Trước hết, chúng ta hiểu văn hóa là toàn bộ những sản phẩm, những vật thể hay giá trị dưới dạng vật chất và tinh thần do con người và loài người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn để phục vụ cuộc sống của con người, để thực hiện sự phát triển và tiến bộ xã hội. Văn hóa thể hiện sức mạnh bản chất người, là trình độ người trong phát triển mà mỗi thời đại đạt được trong tiến trình lịch sử, hướng tới chân - thiện - mỹ, vì hạnh phúc và tự do của mỗi người. Còn chính trị là quan hệ giai cấp, dân tộc trong việc giành, giữ, thực thi quyền lực chính trị nhằm thực hiện quyền con người.
Văn hóa chính trị là thể hiện mối quan hệ tác động qua lại giữa văn hóa với chính trị, giữa chính trị với văn hóa. Văn hóa chính trị nâng hoạt động chính trị của con người và của tổ chức lên trình độ văn hóa, làm cho hoạt động chính trị mang tính tự giác, chủ động và sáng tạo, nâng cao tính tích cực chính trị của quần chúng. Văn hóa thấm sâu vào chính trị, nâng chính trị lên tâm văn hóa chính trị, làm cho chính trị trở thành khoa học, cách mạng và nhân văn. Chính trị của giai cấp công nhân, chính trị trong chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là chính trị kiểu mới với những bản chất đặc trưng và cách mạng nhất. Vậy văn hóa chính trị là tổng hợp những giá trị vật chất, tinh thần được hình thành trong thực tiễn chính trị. Nó là cái góp phần chi phối hoạt động của các cá nhân, của các nhà chính trị, định hướng hoạt động của họ trong việc tham gia vào đời sống chính trị để phục vụ lợi ích căn bản của một giai cấp nhất định.
Văn hóa chính trị góp phần định hướng mục tiêu hoạt động cho các tổ chức chính trị, đặc biệt là Đảng và Nhà nước, cho các phong trào chính trị trong một xã hội nhất định.
18 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3404 | Lượt tải: 1
Nội dung tài liệu Tiểu luận Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao văn hóa chính trị ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao văn hóa chính trị ở nước ta hiện nay
1. Quan niệm về văn hóa chính trị
Trước hết, chúng ta hiểu văn hóa là toàn bộ những sản phẩm, những vật thể hay giá trị dưới dạng vật chất và tinh thần do con người và loài người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn để phục vụ cuộc sống của con người, để thực hiện sự phát triển và tiến bộ xã hội. Văn hóa thể hiện sức mạnh bản chất người, là trình độ người trong phát triển mà mỗi thời đại đạt được trong tiến trình lịch sử, hướng tới chân - thiện - mỹ, vì hạnh phúc và tự do của mỗi người. Còn chính trị là quan hệ giai cấp, dân tộc trong việc giành, giữ, thực thi quyền lực chính trị nhằm thực hiện quyền con người.
Văn hóa chính trị là thể hiện mối quan hệ tác động qua lại giữa văn hóa với chính trị, giữa chính trị với văn hóa. Văn hóa chính trị nâng hoạt động chính trị của con người và của tổ chức lên trình độ văn hóa, làm cho hoạt động chính trị mang tính tự giác, chủ động và sáng tạo, nâng cao tính tích cực chính trị của quần chúng. Văn hóa thấm sâu vào chính trị, nâng chính trị lên tâm văn hóa chính trị, làm cho chính trị trở thành khoa học, cách mạng và nhân văn. Chính trị của giai cấp công nhân, chính trị trong chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là chính trị kiểu mới với những bản chất đặc trưng và cách mạng nhất. Vậy văn hóa chính trị là tổng hợp những giá trị vật chất, tinh thần được hình thành trong thực tiễn chính trị. Nó là cái góp phần chi phối hoạt động của các cá nhân, của các nhà chính trị, định hướng hoạt động của họ trong việc tham gia vào đời sống chính trị để phục vụ lợi ích căn bản của một giai cấp nhất định.
Văn hóa chính trị góp phần định hướng mục tiêu hoạt động cho các tổ chức chính trị, đặc biệt là Đảng và Nhà nước, cho các phong trào chính trị trong một xã hội nhất định.
2. Thực trạng văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay
2.1. Chúng ta có chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là bộ phận cốt lõi trong văn hóa chính trị ở nước ta
Khi nói đến truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam, chúng ta muốn nói đến cái phần chủ yếu, cái phần cốt lõi của nó, đó là nội dung tình cảm, tư tưởng, đạo lý, được chứa đựng trong cái biểu hiện rất phong phú, đa dạng nhằm thể hiện tâm hồn, cốt cách và bản lĩnh của dân tộc ta, hòa quện với nó là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn 70 năm qua và tiếp tục soi sáng con đường chúng ta tiến lên xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Lênin tin tưởng và yêu cầu Đảng Cộng sản phải trở thành trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại chúng ta. Lênin chỉ ra rằng: "Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống"(() V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, tập 34, tr. 122.
). Thực tiễn đã chỉ cho chúng ta phải sáng tạo và vận dụng một cách khoa học, không áp dụng giáo điều máy móc. Cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược là cuộc chiến không cân sức, chúng ta đã toàn thắng, câu hỏi đặt ra tại sao Việt Nam thắng Mỹ, vẫn là câu hỏi lớn làm đau đầu nhiều chính khách Mỹ. Chúng ta không thể lấy vật chất để đánh đổ lực lượng vật chất, mà chúng ta lấy văn hóa chính trị Việt Nam để thắng Mỹ, ông cha ta đã lấy "chí nhân thay cường bạo", "lấy đại nghĩa thắng hung tàn", "lấy văn minh thắng bạo tàn". Chúng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho hành động cách mạng của mình. Lênin yêu cầu rất cao đối với những người cộng sản đó là: Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra. Dân tộc ta đã biết chắt lọc, biết chưng cất những giá trị văn hóa của nhân loại để làm giàu cho chính mình, cho dân tộc mình, văn hóa chính trị không chỉ giúp con người sự lựa chọn mà còn giúp cho con người biết vận dụng mọi tri thức và kinh nghiệm để sáng tạo và phát hiện ra những tri thức mới trong thực tiễn cuộc sống. Có biết bao nhà cách mạng đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng trong số họ sự thành công rất ít. Bởi họ áp dụng máy móc tư tưởng của Mác, Ăngghen, Lênin, thiếu sự nhạy bén chính trị. Việc áp dụng thành công trong cách mạng nước ta, đó là sự chọn lựa mang tính sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc xác định mục tiêu, đường lối chính trị. Đó là quá trình tích lũy văn hóa từ tri thức, kinh nghiệm, vốn sống thực tế kết hợp truyền thống dân tộc và các giá trị tinh thần nhân đạo mang tính phổ quát, để ứng xử trước tình thế cách mạng dân tộc và thời đại đặt ra.
Trong cuốn Đường Cách mệnh Hồ Chí Minh đã viết: Sửa xã hội cũ đã mấy ngàn năm làm xã hội mới, ấy là việc khó. Nhưng biết cách làm, biết đồng tâm hiệp lực mà làm thì làm chắc chắn được. Hồ Chí Minh còn giải thích: Vì sao chúng ta muốn sống thì phải cách mệnh. Vì sao cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người. Đem lịch sử cách mệnh các nước làm gương cho chúng ta soi. Đem phong trào thế giới nói cho đồng bào ta rõ. Cách mệnh thì phải làm thế nào.
Hồ Chí Minh đã khơi dậy truyền thống ngàn năm của lịch sử Việt Nam, văn hóa chính trị Việt Nam kết hợp phương Đông, phương Tây và tư tưởng cách mạng Mác - Lênin. Tư tưởng dựa vào sức mạnh của nhân dân: dân là gốc, chở thuyền là dân và lật thuyền cũng là dân. Tư tưởng đoàn kết dân tộc từ huyền thoại "Tiên rồng". Ngày nay, trong thời đại mới, Hồ Chí Minh đã phát triển những tư tưởng đó lên một chất lượng mới: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công". Hồ Chí Minh la người giáo dục, sáng lập và rèn luyện Đảng ta. Người thấy rõ vai trò to lớn của Đảng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Cách mạng trước hết phải có gì? trước hết phải có đảng cách mệnh, Đảng có vững cách mệnh mới thành công, đảng có vững phải lấy chủ nghĩa làm cốt, Hồ Chí Minh còn ví như người cầm lái có vững thuyền mới chạy, Đảng không có chủ nghĩa như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam.
Hồ Chí Minh không chỉ trang bị lý luận cách mạng cho những người cộng sản, mà còn giáo dục cho họ "tư cách người cách mạng" và đạo đức người cách mạng. Người nói: người cách mạng phải là người ít ham muốn về vật chất vì bệnh cá nhân đẻ ra đủ thứ bệnh như: tham lam, lười biếng, hẹp hòi... khi đã mắc những bệnh đó thì không tiến đến chí công, vô tư... khi đã không chí công vô tư thì không dũng cảm. Đối với dũng cảm Hồ Chí Minh nói dũng cảm là gan góc, gặp việc khó phải có gan làm, thấy khuyết điểm phải có gan sửa chữa, cực khổ, khó khăn phải cố gắng chịu đựng... nếu cần phải có gan hy sinh cả tính mạng cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát.
Văn hóa chính trị ở nước ta hiện nay là hệ tư tưởng của dân tộc Việt Nam với hạt nhân cơ bản là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhân tố đó trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và nhân dân ta trên con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Lịch sử Việt Nam thời kỳ hiện đại đã chứng minh tính tất yếu của con đường giải phóng dân tộc bằng cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nhân tố cơ bản đảm bảo tính khoa học, tính cách mạng, tính tiên tiến của văn hóa chính trị nước ta, mặt khác, lịch sử loài người nói chung, lịch sử phát triển của văn hóa trong đó có văn hóa chính trị nói riêng cũng là một dòng chảy liên tục, trong đó những giá trị tích cực, tiến bộ của thế hệ trước luôn được thế hệ sau kế thừa có chọn lọc, những giá trị văn hóa chính trị của truyền thống đã được hình thành trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Có thể nói rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin đã soi đường, chỉ lối cho cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với truyền thống quý báu của dân tộc đã tạo thành nhân tố mới trong văn hóa chính trị ở nước ta hiện nay. Trong nền văn hóa chính trị đó, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Từng bước hoàn thiện một nhà nước của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng một hệ thống chính trị với tư cách là cơ chế đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân, không ngừng đổi mới theo hướng từng bước hình thành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà nội dung cơ bản của nó là: "Toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân".
Đảng ta dân tộc ta đã biết phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc kết hợp với sức mạnh dân tộc thời đại chủ nghĩa Mác - Lênin - tư tưởng Hồ Chí Minh để đem lại độc lập, tự do, hòa bình cho nhân dân ta. Thành tựu của gần 20 năm đổi mới càng khẳng định điều đúng đắn đó.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ ra phương hướng chung của công tác tư tưởng, lý luận là: "Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta", và cần phải đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, thảo luận dân chủ, sớm làm rõ và kết luận những vấn đề mới, bức xúc nảy sinh từ thực tiễn, từng bước cụ thể hóa, bổ sung phát triển đường lối, chính sách của Đảng, đấu tranh với những khuynh hướng tư tưởng sai trái. Theo đó, có thể thấy, trong thời gian tới phương hướng chung của công tác tư tưởng, lý luận cần thực hiện các bước sau:
Một là, nghiên cứu toàn diện, sâu sắc và có hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đẩy mạnh việc tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước. Nghiên cứu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước đi trước.
Hai là, nắm vững thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, tiếp thu có chọn lọc các giá trị tư tưởng khoa học, những tinh hoa lý luận của thế giới, đấu tranh chống những tư tưởng sai trái, thù địch, chống chủ nghĩa cơ hội chính trị, chủ nghĩa xét lại, nâng cao cảnh giác, chống "diễn biến hòa bình" của kẻ thù trên lĩnh vực tư tưởng lý luận.
Ba là, khắc phục chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa giáo điều trong hoạt động nghiên cứu lý luận, thực hiện phương châm đổi mới tư duy, thực sự cầu thị, tôn trọng khách quan, phát huy dân chủ, nghiên cứu lý luận phục vụ đắc lực sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Phương hướng chung nói trên của công tác tư tưởng, lý luận của Đảng trong tình hình mới đã tiếp tục được nêu rõ trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa IX): "Quán triệt đường lối đổi mới, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, từ Trung ương đến cơ sở. Đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương pháp công tác tư tưởng, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, góp phần làm rõ hơn nữa con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta".
2.2. Duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Hồ Chí Minh đã có luận điểm quan trọng là: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam. Luận điểm đó đã chỉ đạo cách thức tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ thể hiện bản chất giai cấp công nhân, mà còn gắn bó máu thịt với dân tộc. Mọi hoạt động của Đảng không có lợi ích nào khác ngoài phụng sự giai cấp, phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Chính vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân thừa nhận gọi trừu mến, gần gũi là "Đảng ta". Đó là cội nguồn sức mạnh của Đảng. Lịch sử dân tộc cũng chứng minh chỉ có Đảng Cộng sản mới đem lại độc lập, tự do, cơm no áo ấm cho nhân dân được nhân dân thừa nhận. Nhân dân tin tưởng và giao gánh nặng đó cho Đảng Cộng sản.
Trong những năm đổi mới vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã và đang không ngừng hoàn thiện để phục vụ tốt cho yêu cầu đổi mới trên mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có việc nâng cao nhận thức văn hóa chính trị. Toàn hệ thống chính trị có chung một mục tiêu là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, tiến tới một xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, toàn bộ hệ thống chính trị đứng trước thử thách mới đòi hỏi phải tiến hành đổi mới toàn diện và sâu sắc để phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Hệ thống tổ chức chính trị được tổ chức lại theo hướng tinh giảm gọn nhẹ và hiệu quả. Đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng đã khẳng định cần phải: "Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế - xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng". Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế. Sau nhiều năm hoạt động theo cơ chế cũ với nhiều bất cập hạn chế, Đảng ta đã tiến hành đổi mới, trước hết là đổi mới kinh tế, từng bước đổi mới chính trị, hệ thống chính trị có những bước thay đổi nhất định và đã thu được những kết quả tích cực. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, hệ thống chính trị nếu hoạt động không hiệu quả thì sẽ dẫn đến trì trệ, thậm chí có thể làm sụp đổ cả hệ thống chính trị đó. Cho đến nay, hoạt động của hệ thống chính trị trong công cuộc đổi mới đã có được những thành tựu nổi bật, là nhân tố xuyên suốt mọi thắng lợi của cách mạng.
Trong quá trình đổi mới, việc đổi mới hệ thống chính trị từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, chúng ta không tránh khỏi những vướng mắc, thậm chí là sai lầm trong việc thực hiện các cơ chế, chính sách đổi mới, nhưng điều đó không có nghĩa là sự nghiệp đổi mới toàn bộ hệ thống chính trị của chúng ta là sai lầm. Tổng kết thực tiễn để rút ra được những bài học từ chính quá trình đổi mới để hoàn thiện môi trường, mục tiêu chính trị, khắc phục dần những khó khăn là vấn đề đặt ra cho công tác lý luận. Chúng ta biết nhận sai lầm và dám sửa chữa những tồn tại của cơ chế cũ như tệ quan liêu bao cấp, cơ chế hoạt động rườm rà với nhiều thủ tục chồng chéo. Sự yếu kém về mặt nhận thức tư duy lý luận trong một bộ phận cán bộ quản lý. Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị nhất là tổ chức bộ máy quản lý hành chính của nhà nước còn có quá nhiều đầu mối dễ gây ra sự chồng chéo về các chức năng dẫn đến hoạt động kém hiệu quả, thậm chí đóng băng trong một số trường hợp nhất định. Trách nhiệm của tập thể và cá nhân chưa rõ ràng, cụ thể, chất lượng hoạt động và hiệu quả hoạt động thấp. Hệ thống chính trị trên một số lĩnh vực hoạt động chưa đổi mới kịp với đòi hỏi của thực tế, các tệ nạn phát sinh trong công cuộc đổi mới như nạn tham nhũng, sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ lãnh đạo quản lý đang bùng phát cũng như những hạn chế của nhận thức trong tư duy. Trước đó, hệ thống chính trị hoạt động theo cơ chế tập trung, bao cấp là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc đổi mới hệ thống chính trị còn có những tồn tại cần phải nhanh chóng khắc phục. Sự nghiệp đổi mới đã đi qua được một chặng đường đầy khó khăn, gian khổ; nhưng để hoàn thành công cuộc đổi mới, hệ thống chính trị còn rất nhiều tồn tại cần khắc phục. Điều đó càng đòi hỏi phải đổi mới hệ thống chính trị như một yêu cầu tất yếu hiện nay.
Tổng kết kinh nghiệm hoạt động thực tiễn đã cho thấy, chúng ta còn rất nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Việc tổ chức tuyên truyền, thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước còn chưa tốt nên việc nâng cao nhận thức cho nhân dân về chính trị còn chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Còn tồn tại tình trạng tùy tiện, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm trong hoạt động chính trị. Công tác chỉ đạo điều hành cũng như xây dựng các nội dung chế định còn chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương. Một số quan điểm, chủ trương trong quá trình xây dựng cũng như khi đã đưa vào trong hoạt động thực tế còn chưa rõ ràng, chưa có sự nhận thức đúng đắn và thống nhất. Do đó cũng còn nhiều tồn tại cần phải nhanh chóng khắc phục. Việc xây dựng và thực hiện các chính sách và pháp luật còn nhiều vướng mắc, trong đó có tình trạng thiếu tính khả thi trong công việc, yêu cầu xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật là rất bức xúc, nhu cầu lập pháp là rất lớn, nhưng khả năng và trình độ của đội ngũ cán bộ còn hạn chế, dẫn đến tình trạng không ít luật, pháp lệnh, tính khả thi chưa cao và chậm đi vào cuộc sống. Bộ máy hành chính nhà nước các cấp chưa phát huy đầy đủ vai trò và quyền hạn của bản thân trong việc quản lý hành chính nhà nước phù hợp với cơ chế hoạt động của nền kinh tế thị trường. Hệ thống hành chính còn nhiều khâu, nhiều cửa, cách giải quyết công việc còn chậm chạp, hệ thống tổ chức hành chính nặng về quản lý chung mà chưa xây dựng được một cơ chế quản lý mang tính chuyên sâu, chuyên nghiệp ở trình độ cao.
Trên lĩnh vực văn hóa chính trị, các thiết chế văn hóa được xây dựng thông qua các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đã thực sự tạo điều kiện cho việc nâng cao trình độ văn hóa chính trị một cách toàn diện. Sự nghiệp đổi mới xây dựng các thiết chế, định chế đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định. Khi đổi mới kinh tế thì các thiết chế chính trị cũng phải thay đổi cho phù hợp với đường lối phát triển kinh tế. Văn hóa chính trị muốn được nâng cao thì các thiết chế văn hóa cũng phải phát triển ở trình độ tương ứng. Nhìn lại chặng đường đổi mới đã qua, chúng ta có thể nhận thấy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đem lại cho chúng ta những thắng lợi to lớn, nền kinh tế phát triển đã giúp cho chúng ta có thêm điều kiện để nâng cao trình độ dân trí, đời sống cho nhân dân và nâng cao trình độ văn hóa chính trị trong toàn bộ xã hội. Sự mở rộng giao lưu quốc tế đã tăng cường tìm hiểu và tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho mình.
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, toàn bộ hoạt động của hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới đều hướng tới mục tiêu xây dựng một xã hội theo định hướng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động đã nảy sinh nhiều tình huống chính trị phức tạp từ bên trong cũng như bên ngoài cản trở hoạt động chính trị của chúng ta, hệ thống chính trị đang phải đối phó với nhiều nguy cơ phá hoại, trong đó nguy cơ "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch. Nguy cơ tụt hậu về kinh tế, đói nghèo là những thách thức to lớn trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hoạt động chính trị trong thời kỳ đổi mới được xây dựng trên cơ sở hướng tới mở rộng dân chủ trong hoạt động chính trị để mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội có thể tham gia vào đời sống chính trị và có ý thức tham gia vào mọi hoạt động chính trị một cách tự giác và hăng hái. Tuy nhiên, việc nâng cao nhận thức chính trị ở một bộ phận nhân dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới đang khó khăn về kinh tế. Chính những tồn tại đó là kẽ hở để kẻ thù lợi dụng phá hoại, mua chuộc quần chúng. Bên cạnh đó vấn đề sử dụng, đào tạo cán bộ còn có nhiều bất cập, hạn chế như tệ quan liêu, tham nhũng. Những khiếm khuyết trong quá trình hoạt động của hệ thống chính trị đã tạo nên những lực cản không nhỏ đối với quá trình đổi mới. Điều đó càng đòi hỏi hệ thống chính trị phải nỗ lực hơn nữa trong quá trình hoàn thiện hệ thống chính trị, tiến tới một hệ thống chính trị dân chủ vì tiến bộ xã hội.
2.3. Dân tộc Việt Nam không cam chịu, không sùng tín, năng lực tiếp biến mạnh
Truyền thống văn hóa chính trị của nước ta được tiếp tục phát huy với những giá trị tích cực. Lịch sử dân tộc đã chứng minh không có hệ tư tưởng tôn giáo nào hoặc học thuyết cai trị nào khiến người Việt Nam sùng bái đến mức cực đoan, mê muội. Nhân dân ta luôn có sự kế thừa sáng tạo, như trong suốt hơn 1000 năm Bắc thuộc bị phong kiến Trung Quốc đô hộ nhưng bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam luôn được giữ gìn và phát huy, thậm chí còn tiếp biến thành những giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam. Những giá trị văn hóa như chữ Hán đã được biến đổi thành chữ Nôm. Cũng như sau này, trong thời kỳ bị phương Tây xâm lược, chúng ta đã tiếp thu những giá trị văn hóa tích cực của phương Tây, sáng tạo nên chữ quốc ngữ ngày nay. Người Việt Nam có mẫn cảm về chính trị, thường can dự vào các công việc chính trị. Bởi vậy, trong quá trình dân chủ hóa hiện nay, khi Đảng và Nhà nước cần lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân về các dự thảo quyết sách chính trị của mình thì số lượng người tham gia góp ý, phê bình dưới nhiều hình thức khác nhau, với số lượng tham gia đông đảo, những ý kiến đóng góp đều mang nặng nhiệt huyết yêu nước. Việt Nam là một dân tộc bất khuất không cam chịu làm nô lệ, dù kẻ thù xâm lược có mạnh đến chừng nào cũng không khuất phục được ý chí quật cường của một dân tộc nhỏ bé nhưng anh hùng. Truyền thống không cam chịu khó khăn lại một lần nữa thúc đẩy mọi người Việt Nam mang hết tiềm lực trí tuệ, tinh thần, vật chất để thực hiện thành công công cuộc đổi mới, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh".
Qua thực tiễn đấu tranh cách mạng, Đảng ta đã hình thành cho mình một đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có bề dày kinh nghiệm giải quyết nhiều vấn đề chính trị phức tạp. Trong quá trình đổi mới hiện nay, đội ngũ cán bộ đã có những bước chuyển đổi hoạt động ngày càng có hiệu quả trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao văn hóa chính trị ở nước ta hiện nay
3.1. Nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Con đường Đảng và Bác Hồ đã chọn cho dân tộc ta là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Không phải ngẫu nhiên Đảng và Bác lại chọn như vậy, vì chỉ có đi lên CNXH thì con người mới được tự do và hạnh phúc, nếu không xây dựng CNXH thì nhân dân ta lại phải làm cách mạng một lần nữa, khủng hoảng XHCN ở Đông Âu và Liên Xô càng cho chúng ta bài học sâu sắc về xây dựng CNXH ở Việt Nam. Đảng ta đã nhìn thẳng vào sự thật trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn đổi mới ở nước ta: Trong lúc một số cán bộ, đảng viên dao động hoặc thiếu niềm tin về CNXH về con đường đã chọn của Đảng và Hồ Chí Minh. Hơn lúc nào hết chính lúc này chúng ta cần phải làm rõ con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, bước đi và tuần tự, lý luận phải trả lời. Chúng ta không thể coi chủ nghĩa Mác - Lênin là cái gì đó xong xuôi hẳn mà nó chỉ là môn khoa học để lý giải để định hướng và áp dụng cho con đường xây dựng CNXH ở nước ta. Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là vấn đề quan trọng đối với mỗi cán bộ đảng viên, không đứng vững trên lập trường quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì dễ bị dao động, chùn bước trước khó khăn, gian khổ, dễ bị kẻ thù lợi dụng và mua chuộc. Hiện nay kẻ thù đang lợi dụng những khó khăn trước mắt của chúng ta để xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng tuyên truyền rằng độc lập dân tộc không cần gắn liền với CNXH, đây là cuộc hôn nhân không bền vững trước sau cũng tan vỡ, chúng hạ thấp tư tưởng Hồ Chí Minh, bóp méo tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính vì vậy việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn Đảng toàn dân là nhiệm vụ quan trọng, sống còn của Đảng ta. Có như vậy chúng ta mới thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX khẳng định: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc, về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân, về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho muôn đời sau, về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân"(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 83 - 84.
.
3.2. Kiên quyết giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việc khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ đổi mới hiện nay phải gắn liền với quá trình nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng. Kinh tế thị trường làm cho con người năng động, nhưng nó cũng dẫn đến mặt trái như trọng "tiền" hơn trọng "tình", bất chấp đạo lý, làm hư hỏng một bộ phận cán bộ của Đảng và Nhà
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tieu luan - VH chinh tri - sua.doc