Tiểu luận Mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế tại Việt Nam

Trong kinh tế học, tăng trưởng kinh tế được biểu hiện phổ quát là sự tăng sản lượng thực tế của một nền kinh tế theo thời gian. Trong kinh tế học phương Tây, tăng trưởng kinh tế thường chỉ sự gia tăng của giá trị tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc sự gia tăng của giá trị GNP bình quân đầu người. Tuy nhiên, để phán ánh chính xác hơn sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, người ta thường chỉ tính sản lượng ròng của một nền kinh tế, tức là tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nền kinh tế đó. Như vậy, tăng trưởng kinh tế được tính bằng mức tăng GDP theo thời gian hoặc mức tăng GDP bình quân đầu người theo thời gian. Điều này có nghĩa là tăng trưởng kinh tế chỉ thể hiện mặt lượng của nền kinh tế theo thời gian.

Nhà kinh tế học người Mỹ Walter Wiliam Rostow đã dùng khái niệm tăng trưởng trong một lý thuyết tổng quát về phát triển. Ông chia tiến trình phát triển của xã hội loài người thành năm giai đoạn tăng trưởng từ xã hội truyền thống đến xã hội hiện đại. Quan niệm của W. W. Rostow nhấn mạnh đến nội dung kinh tế của tiến trình phát triển, coi tăng trưởng kinh tế là điều kiện tiên quyết cho phát triển. Và cũng chính vì vậy, nó đã làm nảy sinh nhiều vấn đề và nhiều quan điểm khác nhau xoay quanh mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển, trong đó có công bằng xã hội vì công bằng xã hội là một nội dung quan trọng của phát triển.

 

doc50 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1220 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ************** TIỂU LUẬN KINH TẾ §ÇU T¦ ĐỀ TÀI: MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẠI VIỆT NAM MỤC LỤC PHẦN I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ 1.1. Khái quát quan niệm về tăng trưởng và phát triển kinh tế Trong kinh tế học, tăng trưởng kinh tế được biểu hiện phổ quát là sự tăng sản lượng thực tế của một nền kinh tế theo thời gian. Trong kinh tế học phương Tây, tăng trưởng kinh tế thường chỉ sự gia tăng của giá trị tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc sự gia tăng của giá trị GNP bình quân đầu người. Tuy nhiên, để phán ánh chính xác hơn sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, người ta thường chỉ tính sản lượng ròng của một nền kinh tế, tức là tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nền kinh tế đó. Như vậy, tăng trưởng kinh tế được tính bằng mức tăng GDP theo thời gian hoặc mức tăng GDP bình quân đầu người theo thời gian. Điều này có nghĩa là tăng trưởng kinh tế chỉ thể hiện mặt lượng của nền kinh tế theo thời gian. Nhà kinh tế học người Mỹ Walter Wiliam Rostow đã dùng khái niệm tăng trưởng trong một lý thuyết tổng quát về phát triển. Ông chia tiến trình phát triển của xã hội loài người thành năm giai đoạn tăng trưởng từ xã hội truyền thống đến xã hội hiện đại. Quan niệm của W. W. Rostow nhấn mạnh đến nội dung kinh tế của tiến trình phát triển, coi tăng trưởng kinh tế là điều kiện tiên quyết cho phát triển. Và cũng chính vì vậy, nó đã làm nảy sinh nhiều vấn đề và nhiều quan điểm khác nhau xoay quanh mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển, trong đó có công bằng xã hội vì công bằng xã hội là một nội dung quan trọng của phát triển. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế Để giải thích nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế các nhà kinh tế học dùng các mô hình kinh tế. Mô hình David Ricardo (1772-1823) với luận điểm cơ bản là đất đai sản xuất nông nghiệp (R, Resources) là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Nhưng đất sản xuất lại có giới hạn do đó người sản xuất phải mở rộng diện tích trên đất xấu hơn để sản xuất, lợi nhuận của chủ đất thu được ngày càng giảm dẫn đến chí phí sản xuất lương thực, thực phẩm cao, giá bán hàng hóa nong phẩm tăng, tiền lương danh nghĩa tăng và lợi nhuận của nhà tư bản công nghiệp giảm. Mà lợi nhuận là nguồn tích lũy để mở rộng đầu tư dẫn đến tăng trưởng. Như vậy, do giới hạn đất nông nghiệp dẫn đến xu hướng giảm lợi nhuận của cả người sản xuất nông nghiệp và công nghiệp và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Nhưng thực tế mức tăng trưởng ngày càng tăng cho thấy mô hình này không giải thích được nguồn gốc của tăng trưởng. Mô hình hai khu vực tăng trưởng kinh tế dựa vào sự tăng trưởng hai khu vực nông nghiệp và công nhiệp trong đó chú trọng yếu tố chính là lao động (L labor), yếu tố tăng năng suất do đầu tư và khoa học kỹ thuật tác động lên hai khu vực kinh tế. Tiêu biểu cho mô hình hai khu vực là mô hình Lewis, Tân cổ điển và Harry T. Oshima. Mô hình Harrod-Domar nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn (yếu tố K, capital) đưa vào sản xuất tăng lên. Mô hình Robert Solow (1956) với luận điểm cơ bản là việc tăng vốn sản xuất chỉ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn mà không ảnh hưởng trong dài hạn, tăng trưởng sẽ đạt trạng thái dừng. Một nền kinh tế có mức tiết kiệm cao hơn sẽ có mức sản lượng cao hơn không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn (tăng trưởng kinh tế bằng không (0)). Mô hình Kaldor tăng trưởng kinh tế phụ thuộc phát triển kỹ thuật hoặc trình độ công nghệ. Mô hình Sung Sang Park nguồn gốc tăng trưởng là tăng cường vốn đầu tư quốc gia cho đầu tư con người. Mô hình Tân cổ điển nguồn gốc của tăng trưởng tùy thuộc vào cách thức kết hợp hai yếu tố đầu vào vốn(K) và lao động (L). Trước Keynes, kinh tế học cổ điển và tân cổ điển không phân biệt rành mạch tăng trưởng kinh tế với phát triển kinh tế. Hơn nữa, ngoại trừ Schumpeter, các trường phái trên đều không coi trọng vai trò của tiến bộ kỹ thuật đối với tăng trưởng kinh tế. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của kinh tế học vĩ mô Keynes tiêu biểu là mô hình Harrod-Domar. Mô hình này dựa trên hai giả thiết căn bản: (1) giá cả cứng nhắc, và (2) nền kinh tế không nhất thiết ở tình trạng toàn dụng lao động. Nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn (yếu tố K, capital) đưa vào sản xuất tăng lên. Từ đó, họ suy luận ra được rằng một khi nền kinh tế đang ở trạng thái tăng trưởng cân bằng mà chuyển sang trạng thái tăng trưởng không cân bằng thì sẽ càng ngày càng không cân bằng (mất ổn định kinh tế). Trong khi đó, lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển xây dựng mô hình của mình dựa trên hệ giả thiết mà hai giả thiết căn bản là: (1) giá cả linh hoạt, và (2) nền kinh tế ở trạng thái toàn dụng lao động. Mô hình tăng trưởng kinh tế của họ cho thấy, khi nền kinh tế đang ở trạng thái tăng trưởng cân bằng mà chuyển sang trạng thái tăng trưởng không cân bằng thì đó chỉ là nhất thời, và nó sẽ mau chóng trở về trạng thái cân bằng. Các nhân tố của tăng trưởng kinh tế Sau khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển, những nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng động lực của phát triển kinh tế phải được đi cùng trên bốn bánh xe, hay bốn nhân tố của tăng trưởng kinh tế là nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, tư bản và công nghệ. Bốn nhân tố này khác nhau ở mỗi quốc gia và cách phối hợp giữa chúng cũng khác nhau đưa đến kết quả tương ứng. Nguồn nhân lực: chất lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng, kiến thức và kỷ luật của đội ngũ lao động là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Hầu hết các yếu tố khác như tư bản, nguyên vật liệu, công nghệ đều có thể mua hoặc vay mượn được nhưng nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều tương tự. Các yếu tố như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể phát huy được tối đa hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình độ văn hóa, có sức khỏe và kỷ luật lao động tốt. Thực tế nghiên cứu các nền kinh tế bị tàn phá sau Chiến tranh thế giới lần thứ II cho thấy mặc dù hầu hết tư bản bị phá hủy nhưng những nước có nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn có thể phục hồi và phát triển kinh tế một cách ngoạn mục. Một ví dụ là nước Đức, "một lượng lớn tư bản của nước Đức bị tàn phá trong Đại chiến thế giới lần thứ hai, tuy nhiên vốn nhân lực của lực lượng lao động nước Đức vẫn tồn tại. Với những kỹ năng này, nước Đức đã phục hồi nhanh chóng sau năm 1945. Nếu không có số vốn nhân lực này thì sẽ không bao giờ có sự thần kỳ của nước Đức thời hậu chiến."[1] Nguồn tài nguyên thiên nhiên: là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển, những tài nguyên quan trọng nhất là đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ, rừng và nguồn nước. Tài nguyên thiên nhiên có vai trò quan trọng để phát triển kinh tế, có những nước được thiên nhiên ưu đãi một trữ lượng dầu mỏ lớn có thể đạt được mức thu nhập cao gần như hoàn toàn dựa vào đó như Ả rập Xê út. Tuy nhiên, các nước sản xuất dầu mỏ là ngoại lệ chứ không phải quy luật, việc sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú không quyết định một quốc gia có thu nhập cao. Nhật Bản là một nước gần như không có tài nguyên thiên nhiên nhưng nhờ tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng lao động, tư bản, công nghệ cao nên vẫn có nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới về quy mô. Vốn (hay còn gọi là Tư bản): là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ tư bản mà người lao động được sử dụng những máy móc, thiết bị...nhiều hay ít (tỷ lệ tư bản trên mỗi lao động) và tạo ra sản lượng cao hay thấp. Để có được tư bản, phải thực hiện đầu tư nghĩa là hy sinh tiêu dùng cho tương lai. Điều này đặc biệt quan trọng trong sự phát triển dài hạn, những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao thường có được sự tăng trưởng cao và bền vững. Tuy nhiên, tư bản không chỉ là máy móc, thiết bị do tư nhân dầu tư cho sản xuất nó còn là tư bản cố định xã hội, những thứ tạo tiền đề cho sản xuất và thương mại phát triển. Tư bản cố định xã hội thường là những dự án quy mô lớn, gần như không thể chia nhỏ được và nhiều khi có lợi suất tăng dần theo quy mô nên phải do chính phủ thực hiện. Ví dụ: hạ tầng của sản xuất (đường giao thông, mạng lưới điện quốc gia...), sức khỏe cộng đồng, thủy lợi.... Phát triển kinh tế mang nội hàm rộng hơn tăng trưởng kinh tế. Nó bao gồm tăng trưởng kinh tế cùng với những thay đổi về chất của nền kinh tế (như phúc lợi xã hội, môi trường, tuổi thọ, v.v.) và những thay đổi về cơ cấu kinh tế (giảm tỷ trọng của khu vực sơ khai, tăng tỷ trọng của khu vực chế tạo và dịch vụ). Phát triển kinh tế là một quá trình hoàn thiện về mọi mặt của nền kinh tế bao gồm kinh tế, xã hội, môi trường, thể chế trong một thời gian nhất định nhằm đảm bảo rằng GDP cao hơn đồng nghĩa với mức độ hạnh phúc hơn. Phát triển kinh tế là phải nói đến các yếu tố như công bằng xã hội, vấn đề môi trường, phúc lợi xã hội, tuổi thọ trung bình,... Trong kinh tế học, các công trình nghiên cứu cũng như các báo cáo phát triển chính thức ở cấp độ quốc gia cũng như quốc tế, người ta thường sử dụng một số công cụ và thước đo chủ yếu như: Đường cong Lorenz; Hệ số Gini; Mức độ nghèo khổ; Mức độ thoả mãn nhu cầu cơ bản của con người; Chỉ số phát triển xã hội tổng hợp; Chỉ số chất lượng vật chất của cuộc sống. Trong thời gian gần đây, một thước đo được sử dụng nhiều là Chỉ số phát triển con người (HDI), do Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) đưa ra và sử dụng lần đầu tiên năm 1990. Chỉ số này trải từ 0 (mức độ phát triển con người thấp nhất) đến 1 (mức độ phát triển con người cao nhất) và là trung bình cộng của các chỉ số tuổi thọ, trình độ giáo dục và thu nhập. 1.2. Khái niệm đầu tư và vốn đầu tư Khái niệm đầu tư Theo luật đầu tư năm 2005, Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư; Đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam; Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư Trong kinh tế “Đầu tư” được hiểu là sự chi tiêu mà kết quả làm tăng tài sản cho nền kinh tế (giá trị của những tài sản mua đi bán lại giữa các thực thể kinh tế với nhau không được coi là đầu tư đối với nền kinh tế). Vì vậy, có những trường hợp đối với một cá nhân, hoặc của một tổ chức nào đó là đầu tư, nhưng xét trên phạm vi toàn nền kinh tế thì đó không phải là đầu tư nếu quá trình đầu tư đó không tạo thêm tài sản mới. (ví dụ: một người bỏ ra một khoản tiền để mua một ngôi nhà của người khác để ở thì hành vi mua bán đó không được tính là đầu tư trên phạm vi toàn nền kinh tế). Các nhà kinh tế vĩ mô chia đầu tư thành 3 loại chính như sau: đầu tư vào tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh doanh; đầu tư vào tài sản lưu động và đầu tư vào nhà ở. Đầu tư tài sản cố định là sự bỏ vốn ra để xây dựng nhà máy, cơ sở hạ tầng và mua sắm trang, thiết bị và các tài sản đủ tiêu chuẩn là TSCĐ của các đơn vị sản xuất kinh doanh (làm tăng thực sự tài sản sản xuất). Theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính là những tài sản có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên và có thời gian sử dụng trên 1 năm. Đầu tư tài sản lưu động là sự bỏ vốn ra để làm tăng thêm giá trị hàng hoá tồn kho của các doanh nghiệp, bao gồm cả nguyên, nhiên vật liệu, sản phẩm dở dang và thành phẩm tồn kho. Đầu tư nhà ở là sự bỏ vốn ra của các hộ gia đình, các chủ đất để xây dựng nhà ở mới dùng để ở và cho thuê. Tuy nhiên có những ý kiến cho rằng đầu tư xây dựng nhà ở không thuộc phạm vi đầu tư trên phương diện toàn nền kinh tế. Người ta cho rằng nhà ở thuộc tài sản tiêu dùng của các hộ gia đình. Nhưng trong cuốn sách xuất bản lần thứ 3, của N.Gregory Mankiw, Tiến sỹ kinh tế của trường Đại học Harvard coi đầu tư nhà ở thuộc phạm trù đầu tư của nền kinh tế. Đồng thời thuật ngữ “Investment” của nhiều nước hiện nay vẫn bao gồm cả lĩnh vực đầu tư về nhà ở. Vì vậy, trong bài viết này, nội dung đầu tư  được đề cập đến cả lĩnh vực đầu tư  vào nhà ở vì nhà ở được coi là tài sản cố định của nền kinh tế (khác với các tài sản dùng trong tiêu dùng của hộ gia đình khác mặc dù về giá trị và thời gian sử dụng trên một năm, nhưng không được coi là tài sản cố định của nền kinh tế).    Việc phân định ranh giới giữa tài sản cố định và tài sản lưu động không phải lúc nào cũng rõ ràng, đôi khi cũng gây lúng túng cho người thu thập và xử lý thông tin, chẳng hạn đối với thiết bị, máy móc, đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định nhưng chúng chưa được đưa vào sản xuất, vẫn nằm trong kho của các đơn vị thì được xếp vào nhóm tài sản lưu động. Vốn đầu tư Luật đầu tư 2005 đã định nghĩa: Vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện các hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp. Vốn nhà nước là vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn đầu tư khác của Nhà nước. Vốn đầu tư là toàn bộ các chi phí bỏ ra để thực hiện mục đích đầu tư. Như vậy theo quan điểm kinh tế vĩ mô vốn đầu tư trong kinh tế bao gồm ba nội dung chính là: Vốn đầu tư làm tăng tài sản cố định; Vốn đầu tư tài sản lưu động và Vốn đầu tư vào nhà ở. Chỉ tiêu “Vốn đầu tư” với nội dung như trên là rất cần thiết cho việc tính toán các chỉ tiêu liên quan như: tích luỹ tài sản, vốn hiện có,... và dùng trong phân tích về hiệu quả của đầu tư và các phân tích khác có liên quan đến vốn đầu tư, đồng thời khái niệm này cũng bảo đảm phạm vi của chỉ tiêu trong so sánh quốc tế.    Trước những năm 2000, do chế độ và điều kiện hạch toán, chỉ tiêu “vốn đầu tư cơ bản” hay thường gọi là “vốn đầu tư xây dựng cơ bản” được sử dụng phổ biến. Nhưng từ năm 2000 trở lại đây do thay đổi cơ chế quản lý, chế độ và điều kiện hạch toán, đồng thời do quan điểm của các nhà lãnh đạo, chỉ tiêu “Vốn đầu tư phát triển” đã trở thành một chỉ tiêu thay thế chỉ tiêu “vốn đầu tư XDCB” (trong niêm giám của ngành thống kê hiện nay chỉ công bố số liệu của chỉ tiêu “vốn đầu tư phát triển”). Do vậy, phần này tôi muốn so sánh nội dung của hai chỉ tiêu “Vốn đầu tư cơ bản” và “Vốn đầu tư phát triển” với nội dung của “Vốn đầu tư trong kinh tế”. * Vốn đầu tư cơ bản và vốn đầu tư trong kinh tế Vốn đầu tư cơ bản (hay vẫn quen gọi là vốn đầu tư XDCB) là toàn bộ chi phí dành cho việc tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tài sản cố định cho nền kinh. Nội dung của vốn đầu tư cơ bản gồm: các khoản chi phí cho khảo sát thiết kế và xây lắp nhà cửa và vật kiến trúc; mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc; chi phí trồng mới cây lâu năm; mua sắm súc vật đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định và một số chi phí khác phát sinh trong quá trình tái sản xuất tài sản cố định. Vốn đầu tư cơ bản không bao gồm chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định của các cơ sở sản xuất; chi phí khảo sát thăm dò chung không liên quan trực tiếp đến việc xây dựng một công trình cụ thể. Vốn đầu tư cơ bản gồm: vốn đầu tư xây lắp; vốn đầu tư mua sắm thiết bị và vốn đầu tư cơ bản khác. Vốn đầu tư xây lắp (vốn xây lắp) là phần vốn đầu tư cơ bản dành cho công tác xây dựng và lắp đặt thiết bị, máy móc gồm: vốn đầu tư dành cho xây dựng mới, mở rộng và xây dựng lại nhà cửa, vật kiến trúc; vốn đầu tư để lắp đặt thiết bị, máy móc. Vốn đầu tư mua sắm thiết bị (vốn thiết bị) là phần vốn đầu tư cơ bản dành cho việc mua sắm thiết bị, máy móc, công cụ, khí cụ, súc vật, cây con đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định bao gồm cả chi phí vận chuyển, bốc dỡ và chi phí kiểm tra, sửa chữa thiết bị máy móc trước khi lắp đặt.  Đối với các trang thiết bị chưa đủ là tài sản cố định nhưng có trong dự toán của công trình hay hạng mục công trình để trang bị lần đầu của các công trình xây dựng thì giá trị mua sắm cũng được tính vào vốn đầu tư mua sắm thiết bị. Vốn đầu tư cơ bản khác là phần vốn đầu tư cơ bản dùng để giải phóng mặt bằng xây dựng, đền bù hoa màu và tài sản của nhân dân, chi phí cho bộ máy quản lý của ban kiến thiết, chi phí cho xây dựng công trình tạm loại lớn.  Như vậy, so với tổng số vốn đầu tư trong kinh tế như trên đề cập ta thấy như sau: nội dung của “Vốn đầu tư cơ bản” là trùng với 2 nội dung chính (trong 3 nội dung) của vốn đầu tư cho nền kinh tế đó là đầu tư tài sản cố định và đầu tư xây dựng nhà. Tuy nhiên, ở đây có một vấn đề còn gây tranh luận là phần vốn chi cho việc sửa chữa lớn tài sản cố định tại các doanh nghiệp có tính vào tổng vốn đầu tư trong kinh tế hay không? vì trong nội dung của vốn đầu tư cơ bản không bao gồm phần vốn này và cách tính này là hoàn toàn phù hợp với hạch toán của các doanh nghiệp hiện nay. Tại các doanh nghiệp phần vốn này không được quyết toán vào tăng tài sản của doanh nghiệp mà được tính vào phần chi phí và được phép hạch toán vào giá thành sản phẩm. Nguồn vốn sửa chữa lớn TSCĐ thường lấy từ phần trích khấu hao tài sản nên không coi là đầu tư mới trong năm.  Điều này hiện nay là mâu thuẫn với chỉ tiêu “Tích luỹ tài sản (giá trị tài sản tăng trong kỳ)” của Tài khoản quốc gia. Như vậy để có nội dung đầy đủ của chỉ tiêu vốn đầu tư trong kinh tế, chúng ta chỉ cần cộng thêm phần vốn đầu tư bổ sung tài sản lưu động (đầu tư hàng tồn kho) và phần vốn mua sắm TSCĐ không thuộc công trình xây dựng) vào vốn đầu tư cơ bản là đủ, tức là: Vốn ĐT trong kinh tế = Vốn ĐTCB (bao gồm cả vốn mua sắm TSCĐ không thuộc công trình XD) + Vốn bổ sung tài sản lưu động Vốn đầu tư phát triển và vốn đầu tư trong kinh tế Khái niệm và nội dung vốn đầu tư phát triển hiện nay còn nhiều tranh luận. Trong đó có hai khái niệm về vốn đầu tư phát triển đang sử dụng trong ngành thống kê như sau: Vốn đầu tư phát triển là những chi phí bỏ ra để thực hiện các hoạt động đầu tư nhằm tăng thêm tài sản tài chính (tiền vốn); tài sản vật chất (nhà máy, thiết bị, vật tư, nguyên, nhiên, vật liệu, hàng hoá, cầu cống, đường xá); tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực (trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn, trình độ khoa học kỹ thuật). Vốn đầu tư phát triển gồm: vốn đầu tư XDCB và sửa chữa lớn tài sản cố định; vốn lưu động bổ sung; vốn đầu tư phát triển khác. Về nội dung của vốn đầu tư XDCB và vốn lưu động bổ sung là thống nhất với phần đã nêu trên. Vốn đầu tư phát triển khác bao gồm: chi phí thăm dò, khảo sát và qui hoạch ngành, vùng lãnh thổ; chi phí thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia (Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, Chương trình 773 phủ xanh đất trống ven sông ven biển, Chương trình 135 hỗ trợ các xã nghèo, Chương trình sắp xếp lao động và giải quyết việc làm, chương trình giáo dục và đào tạo, chương trình y tế; Chương trình văn hoá; Chương trình phủ sóng phát thanh; chương trình mục tiêu về truyền hình; Chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình; Chương trình phát triển công nghệ thông tin, chương trình hành động phòng chống ma tuý, Chương trình phòng chống HIV/AIDS, chương trình phòng chống tệ nạn mại dâm...); chi phí cho các hoạt động nghiên cứu, triển khai, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực không thuộc vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Vốn đầu tư phát triển là vốn được bỏ ra để thực hiện mục đích đầu tư nhằm sau một chu kỳ hoạt động hoặc sau một thời gian nhất định thu về một giá trị nhất định lớn hơn giá trị vốn đã bỏ ra ban đầu. Nội dung của vốn đầu tư phát triển gồm: vốn đầu tư xây dựng cơ bản, vốn đầu tư mua sắm thiết bị máy móc, tài sản cố định dùng cho sản xuất kinh doanh, vốn đầu tư cho sửa chữa lớn tài sản cố định; vốn đầu tư bổ sung cho vốn lưu động và các nguồn vốn đầu tư phát triển khác như vốn đầu tư để thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, cho khoa học công nghệ, cho đào tạo nguồn nhân lực con người So sánh giữa nội dung của chỉ tiêu “Vốn đầu tư trong kinh tế” và “Vốn đầu tư phát triển” ta thấy: nội dung của chỉ tiêu “Vốn đầu tư” trong kinh tế không bao gồm những phần đầu tư cho người lao động (hoặc nguồn lao động) như: Chi cho giáo dục, đào tạo nguồn lao động kể cả đào tạo của các doanh nghiệp và các đơn vị hành chính sự nghiệp; chi sự nghiệp khoa học công nghệ và chi cho nghiên cứu không trực tiếp liên quan đến công trình xây dựng nào; chi sự nghiệp y tế, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng,... và các khoản chi khác không được quyết toán vào tăng tài sản của nền kinh tế. 1.3 Mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trường và phát triển kinh tế 1.3.1 Tốc độ tăng đầu tư và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đầu tư tác động lên tăng trưởng kinh tế ở cả hai mặt; tổng cung và tổng cầu. Yếu tố đầu tư là một nhân tố của hàm tổng cầu có dạng: Y = C + I + G + X - M (4) Trong kinh tế vĩ mô cũng như trong hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) Y là GDP; C là tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình; I là đầu tư; G là chi tiêu dùng của nhà nước; X là xuất khẩu và M là nhập khẩu. Từ quan hệ trên ta thấy khi đầu tư (I) tăng sẽ trực tiếp làm tăng GDP. Theo Keynes thì khi đầu tư tăng một đơn vị thì sẽ làm cho GDP tăng hơn một đơn vị. Trong thực tế thì mức độ của ảnh hưởng trên còn tuỳ thuộc vào năng lực cung của nền kinh tế. Nếu năng lực cung hạn chế thì việc gia tăng tổng cầu, với bất kỳ lý do nào chỉ làm tăng giá mà thôi, sản lượng thực tế không tăng là bao. Ngược lại, nếu năng lực sản xuất (cung) dồi dào thì gia tăng tổng cầu sẽ thực sự làm tăng sản lượng, ở đây lý thuyết của Keynes được khẳng định. Các mô hình tăng trưởng đơn giản dạng tổng cung đều nhấn mạnh đến yếu tố vốn trong tăng trưởng. Mô hình Harrod - Domar (Do hai nhà kinh tế Roy Harrod của Anh và Evsey Domar của Mỹ đưa ra vào những thập niên 40 của thế kỷ 20 và được sử dụng rộng rãi cho đến ngay nay) đưa ra mối quan hệ hàm số giữa vốn (ký hiệu K) và tăng trưởng sản lượng (ký hiệu là Y). Mô hình này cho rằng sản lượng của bất kỳ một thực thể kinh tế nào - cho dù là một doanh nghiệp, một ngành hay toàn bộ nền kinh tế - đều phụ thuộc vào số lượng vốn đã đầu tư đối với thực thể kinh tế đó và được biểu diễn dưới dạng hàm: Y = K/k (5) Với k là hằng số, được gọi là hệ số vốn - sản lượng (Capital - output ratio) (Gillis at al,1992, trang 43), quan hệ trên chuyển sang dạng tốc độ tăng hoặc vi phân ta có: Y(t)/Y(t0) = K(t)/Y(t0).1/k (6) => k = K(t)/Y(t0)/ Y(t)/Y(t0) (7) ở đây: t là năm tính toán; t0 là năm trước năm tính toán Người ta coi Y(t)/Y(t0) chính là tốc độ tăng GDP; K(t)/Y(t0) là tỷ lệ đầu tư của năm tính toán trên GDP của năm trước đó. Điều này có nghĩa để đạt được tốc độ tăng trưởng nào đó thì nền kinh tế phải đầu tư theo một tỷ lệ nhất định nào đó từ GDP; khi chuyển sang dạng tốc độ hệ số k gọi là hệ số ICOR (incremental capital - output ratio); hệ số này cho biết để tăng thêm một đồng GDP thì cần tăng thêm bao nhiêu đồng vốn đầu tư. Có một thời gian rất nhiều người thích sử dụng cách tính ICOR theo công thức này và họ đơn giản lấy Y(t)/Y(t0) là tốc độ tăng trưởng (công bố trong niên giám Thống kê) và họ rất băn khoăn không biết lấy tỷ lệ và giá gì cho phần tử số. Cách tính này là không thực tế đối với Việt Nam do nguồn số liệu không khả thi, ví dụ như họ thường lấy K là vốn từ trong Niên giám Thống kê; khái niệm vốn đầu tư trong Niên giám Thống kê thực ra không phải là vốn theo định nghĩa của các nhà kinh tế, mà cũng không hẳn là đầu tư theo SNA, nó là cái gì thì hiện nay còn đang tranh cãi! Từ quan hệ (5) cũng có thể khai triển (vi phân hai vế) với công thức tính ICOR như sau: k = (K(t)-K(t0))/ ( GDP(t)-GDP(t0)) Đặt I = K(t) - K(t0) =>k = I/( GDP(t)-GDP(t0)) (8) Công thức tính ICOR này là chuẩn tắc và truyền thống (theo từ điển các thuật ngữ kinh tế). Khi tính toán ICOR theo công thức này cần chú ý đến vấn đề giá. Hệ số ICOR cao là không hiệu quả, thấp là hiệu quả, nhưng đối với những nền kinh tế lạc hậu, hệ số này thường cũng không cao. * Vận dụng chỉ tiêu ICOR xác định nhu cầu vốn và mục tiêu tăng trưởng Vì vốn đầu tư (I) có tác dụng tác động quyết định đến tăng trưởng kinh tế (g) và mức tiết kiệm (S) là nguồn gốc của đầu tư. Ta có: g = DY/Y, (trong đó Y là chỉ tiêu kết quả sản xuất - ở đây lấy chỉ tiêu GDP), nếu gọi S là mức tiết kiệm của nền kinh tế thì tỷ lệ tích luỹ trong GDP là: s = S/Y Vì tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư nên về mặt lý thuyết đầu tư luôn bằng tiết kiệm (S = I). Mục đích của đầu tư là tạo ra vốn sản xuất (I = DK) Từ công thức hệ số ICOR ta có: k= DK/DY = I/DY Vì g = DY/Y = (IDY)/(IY) = (I/Y):(I/DY) hay g = S/K Từ quan hệ trên ta, chúng ta có thể rút ra được hai điểm cơ bản sau: Một là: Xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế cho thời kỳ mới khi xác định được khả năng tiết kiệm của nền kinh tế thời kỳ gốc và dự báo hệ số ICOR thời kỳ kế hoạch là một trong những căn cứ quan trọng đối với các nhà hoạch định trong xây dựng chiến lược phát triển kinh tế, xã hội. Hai

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docmoi_quan_he_giua_dau_tu_voi_tang.doc