhân là cái nhà yên ổn của người ta vậy). Đây cũng chính là một quan điểm thống nhất tỏng quan niệm của Nho giáo về “tổ chức cuộc sống, tổ chức nhà nước và xã hội; Khổng giáo luôn lấy nhà làm nền móng” thể hiện rõ quan niệm: Thiên hạ gốc ở nước, nước gốc ở nhà, nhà gốc ở thân mình. Vì vậy làm điều Nhân xét cho đến cùng cũng không phải là khó không làm được.
Điều Nhân trong học thuyết Nhân Chinh của Mạnh Tử không chỉ giúp cho việc “tu thân, tề gia, trị quốc” mà còn là điều quyết định vượt qua tất cả, Mạnh Tử viết: “Nhân chi thắng bất nhân dã, do thủy thắng hỏa”.
Học thuyết Nhân Nghĩa của Mạnh Tử là thể hiện đỉnh cao của lòng nhân, thương dân, bởi vậy trong việc cai trị nhà cầm quyền phải dạy cho dân biết cách làm ăn để dân được no đủ, tránh đói khổ.
Mạnh Tử quan niệm con người vốn tính thiện, song bản tính đó không phải lúc nào cũng như vốn có mà bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh xã hội. Có thể thấy đây là một quan niệm duy vật và tiến bộ của Mạnh Tử trong khi xem xét các yếu tố tinh thần, tư tưởng luôn phải gắn vào các điều kiện sinh hoạt vật chất. Bởi vậy không những phải dạy dân về cách làm ăn mà còn phải giáo hóa để dân biết điều lễ nghĩa, biết phải trái.
Xuất phát trừ chủ trương dùng Nhân Nghĩa vào việc chính trị, Mạnh Tử đã đưa ra tư tưởng lấy Nhân Hòa làm trọng. Đây là một biểu hiện rõ nét và sâu sắc nội dung Nhân Nghĩa của ông. Từ chỗ nhìn thấy được mối liên quan chặt chẽ giữa ba yếu tố Thiên, Địa, Nhân, Mạnh Tử nêu lên yếu tố quyết định đối với nhà cầm quyền là phải coi trong Nhân Hòa bởi “thiên thời bất như địa lợi bất như nhân hòa”.
Nhà cầm quyền phải được lòng dân, được dân tin, đồng thời phải tin dân, dựa vào dân và cùng dân giữ nước ấy cho sâu, đắp thành ấy cho cao, cùng dân giữ nước. Vua cố chết giữ lấy mà dân cũng chẳng bỏ đi, lẽ ấy thì nên làm). Chỉ có được lòng dân tin theo nhà cầm quiyền mới có đủ sức mạnh thực hiện mục đích “bình thiên hạ”.
Mạnh Tử nêu rõ lợi ích của việc thi hành Nhân Chính. Trước hết, nếu vua thi hành Nhân Chính tức giảm bớt việc thu thuế má, giảm bớt hình phạt thì dân có đủ điều kiện để yên tâm cấy cày, ngày nhàn rỗi thì học điều trung tín như vậy có được cả sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần đánh tan giặc mạnh: “Vương như thi nhân chính ư dân, tình hình phạt, bạc thuế liềm, thâm canh dị nậu, tráng giả dĩ hạ nhật tu kỳ hiếu để trung tín, nhập dĩ sự kỳ phụ huynh, xuất dĩ sự kỳ trưởng thương, khả sử chế dĩnh dĩ thát tần sở chi kiên giáp lợi binh hĩ” (vua nếu thi hành nhân chính cho dân giảm bớt hình phạt, nhẹ thu thuế mà để dân được cày sâu bừa kỹ, người lớn cứ ngày nhàn hạ tu lấy những điều hiếu để trung tín vào để thờ bậc huynh trưởng trong nhà, ra để thờ bậc tôn trưởng ngoài nước như thế thì chỉ sai dân sắm gậy có thể đánh tan quân giáp bền gươm gắc nước Tần nước Sở được).
Khi trong nước có chiến tranh thì thi hành Nhân Chính sẽ được dân đồng lòng, quyết tâm đánh giặc, còn khi thời bình thi hành Nhân Chính cũng rất cần thiết và có lợi bởi Nhân hướng cho dân theo về với nhà cầm quyền từ kẻ chợ cho đến người làm quan ai nấy đều muốn đến ở nơi ông vua có Nhân cai trị tức “ở triều vua”, “ở đồng vua”. Như vậy Nhân Chính có sức mạnh thu hút lòng dân về một mối để thu phục thiên hạ. Khi dân đã đồng lòng và tin yêu thì nhà cầm quyền có sức mạnh to lớn thực hiện ý tưởng cùng dân giữ nước.
Thi hành Nhân Chính chẳng những củng cố được cương thường, đạo lý, thu hút được lòng dân mà còn nhằm đảm bảo để được sự công bằng tỏng cách phân chia ruộng đất và thu thuế. Vì vậy cần thực hiện bằng chế độ tỉnh điền.
KẾT LUẬN
Nhân Chính là hệ quả của Nhân và Nhân Nghĩa trong học thuyết Khổng - Mạnh. Nó chứa đựng các yếu tố tiến bộ, nhân bản cũng như có mặt bảo thủ, lạc hậu của học thuyết nói chung.
Trong tư tưởng ấy có những mâu thuẫn rõ rệt giữa lòng yêu thương con người, yêu thương nhân dân với sự coi thường, khinh miệt họ, đặc biệt là đối với người lao động và phụ nữ; giữa những yếu tố hiện thực với những yếu tố ảo tưởng không thể thực hiện được trong thời Xuân - Thu - Chiến quốc cũng như trong xã hội có giai cấp nói chung.
Trên thực tế, trong lịch sử Trung Quốc và Việt Nam các điều kiện tiến bộ đã tiếp thu và thực hiện Nhân Chính trong khuôn khổ chế độ phong kiến. Nhân Chính đã hạn chế sự áp bức bóc lột của thế lực cầm quyền và giai cấp phong kiến, đồng thời đã giảm nhẹ sự đau khổ cho nhân dân; tạo nên tình hình xã hội tương đối ổn định, phồn vinh. Như vậy có thể thấy tư tưởng Nhân Chính là có giá trị lý luận và thực tiễn rất đáng trân trọng.
MỞ ĐẦU
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TrietHoc1021.doc