Tiểu luận lịch sử Đảng

Tiểu luận lịch sử Đảng là một trong những báo cáo khoa học nhỏ, qua đó nhằm giúp sinh viên rèn luyện kỹ năng tổng hợp kiến thức, phân tích, và giải quyết các vấn đề khoa học được đặt ra, cũng như nắm được đường lối và chính sách của Đảng.

“Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945- đã mở ra một bước ngoặt trọng đại của lịch sử cách mạng Việt Nam” đây cũng là bài giảng giúp sinh viên hiểu được tầm quan trọng của lịch sử cách mạng việt nam thời kỳ đầu (1930-1945).

Vài nét sơ qua về tình hình đất nước việt nam trươc cách mạng tháng tám, đó là đất nước có truyền thống yêu nước , một đất nước có lịch sử phát triển lâu đời và bản sắc văn hoá độc đáo. Nhưng đến thế kỷ XVI chế độ phong kiến đi vào suy đồi và đánh dấu bằng sự sụp đổ vào năm 1858 khi thực dân Pháp nổ súng vào Việt nam. Sau đó chúng cai trị đất nước Việt nam bằng chính sách bóc lột và đàn áp đẩy đất nước ta trở lên tiêu điều, và “Có áp bức thì có đấu tranh” các phong trào giải phóng dân tộc lần lượt nổ ra tiêu biểu là phong trào chống Pháp ở Nam kỳ (1861-1868), phong trào Cần vương ở Trung kỳ và Bắc kỳ(1885-1895), cuộc khởi nghĩa Yên Thế (1885-1913) ngoài ra còn có các cuộc khởi nghĩa theo đường lối tư sản, Đông kinh nghĩa thục (1907), cuộc vận động tư sản Phan chu Trinh(1925). .vv.Nhưng các cuộc cách mạng trên đều đi đến thất bại và bị dìm trong bể máu, nguyên do chưa có đường lôi cách mạng đúng đắn, sáng suốt để đi tới thành công. Nhận thấy những yếu điểm đó Nguyễn ái Quốc đã có tìm tòi và phát hiện ra con đường để dẫn đến thành công là con cách mạng vô sản do Mác va Anghen sáng lập.

 

doc26 trang | Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 3316 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tiểu luận lịch sử Đảng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Tiểu luận lịch sử Đảng là một trong những báo cáo khoa học nhỏ, qua đó nhằm giúp sinh viên rèn luyện kỹ năng tổng hợp kiến thức, phân tích, và giải quyết các vấn đề khoa học được đặt ra, cũng như nắm được đường lối và chính sách của Đảng. “Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945- đã mở ra một bước ngoặt trọng đại của lịch sử cách mạng Việt Nam” đây cũng là bài giảng giúp sinh viên hiểu được tầm quan trọng của lịch sử cách mạng việt nam thời kỳ đầu (1930-1945). Vài nét sơ qua về tình hình đất nước việt nam trươc cách mạng tháng tám, đó là đất nước có truyền thống yêu nước , một đất nước có lịch sử phát triển lâu đời và bản sắc văn hoá độc đáo. Nhưng đến thế kỷ XVI chế độ phong kiến đi vào suy đồi và đánh dấu bằng sự sụp đổ vào năm 1858 khi thực dân Pháp nổ súng vào Việt nam. Sau đó chúng cai trị đất nước Việt nam bằng chính sách bóc lột và đàn áp đẩy đất nước ta trở lên tiêu điều, và “Có áp bức thì có đấu tranh” các phong trào giải phóng dân tộc lần lượt nổ ra tiêu biểu là phong trào chống Pháp ở Nam kỳ (1861-1868), phong trào Cần vương ở Trung kỳ và Bắc kỳ(1885-1895), cuộc khởi nghĩa Yên Thế (1885-1913) ngoài ra còn có các cuộc khởi nghĩa theo đường lối tư sản, Đông kinh nghĩa thục (1907), cuộc vận động tư sản Phan chu Trinh(1925). ..vv..Nhưng các cuộc cách mạng trên đều đi đến thất bại và bị dìm trong bể máu, nguyên do chưa có đường lôi cách mạng đúng đắn, sáng suốt để đi tới thành công. Nhận thấy những yếu điểm đó Nguyễn ái Quốc đã có tìm tòi và phát hiện ra con đường để dẫn đến thành công là con cách mạng vô sản do Mác va Anghen sáng lập. Ngày 3-2-1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng nước ta, nó chấm dứt sự bế tắc về đường lối của cách mạng. Đưa ra được điều lệ Đảng thống nhất được mọi đường lối đấu tranh trong cả nước. Đảng cộng sản Việt Nam đã trực tiếp lãnh đạo, tổ chức quần chúng đấu tranh, trải qua các cao trào cách mạng như cao trào 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh; 1936-1939 với cuộc vận động mặt trận dân chủ Đông Dương.. ..Tuy các cuộc cách mạng đều bi địch dìm trong bể mau nhưng tính chất của cách mạng đã thay đổi khẳng định được năng lực và vai trò lãnh đạo của mình. Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 là đỉnh cao của 15 năm đấu tranh cách mạng của toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thắng lợi này đã lật đổ chế độ chuyên chính phong kiến hàng nghìn năm lịch sử, lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp, đánh bại phát xít Nhật. Đây là một kỳ tích lịch sử, là tấm gương sáng về sự nghiệp giải phóng dân tộc đối với nhân dân Đông Dương nói riêng và nhân dân thế giới nói chung. Nó còn làm phong phú thêm những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề giải phóng dân tộc (một nước thuộc địa, công nghiệp không phát triển, biết đoàn kết dưới sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp vô sản dù còn non trẻ cũng có thể đi đến thắng lợi, giành độc lập dân tộc). Thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 với sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là thành quả của 15 năm trực tiếp lãnh đạo chính trị của Đảng, là sự thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng ngày càng sát đúng với hoàn cảnh Việt Nam, là thắng lợi của đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng, là thắng lợi của tư tưởng cách mạng độc lập tự do tiến lên chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh. Với sự trở lại cùng âm mưu thôn tính nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng cộng sản Việt Nam lại tiếp tục sứ mệnh lịch sử của mình là lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp đi đến thắng lợi “ 9 năm làm một Điện Biên” giải phóng miền Bắc, tạo điều kiện vững chắc để tiến lên giải phóng miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Phần I:Giai đoạn tiền khởi nghĩa : I - cao trào cách mạng xô viết nghệ tĩnh (1930-1931) Hoàn cảnh lịch sử: Vào năm 1929-1933 Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế chủ nghĩa tư bản từ đã bước sang rai đoạn tiêu điều, mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt, hệ thống tư bản chủ nghiã thế giới bị khủng khoảng kinh tế nặng nề. Chính phủ tư sản Pháp, thông qua chính quyền đế quốc và phong kiến ở thuộc địa đã trút gánh nặng khủng khoảng của tư bản Pháp lên đầu các dân tộc Đông Dương. Công nhân bị bóc lột ngày càng nặng nề và bị thất nghiệp hàng loạt. Nông dân làm ăn ngày càng khó khăn, phá sản và đói khổ các tầng lớp lao động khác cũng lâm vào khốn khó. Nhân dân lao động, đặc biệt là công nhân và nông dân phải gánh chịu nhiều tác hại nhất. Công nhân không có việc làm, số người thất nghiệp ngày càng đông, số người còn việc làm thì tiền lương bị giảm. Riêng ở Bắc Kỳ đã có 25000 công nhân thất nghiệp. Nông dân tiếp tục bị bần cùng hoá và phá sản trên quy mô lớn. Ruộng đất nhanh chóng bị thâu tóm vào tay địa chủ Pháp-Việt các loại. Các tầng lớp tiểu tư sản thành thị cũng điêu đứng. Các nghề thủ công bị phá sản nặng nề, nhà buôn nhỏ phải đóng cửa, viên chức bị sa thải; học sinh ra trường không có việc làm. Một số nhà tư sản cũng lâm vào phá sản. Đã thế sưu thuế mỗi ngày một tăng thêm gấp 2-3 lần so với trước. Rồi thiên tai, bão lụt lại tiếp tục sảy ra. Trong khi đó, về mặt chính trị, nhất là từ sau khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam quốc dân đảng thất bại, đế quốc Pháp ra sức đẩy mạnh chính sách khủng bố trắng trợn hòng rập tắt phong trào cách mạng vừa bùng nổ. Riêng năm 1930, ở Nam Kỳ có hơn 17000 người bị kết án, trong số đó hơn 400 tử hình. Tức nứơc thi vỡ bờ các phong trào cách mạng nổ ra ngay càng mạnh mẽ đòi quyền sống quyền tự do, trước phong trào đấu tranh của quần chúng, đế quốc và phong kiến đã thẳng tay đàn áp khủng bố, nhất là từ sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc Dân Đảng (7-2-1930). Chúng lợi dụng chống khởi nghĩa để khủng bố đàn áp nhân dân. Nhằm dìm cuộc cách mạng của nhân dân ta trong bể máu. Trong lúc doTrên thế giới, phong trào cách mạng vô sản phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt, công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô đạt nhiều thành tựu to lớn làm tấm gương lớn cho phong trào cách mạng ở thuộc địa phát triển lên đến đỉnh cao, phong trào cách mạng thế giới ảnh hưởng đến Đông Dương sâu sắc. Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng nước ta. Nó chấm dứt thời kỳ cách mạng Việt Nam ở tình trạng “đen tối không có lối ra”, chấm dứt sự khủng khoảng về đường lối kéo dài hơn hai phần ba thế kỷ, kể từ khi nước ta bị thực dân Pháp xâm lược. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời có cương lĩnh chính trị đáp ứng đúng yêu cầu nguyện vọng của nhân dân, hướng dẫn nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng ấm no hạnh phúc. Nó có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam từ đó về sau. Là sự chuẩn bị điều kiện cơ bản quyết định cho những thắng lợi oanh liệt và những bước nhảy vọt lớn trong lịch sử kháng chiến của dân tộc. 2.Diễn biến của cao trào: Từ đầu tháng 2 năm 1930 đến 1-5-1930: Phong trào đấu tranh quần chúng phát triển ngày càng mạnh mẽ. Mở đầu là cuộc đấu tranh của 5000 công nhân đồn điền Phú Riềng (ngày 3-2-1930), của 4000 công nhân nhà máy sợi Nam Định (ngay 25-3-1930) và của 400 công nhân nhà máy diêm và nhà máy cưa Bến Thuỷ (ngày 19-4-1930). Tiếp đó, phong trào công nhân phát triển mạnh ở Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, kéo theo hàng trăm cuộc đấu tranh của nông dân các vùng lân cậc. Khẩu hiệu đấu tranh là đòi dân chủ, cải thiện đời sống, chống khủng bố đàn áp, đòi tăng tiền lương, giảm giờ làm cho công nhân, giảm sưu cao, thuế nặng cho nông dân Truyền đơn, cờ đỏ búa liềm của Đảng cộng sản đã xuất hiện trên các đường phố Hà Nội và ở một số địa phương khác. Những cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động chống đế quốc và phong kiến tay sai, trong đó giai cấp công nhân đóng vai trò tiên phong, là màn đầu của một cao trào cách mạng mới ở Việt Nam do Đảng Cộng sản tổ chức và lãnh đạo. Phong trào đấu tranh đặc biệt mạnh mẽ bắt đầu từ tháng 5, ngày Quốc tế lao động 1-5-1930, lần đầu tiên công nông và dân chúng Đông Dương, dưới sự lãnh đạo của Đảng tỏ rõ dấu hiệu đấu tranh đoàn kết với vô sản thế giới và biểu dương lực lượng của mình. Trên khắp các thành thị và các vùng nông thôn, quần chúng sôi động đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng. Phong trào đấu tranh phát triển tới quy mô rộng lớn trên khắp cả nước, hình thành một cao trào cách mạng của quần chúng nhân dân. Khẩu hiệu đấu tranh đòi dân chủ, dân sinh được kết hợp với khẩu hiệu chống chiến tranh đế quốc, ủng hộ Liên Xô, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc. Riêng tháng 5-1930 trong cả nước có 16 cuộc đấu tranh của công nhân, 34 cuộc đấu tranh của nông dân, 4 cuộc đấu tranh của học sinh và dân nghèo thành thị. Đế quốc Pháp ở Đông Dương và cả ở bên Pháp đều tỏ ra bối rối trước cao trào cách mạng ở nước ta hồi bấy giờ. Ngày 31-5-1930, Hội đồng nội các Pháp đã phải họp để nhận định tình hình và tìm cách đối phó. Tháng 9-1930, phong trào công nông đã phát triển tới đỉnh cao,khẩu hiệu đấu tranh chính trị được kết hợp với các khẩu hiệu kinh tế. Hình thức đấu tranh đã diễn ra quyết liệt, quần chúng đã vũ trang tự vệ, biểu tình thị uy vũ trang, tiến công vào cơ quan chính quyền địch ở địa phương. Điển hình là phong trào ở một số vùng thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, trông đó có các cuộc biểu tình của 3000 nông dân huyện Nam Đàn, 20000 nông dân huyện Thanh Chương, 3000 nông dân huyện Can Lộc, 8000 nông dân huyện Hưng Nguyên…Phần lớn các cuộc biểu tình này là những cuộc đấu tranh chính trị nhưng có vũ trang tự vệ. Trước khí thế đấu tranh của quần chúng, chính quyền đế quốc và phong kiến nhiều nơi bị tan rã. Trước tình hình đó, nông dân một số vùng đã tự đứng lên để lập chính quyền để chăm lo đời sống cho chính mình. Một chính quyền của quần chúng công nông đầu tiên xuất hiện trong lịch sử Việt Nam. Chính quyền công nông ở một số vùng thuộc hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh lúc đó được gọi là Xô Viết Nghệ -Tĩnh. Xô Viết Nghệ –Tĩnh đã phát huy tác dụng là một chính quyền do dân và vì dân, chăm lo mọi mặt của đời sống nhân dân, để lại cho quần chúng nhân dân nhiều thiện cảm xâu sắc và niềm tin vào triển vọng đấu tranh của mình. Hoảng sợ trước phong trào quần chúng lên cao và trước ảnh hưởng của Đảng Cộng sản ngày càng lớn mạnh, đế quốc Pháp đã khủng bố cực kỳ rã man tàn bạo. Sau vụ ném bom tàn sát đẫm máu cuộc biểu tình ngày 12-9-1930 ở Hưng Nguyên, chúng điều động lính pháp và lính khố xanh về đóng chốt tại thành phố Vinh-Bến thuỷ là chung tâm phong trào cách mạng Nghệ Tĩnh. Đồng thời, chúng đóng nhiều đồn bốt trong hai tỉnh đễ sẵn sàng đàn áp, khủng bố phong trào. Cùng với việc cho quân lính đi bắn giết dân chúng, đốt phá, triệt hại làng mạc, chúng còn ra sức sử dụng những thủ đoạn chia rẽ, dụ dỗ, mua chuộc. Vì vậy, nhiều cơ quan của Đảng bị phá vỡ, hàng vạn cán bộ, đảng viên và chiến sĩ yêu nước bị bắt, bị tù đày hoặc bị giết hại. Không chùn bước trước sự khủng bố đàn áp tàn bạo của kẻ thù, Đảng và nhân dân ta đã kiên cường, anh dũng đấu tranh để khôi phục lại các tổ chức Đảng, quần chúng và phong trào cách mạng. Bằng sự cố gắng của mình và có sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng Sản, thông qua ban lãnh đão hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập tại Ma Cao (Trung Quốc) do đồng chí Lê Hồng Phong đứng đầu, có vai trò như một ban chấp hành Trung ương lâm thời, với nhiệm vụ tập hợp các cơ sở đảng mới được xây dựng lại trong nước thành hệ thống có tổ chức chung. Đến đầu năm 1935 phong trào cách mạng Việt Nam về cơ bản đã được phục hồi. Từ 27 đến 31-3-1935, Đảng đã họp Đại hội đại biểu lần thứ Nhất tại Ma Cao. Sau khi kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng, phân tích tình hình thế giới và trong nước, Đại hội đã nghị quyết 3 nhiêm vụ chính: Củng cố và phát triển Đảng; Thu phục đông đảo quần chúng; Lãnh đạo phong trào quần chúng chống chiến tranh đế quốc. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung Ương mới do đồng chí Hà Huy Tập làm Tổng Bí Thư. Đại hộ đại biể Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ Nhất có ý nghĩa lịch sử quan trọng; đánh dấu phong trào cách mạng đã được phục hồi, nói lên sức sống mãnh liệt của Đảng và nhân dân ta, chỉ trong một thời gian ngắn đã nhanh chóng vượt qua được thời kỳ thoáu trào,chuẩn bị điều kiện cho nhân dân ta chuyển sang một thời kỳ phát triển mới. 3- Thành quả, ý nghĩa lịch sử của cao trào cách mạng giai đoạn (1930-1931) và Xô Viết Nghệ Tĩnh: Có thể nói một cách tổng quát, thành quả và ý nghĩa lịch sử bao trùm của cao trào cach mạng 1930-1931 với đỉng cao Xô Viết Nghệ Tĩnh là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, một bước chuẩn bị cho thắng lợi của Cách Mạng Tháng Tám 1945. Bởi vì: Đã khẳng địng trên thực tiễn vai trò và khả năng lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam, của Đảng.Thông qua cao trào, đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng được kiểm nghiệm để sau này phát triên và cụ thể hoá hơn. Đã khẳng định vai trò và sức mạnh to lớn của quần chúng công nông và hình thành khối liên minh công nông trong thưc tế đấu tranh. Qua cao trào, đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng và nhân dân ta được tôi luyện, trưởng thành trong cuộc đấu tranh quyết liệt với kẻ thù. Rút được nhiều bài học kinh nghiệm về xây dựng lực lượng cách mạng, về kết hợp các hình thức đấu tranh, về quy luật dành và giữ chính quyền. Qua thực tiễn đấu tranh, nhân dân ta càng thấy được bộ mặt thâm độc, tàn bạo của kẻ thù đế quốc, phong kiến. Đồng thời cũng xây dựng và củng cố niềm tin vào thực lực của chính mình, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và tương lai, tiền đồ của Cách Mạng, để tiếp tục bền gan vững bước tiến lên. II-Cao trào dân tộc chủ(1936-1939) 1)Hoàn cảnh lịch sử: Tình hình thế giới Cuộc khủng hoảng kinh tế những năm (1929-1933) đã làm cho mâu thuẫn xã hội vốn có trong các nước tư bản chủ nghĩa càng thêm sâu sắc và phong trào cách mạng của quần chúng dâng lên mạnh mẽ, giai cấp tư sản lũng loạn ở nhiều nước mưu tìm lối thoát ra khỏi khủng hoảng bằng cách thiết lập chế độ phát xít, một chế độ độc tài tàn bạo nhất. Chúng ra sức xoá bỏ mọi quyền tự do dân chủ của nhân dân trong nước ra sức bóc lột sức lao động và tai nguyên của các nước thuộc địa và ráo riết chuẩn bị chiến tranh mới để chia lại thị trường và các vùng thuộc địa trên thế giới. Chúng cũng mưu đồ tấn công Liên Xô là thành trì cách mạng thế giới, hi vọng đẩy lùi phong trào cách mạng vô sản đang phát triển mạnh trong nước chúng và trên toàn thế giới. Chủ nghĩa phát xít Đức, Italia, Nhật cùng bè lũ tay chân của nó ở một số nước (Pháp, Tây Ban Nha) trở thành mối nguy cơ lớn đe doạ hoà bình và an ninh quốc tế. Đứng trước nguy cơ đó, đại hộ quốc tế cộng sản họp (7-1935) ở Matcơva xác định kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới không phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung, mà là chủ nghĩa phát xít. Đại hội đề ra chủ chương thành lập mặt trận nhân dân ở các nước, nhằm tập hợp rộng rãi các lực lượng dân chủ đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh do chúng gây ra. Năm 1936, mặt trận nhân dân Pháp do đảng cộng sản Pháp làm nòng cốt, thắng cử vào nghị viện lên cầm quyền. Thắng lợi đó đã tạo điêu kiện chính trị thuận lợi cho cuộc đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ, cải thiện đời sống của nhân dân ở các nước trong hệ thống thuộc địa của đế quốc Pháp, trong đó có Việt Nam. Tình hình trong nước Chính phủ mặt trận nhân dân Pháp đã ban bố những chính sách tự do dân chủ áp dụng phần nào trong các nước thuộc địa. Một số tù chính trị ở Việt Nam được thả ra đã nhanh tróng hoạt động trở lại. Lúc đó, ở nước ta hậu quả kéo dài của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã tác động sâu sắc không chỉ đế đời sống của các giai cấp và tầng lớp nhân dân lao động mà cả đến những nhà tư sản, địa chủ vừa và nhỏ. Trong khi đó bọn cầm quyền phản động ở Đông Dương vẫn tiếp tụ thi hành chính sách bóc lột, vơ vét và khủng bố, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân. Căn cứ vào những biến động của thế giới và của việt nam, tiếp thu đường lối của quốc tế cộng sản, Đảng cộng sản Đông Dương nhận định rằng kẻ thù cụ thể trước mắt của cách mạng nhân dân lúc này chưa phải là thực dân Pháp nói chung, mà là bọn phản động thuộc địa cùng bè lũ tay sai không chịu thi hành ở các thuộc địa chính sách của mặt trận nhân dân Pháp. Từ đó quyết định tạm thời hoãn các khẩu hiệu “đánh đổ đế quốc Pháp, Đông Dương hoàn toàn độc lập”, “tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cầy”. Và nêu những nhiệm vụ trước mắt củ nhân dân Đông Dương là: chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình. Để thực hiện nhiệm vụ đó mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương được thành lập, đến tháng 3-1938 được đổi lại thành mặt trận dân chủ Đông Dương, nhằm tập hợp mọi lực lượng yêu nước, dân chủ tiến bộ, đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và mọi phản động Pháp, dành tự do dân chủ, cải thiện dân sinh và bảo vệ hoà bình thế giới. Về hình thức và phương pháp đấu tranh, những khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp, công khai và nửa công khai được triệt để lợi dụng để đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tổ chức, giáo dục quần chúng và mở rộng phong trào đấu tranh của quần chúng. 2) Mặt trận dân chủ đông dương và phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ: Tháng 7 năm 1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp ở thượng Hải (Trung Quốc) do đồng chí Lê Hồng Phong chủ trì. Hội nghị nhận định: Nhiệm vụ cơ bản của Cách Mạng tư sản dân quyền (chống đế quốc chống phong kiến để dành độc lập cho dân tộc và ruộng đâts cho nông dân) không hề thay đổi, nhưng chưa phải là nhiệm vụ trực tiếp trong lúc này. Yêu cầu cấp thiết trước mắt của quần chúng nhân dân lúc này là tự do, dân chủ, cải thiện đời sống. Do đó, Đảng phải lãnh đạo thành lập Mặt trận Dân chủ rộng rãi, bao gồm các giai cấp, các tôn giáo, các đảng phái, các đoàn thể chính trị…tập trung chống kẻ thù cụ thể, trực tiếp trước mắt là chủ nghĩa phát xít và bọn phản động thuộc địa để bảo vệ hoà bình, đòi thực hiện dân chủ, tự do, cải thiện đời sống cho nhân dân. Một phong trào đấu tranh của quần chúng dưới các hình thức bãi công, bãi khoá, mít tinh, biểu tình nổ ra mạnh mẽ nhất là ở các thành phố, khu mỏ, và đồn điền cao su (Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, Hòn Gai). Đặc biệt là phong trào công nhân với cuộc tổng bãi công của công nhân công ti than Hòn Gai tháng 11-1936 và cuộc tổng bãi công của công nhân xe lửa Trường Thi tháng 7-1937, được công nhân xe lủa miền Nam Đông Dương phối hợp. Trên cơ sở ngày 1-5-1938 tại quảng trường nhà Đấu Xảo-Hà Nội đã diễn ra cuộc mít tinh khổng lồ của 2 vạn rưỡi người, hô vang các khẩu hiệu đòi tự do lập hội ái hữu, nghiệp đoàn, đòi thi hành triệt để luật lao động, đòi giảm thuế, chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, ủng hộ hoà bình tự do dân tộc. 3) Kết quả và ý nghĩa của phong trào: Cao trào dân chủ 1936-1939 thực sự là một cao trào cách mạng dân tộc, dân chủ rộng lớn. Trong khi lãnh đạo phong trào quần chúng, trình độ chính trị và công tác của cán bộ và đảng viên đã được nâng cao một cách rõ rệt. Uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng và ăn sâu vào trong nhân dân. Quan trọng hơn là tình hình chính trị lúc bấy giờ có thể hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp đã tạo điều kiện cho tư tưởng Mác-Lênin cũng như đường lối chính sách của Đảng và của Quốc tế cộng sản được phổ biến, tuyên truyền và giáo dục sâu rộng. Các sách báo của Đảng và của Mặt trận dân chủ đã có tác dụnglớn trong việc động viên giáo dục, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh, đồng thời đập tan những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc và những hành động phá hoại của bè lũ phản động các loại, làm cho chúng càng bị cô lập. Trong hoàn cảnh đó, tổ chức của Đảng được củng cố và phát triển. Qua phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, đội quân chính trị quần chúng gồm hàng triệu người ở thành thị và nôn thôn được Đảng tập hợp, xây dựng, giáo dục, đồng thời cũng bồi dưỡng được một đội ngũ cán bộ cách mạng đông đảo, dày dạn trong đấu tranh, có nhiều kinh nghiệm. Bởi vậy cao trào dân chủ 1936-1939 là một cuộc diễn tập thứ hai chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám 1945. III- cao trào giải phóng dân tộc (1939-1945) 1) Hoàn cảnh lịch sử: Tháng 9-1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. ở châu Âu quân đội phát xít Đức kéo vào nước Pháp, bọ tư bản phản động Pháp hoàn toàn đầu hàng làm tay sai cho chúng (6-1940). ở Viễn Đông, quân Nhật cũng đẩy mạnh xâm lược Trung Quốc và cho quân tiến sát vào biên giới Việt Trung. ở Đông Dương, bọn thực dân Pháp cũng thi hành chính sách thống trị thời chiến tranh. Chúng khủng bố phong trào dân chủ, ban bố lệnh tổng động viên, ra sức bắt người, vét của để cung cấp cho chiến tranh. Bộ mặt phản động của đế quốc và tay sai phong kiến bộc lộ ngày càng rõ ràng. Đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân ngày càng khó khăn, khốn đốn. Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc và ngày càng gay gắt, trở thành mâu thuẫn chủ yếu, đòi hỏi phải được tập trung giải quyết. 2) Đường lối chủ trương của Đảng và phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng: Ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng Cộng sản Đông Dương đã cảnh cáo bọn thực dân Pháp về nguy cơ xâm lược của phát xít Nhật, đòi chúng mở rộng các quyền tự do, dân chủ, cải thiện đời sống cho nhân dân và cùng nhân dân Đông Dương chống Nhật. Ban chấp hành Trung ương Đảng đã họp hội nghị lần thứ VI (11-1939). Hội nghị Trung ương lần VI đã đánh dấu sự chuyển hướng đúng đắn về chỉ đạo chiến lược cách mạng, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất, mở đường đi tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945. Ngày 22-9-1940, quân Nhật đánh vào Lạng Sơn. Quân đội Pháp trên đường thua chạy đã rút qua châu Bắc Sơn. Thừa cơ hội đó, nhân dân Bắc Sơn đã nổi dậy tước khí giới của tàn quân Pháp để tự võ trang cho mình, giải tán chính quyền địch và thành lập chính quyền cách mạng. Sau đó, Nhật đã thoả hiệp để cho Pháp quay lại đàn áp, dồn dân, bắt giết cán bộ, đốt phá nhà cửa, cướp đoạt tàn sát của nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của đảng bộ địa phương, nhân dân đã đấu tranh quyết liệt chống khủng bố, tổ chức các toán vũ trang đi lùng bắt và trừng trị bọn tay sai khủng bố. Một uỷ ban chỉ huy được thành lập để phụ trách các mặt công tác cách mạng. đội du kích Bắc Sơn từ đó được thành lập và lớn mạnh dần lên, sang năm 1941 thì hợp với quân khởi nghĩa Võ Nhai, Tràng Xá (Thái Nguyên) để thành lập đội quân du kích đầu tiên đánh Pháp, đuổi Nhật trong thời kỳ Việt Minh sau này. Ngày 23-11-1940 cuộc khởi nghĩa nổ ra ở hầu hết các tỉnh Nam Kì. Nghĩa quân triệt hạ nhiều đồn bốt địch, phá nhiều đường giao thông, thành lập chính quyền nhân dân và toà án cách mạng ở nhiều vùng trong các tỉnh Mĩ Tho, Gia Định, Bạc Liêu. Trong cuộc khởi nghĩa lá cờ đỏ sao vàng đã lần đầu tiên xuất hiện. Thực dân Pháp và tay sai đàn áp cuộc khởi nghĩa một cách vô cùng tàn khốc. Một số cán bộ ưu tú của Đảng cộng sản Đông Dương bị bắt từ trước cuộc khởi nghĩa bị chúng đưa ra xử bắn. Cơ sở đảng bị tổn thất nặng, nhưng một số cán bộ và nghĩa quân đã kịp thời rút vào rừng và chấn chỉnh đội ngũ để chờ cơ hội hoạt động trở lại. Phong trào cách mạng dâng cao đã ảnh hưởng đến tinh thần giác ngộ của binh lính người Việt trong quân đội Pháp. Tại Nghệ An, binh lính người Việt hết sức bất bình vì bị bắt sang Lào làm bia đỡ đạn cho Pháp chống Thai Lan. Ngày 13-1-1941, dưới sự chỉ huy của Đội Cung binh lính đồn chợ Rạng đã nổi rậy. Tối hôm đó, họ đánh chiếm đồn Đô Lương, rồi kéo lên ô tô về Vinh định phối hợp với số binh lính ở đây giết giặc chiếm thành. Nhưng kế hoạch không thực hiện được, Đội Cung bị Pháp bắt và bị xử tử. Cuộc binh biến Đô Lương là một hành động yêu nước của binh lính người Việt trong quân đội Pháp. 3) Mặt trận việt minh ra đời và lãnh đạo cuộc đấu tranh: Cuộc chiến tranh thế giới đã bước sang năm thứ ba. Sau khi lần lượt đánh bại các nước đế quốc Pháp, Bỉ, Hà Lan và chiếm phần lớn lục địa châu Âu, tháng 6-1941, phát xít Đức mở cuộc tấn công Liên Xô. cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô bắt đầu. Trên thế giới đã hình thành hai trận tuyến: một bên là các lực lượng dân chủ do Liên Xô đứng đầu và một bên là khối phát xít Đức, Italia, Nhật. Ngay từ đầu, cuộc đấu tranh của nhân dân ta là một bộ phận cuộc đấu tranh của các lực lượng dân chủ. Trước tình hình thế giới và trong nước ngày càng khẩn cấp, ngày (28-1-1941), lãnh tụ Nguyễn ái Quốc về nước triệu tập hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8. Hội nghị nêu rõ ở Việt Nam lúc này mâu thuẫn đòi hỏi phải giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc phát xít Pháp-Nhật. Từ đó, hội nghị chủ chương trước hết phải làm sao giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương ra khỏ ách Pháp- Nhật. Hội nghị Trung ương lần 8 có một tầm quan trọng đặc biệt. Nó hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược cách mạng đã đề ra từ hội nghị Trung ương 6 (11-1931). Nó đã có tác dụng quyết định trong vận động toàn dân ta tích cực chuẩn bị tiến tới Cách Mạng tháng Tám. Mặt trận Việt Minh chính thức thành lập (19-5-1941), chỉ sau một thời gian ngắn đã có uy lực và ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân. sau hội nghị trung ương, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đã ngửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đoàn kết thống nhất đánh đuổi Pháp –

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLSD0004.DOC
Tài liệu liên quan