1.1 Triết học Trung Hoa cổ đại
Triết học Trung hoa cổ đại là một nền triết học lớn của nhân loại, có tới 103 trường
phái triết học. Do đặc điểm của bối cảnh lịch sử Trung Hoa lúc đó là xã hội loạn lạc,
đời sống nhân dân cơ cực, đạo đức suy đồi nên triết học Trung hoa cổ đại tập trung vào
giải quyết các vấn đề về chính trị - xã hội. Những tư tưởng biện chứng thời này chỉ thể
hiện khi các nhà triết học kiến giải những vấn đề về vũ trụ quan.
Một trong những học thuyết triết học mang tư tưởng biện chứng sâu sắc là Học
thuyết Âm - Dương. Đây là một học thuyết triết học được phát triển trên cơ sở một bộ
sách có tên là Kinh Dịch. Một trong những nguyên lý triết học cơ bản nhất là nhìn nhận
mọi tồn tại không phải trong tính đồng nhất tuyệt đối, mà cũng không phải trong sự
loại trừ biệt lập không thể tương đồng. Trái lại tất cả đều bao hàm sự thống nhất của
các mặt đối lập - đó là Âm và Dương. Âm - Dương không loại trừ, không biệt lập, mà
bao hàm nhau, liên hệ tương tác lẫn nhau, chế ước lẫn nhau. Kinh dịch viết: "Cương
nhu tương thôi nhi sinh biến hoá", "Sinh sinh chi vi dịch". Sự tương tác lẫn nhau giữa
Âm và Dương, các mặt đối lập, làm cho vũ trụ biến đổi không ngừng. Đây là quan
điểm thể hiện tư tưởng biện chứng sâu sắc. Học thuyết này cũng cho rằng chu trình vậnđộng, biến dịch của vạn vật trong vũ trụ diễn ra theo nguyên lý phân đôi cái thống nhất
như: Thái cực (thể thống nhất) phân đôi thành lưỡng nghi (âm - dương), sau đó âm -
dương lại tiến hành phân thành tứ tượng (thái âm - thiếu âm, thái dương - thiếu dương),
tứ tượng lại sinh ra bát quái, và từ đó bát quái sinh ra vạn vật.
Tuy nhiên, học thuyết Âm - Dương cho rằng sự vận động của vạn vật diễn ra theo
chu kỳ lặp lại và được đảm bảo bởi nguyên tắc cân bằng Âm - Dương. ở điểm này thì
học thuyết Âm - Dương phủ nhận sự phát triển biện chứng theo hướng đi lên mà cho
rằng sự vận động của các hiện tượng chỉ dừng lại khi đạt được trạng thái cân bằng Âm
-Dương. Hơn nữa, trong học thuyết Âm - Dương còn nhiều yếu tố duy tâm thần bí như
quan điểm "Thiên tôn địa ty" cho rằng trật tự sang hèn trong xã hội bắt nguồn từ trật tự
của "trời đất", họ đem trật tự xã hội gán cho giới tự nhiên, rồi lại dùng hình thức bịa đặt
đó để chứng minh cho sự hợp lý vĩnh viễn của chế độ đẳng cấp xã hội.
Tóm lại, học thuyết Âm - Dương là kết quả của quá trình khái quát hoá những kinh
nghiệm thực tiễn lâu dài của nhân dân Trung Quốc thời cổ đại. Mặc dù còn những tính
chất trực quan, chất phác ngây thơ và tồn tại những quan điểm duy tâm thần bí về xã
hội, nhưng học thuyết Âm - Dương đã bộc lộ rõ khuynh hướng duy vật và tư tưởng
biện chứng tự phát của mình trong quan điểm về cơ cấu và sự vận động, biến hoá của
sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội.
18 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 19/05/2022 | Lượt xem: 445 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Tiểu luận Lịch sử phát triển của phép biện chứng trong triết học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhau giữa phép biện chứng duy vật của ông với phép biện chứng duy tâm của
Hêghen. C.Mác cho rằng ông chỉ làm cái công việc là đặt phép biện chứng duy tâm của
Hêghen "đứng trên hai chân của mình" tức là đứng trên nền tảng duy vật.
Theo C.Mác thì phép biện chứng chính là "khoa học về mối liên hệ phổ biến trong
tự nhiên xã hội và tự nhiên, trong tư duy". Theo Lênin thì phép biện chứng là "học
thuyết về sự phát triển đầy đủ, sâu sắc và toàn diện nhất, học thuyết về tính tương đối
của sự vật".
Ba mối liên hệ chủ yếu trong phép biện chứng duy vật là: 1. Mối liên hệ cùng tồn
tại và phát triển; 2. Mối liên hệ thâm nhập lẫn nhau tuy có sự khác nhau nhưng vẫn có
sự giống nhau; 3. Mối liên hệ về sự chuyển hoá vận động và phát triển. Các mối liên hệ
được khái quát thành các cặp phạm trù như( phần tử - hệ thống, nguyên nhân - kết quả,
lượng - chất) và các quy luật (quy luật lượng - chất, quy luật đấu tranh và thống nhất
của các mặt đối lập, quy luật phủ định của phủ định).
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác đã công khai tính giai cấp của để bảo vệ
lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Trong khi đó các nền triết
học trước Mác che dấu lợi ích của nó, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, của một
nhóm người thiểu số trong xã hội.
Triết học C.Mác là một hệ thống sáng tạo, là một hệ thống mở, không ngừng được
bổ sung, được làm phong phú thêm bởi chính thực tiễn và phát triển. Cùng với chính sự
phát triển thực tiễn, học thuyết của C.Mác là kim chỉ nam cho hành động.
Những nội dung chính của phép biện chứng được C.Mác và Ph.Ănghen luận chứng
trong tác phẩm: "Biện chứng của tự nhiên" (1873 - 1883), "Chống Đuy -rinh"
(1876 -1878), "Lút-vich Phoiơ Bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức" và một
số tác phẩm do V.I.Lênin viết như: "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán" (1908 -1909), "Bút ký triết học".
Tóm lại, phép biện chứng duy vật Mác - xít là kết quả của sự chín muồi về mặt lịch
sử của nhận thức khoa học và của thực tiễn xã hội. Sự ra đời của nó đáp ứng nhu cầu
về mặt lý luận của giai cấp công nhân. Giai đoạn mới trong sự phát triển của phép biện
chứng gắn với tên tuổi của V.I.Lênin đã vận dụng thành công phép biện chứng Mác-xít
trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917. Sự phát triển của
V.I.Lênin về phép biện chứng duy vật thể hiện trong lý luận cách mạng xã hội chủ
nghĩa như là một công cụ sắc bén để cải tạo thế giới một cách cách mạng nhất.
Iii. phép biện chứng duy vật trong sự vận động và phát triển của nền kinh tế nước
ta hiện nay.
Phép biện chứng là một phương pháp nghiên cứu xem xét các sự vật hiện tượng
trong mối liên hệ giữa các mặt và giữa các sự vật hiện tượng đó và trong sự đứng im
tương đối.
Việt Nam quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) bỏ qua sự phát triển của CNTB,
xuất phát từ một nền kinh tế lạc hậu, chậm phát triển. Đó là con đường quá độ lâu dài,
mà có thể nói mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ này là mâu thuẫn giữa xu hướng tự phát
lên chủ nghĩa tư bản với xu hướng tự giác lên chủ nghĩa xã hội. Quá trình đấu tranh
giải quyết mâu thuẫn cơ bản trên đây của cách mạng nước ta là quá trình vừa phải kế
thừa những mặt cần thiết hợp lý của chủ nghĩa tư bản để phát triển lực lượng sản xuất
lại vừa phải đấu tranh loại bỏ những mặt tiêu cực, mất nhân tính của chủ nghĩa tư bản.
Con đường quá độ lên CNXH ở nước ta đòi hỏi phải chủ động và tự giác phát triển và
sử dụng CNTB làm khâu trung gian, làm phương tiện để đi lên CNXH, nhất là hướng
tư bản đi vào con đường tư bản Nhà nước. Đó chính là sự thống nhất của các mặt đối
lập thông qua các biện pháp trung gian và quá độ.
Trong công cuộc xây dựng CNXH, chúng ta không thể phủ định sạch trơn CNTB,
không thể cho rằng cái gì đó có trong CNTB là không thể có trong CNXH, càng không
thể áp dụng nguyên vẹn mô hình CNXH ở nước khác để xây dựng nước ta. Chúng ta
phải nhận thức được tính tất yếu của sự phát triển. Do đó, để xây dựng thành công
CNXH, chúng ta phải lấy lý luận của C.Mác - Lênin làm kim chi nam cho hành động,
đồng thời phải học hỏi, nghiên cứu tình hình thực tế của các XHCN, TBCN trên thế
giới để áp dụng vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
Trong quá trình vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường, chúng ta lại gặp phải
một mâu thuẫn cần phải giải quyết đó là: Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và phát
triển xã hội. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị
trường. Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của thị trường thông qua hoạt động của
các quy luật kinh tế vốn có của nó. Cơ chế thị trường có ưu điểm ở chỗ là phát huy
được tính năng động sáng tạo của mọi chủ thể kinh tế trong việc đáp ứng nhu cầu ngày
càng phong phú của xã hội. Tuy nhiên cơ chế thị trường đồng thời kích thích đầu cơ,
làm sai lệch các quan hệ thị trường, gây ra khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, ô nhiễm
môi trường, tệ nạn xã hội. Một trong những đặc điểm của nền kinh tế XHCN là xây
dựng một Nhà nước "của dân, do dân, vì dân", xây dựng một xã hội "công bằng văn
minh". Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ
VIII đã khẳng định: "Sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là
thành tựu của nền văn minh nhân loại tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội và ngay cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng"1. Để giữ
vững bản chất CNXH trong phát triển kinh tế Nhà nước cần sử dụng các công cụ của
mình để tiến hành điều tiết lợi ích giữa các thành phần kinh tế, đảm bảo mọi thành viên
trong xã hội được hưởng thành quả trong phát triển kinh tế. Nhà nước có thể sử dụng
các công cụ như thuế thu nhập cao, trợ cấp, bảo hiểm để tiến hành phân phối lại thu
nhập xã hội; xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế đi liền với xây dựng kế hoạch phát
triển xã hội. Đây chính là công cụ, phương tiện quan trọng để tác động giải quyết mâu
thuẫn trên làm cho nền kinh tế Việt Nam phát triển theo định hướng XHCN.
1 Văn kiện Đại hội lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc
gia, 1997, tr25
Kết luận
Bằng việc trình bày lịch sử phát triển của phép biện chứng trong triết học, có thể
khẳng định: Xuyên suốt chiều dài lịch sử nhiều thế kỷ hình thành và phát triển từ
phép biện chứng tự phát, thô sơ cổ đại cho đến phép biện chứng duy tâm Hêghen
của triết học cổ điển Đức và đạt đến đỉnh cao là phép biện chứng duy vật mác - xít
thì phép biện chứng luôn là công cụ sắc bén, là chìa khoá giúp con người nhận thức
và cải tạo thế giới để phục vụ nhu cầu chính bản thân con người.
Hiện nay, đất nước ta đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành công
nghiệp hoá - hiện đại hoá, thì việc nghiên cứu phép biện chứng một cách có hệ thống,
nhất là việc nắm vững các nguyên tắc và vận dụng những nguyên tắc cơ bản của phép
biện chứng duy vật là một yêu cầu bức thiết để đổi mới tư duy, là định hướng tư
tưởng và mang lại cho chúng ta công cụ tư duy sắc bén để đấu tranh chống lại tư duy
siêu hình, bảo thủ lạc hậu và thực hiện thắng lợi mục tiêu XHCN của cách mạng nước
ta.
Phép biện chứng là một phát hiện lớn của nhân loại trong quá trình nhận thức tự
nhiên, xã hội và tư duy. Nghiên cứu lịch sử của phép biện chứng trong triết học là một
vấn đề rất lớn trong triết học, đòi hỏi có nhiều công sức của các nhà triết học với nhiều
công trình khảo cứu sâu sắc.
Tài liệu tham khảo
1. Tập bài giảng triết học dành cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không
thuộc chuyên nghành triết học. NXB Chính trị quốc gia 1997
2. Lịch sử phép biện chứng (tập 1, 2, 3), Viện triết học Liên Xô (cũ)
Mục lục
Trang
Lời nói đầu 2
Phần I- Các phép biện chứng trước triết học Mác 3
1. Phép biện chứng tự phát ngây thơ thời cổ đại 3
1.1 Triết học Trung hoa cổ đại 3
1.2 Triết học ấn Độ cổ đại 5
1.3 Triết học Hy Lạp cổ đại 6
2. Phép biện chứng Tây Âu thế kỷ XIV - XVIII 9
3. Phép biện chứng cổ điển Đức
10
Phần II. Phép biện chứng duy vật hay phép biện chứng Mác – xit 11
1. Điều kiện kinh tế - xã hội cho sự ra đời của phép duy vật biện
chứng
11
2. Nội dung chính của phép biện chứng duy vật
12
Phần III. Phép biện chứng duy vật trong sự vận động và phát triển
của nền kinh tế nước ta hiện nay
13
Kết luận
15
Tài liệu tham khảo
16
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_lich_su_phat_trien_cua_phep_bien_chung_trong_triet.pdf