Từ năm 1976 đến tháng 5/1988 là giai đoạn không có lạm phát theo quan niệm chính thống của các nước xã hội chủ nghĩa nói chung và Việt Nam nói riêng. Phần lớn khoảng thời gian này (1976 - 1986) lạm phát vẫn âm ỷ, như chờ cơ hội để bùng phát vào thời kỳ sau (1986 - 1988).
Xuyên suốt thời kỳ này, lạm phát phi mã diễn ra với mức tăng bình quân của giá cả là 52%/ năm [14]. Sức mua của đồng Việt Nam giảm; chi phí sản xuất và lưu thông liên tục tăng cao do quản lý kém và điều kiện sản xuất đã thay đổi; cung cầu mất cân đối nghiêm trọng và trong xã hội xảy ra tình trạng khan hiếm hàng hoá, dịch vụ. Đó là những biểu hiện của lạm phát không thể phủ nhận trong nền kinh tế .
Lạm phát thời kỳ này có đặc điểm là tăng liên tục và tốc độ lạm phát ở cao nhất vào năm cuối cùng của thời kỳ (1985) (xem phụ lục, bảng 1). Lạm phát chưa được chính thức thừa nhận mà lại quy vào xử lý ở các mặt "giá - lương - tiền" thông qua việc bù giá vào lương, đổi tiền vào năm 1985. Chính quan điểm này đã kéo theo một đặc điểm khác là lạm phát trong giai đoạn này ở dạng tiềm ẩn. Trong nền kinh tế, người ta không chính thức thừa nhận lạm phát để có biện pháp ứng phó cho đến tận tháng 6/1980.
Lạm phát như trên bắt nguồn từ một nền kinh tế thấp kém, lạc hậu, phụ thuộc nhiều vào bên ngoài trong điều kiện Nhà nước thống trị mọi lĩnh vực thông qua cơ chế quan liêu, bao cấp, mệnh lệnh hành chính nặng nề. Cụ thể, lạm phát xảy ra do 4 nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, chế độ độc quyền nhà nước, cơ chế quản lý kinh tế quan liêu bao cấp là nguyên nhân cơ bản nhất gây ra lạm phát. Nhà nước đã hợp nhất các xí nghiệp trong mỗi ngành thành liên hiệp hay tổ chức độc quyền làm cho giá cả tăng cao. Việc tiến hành bao cấp hàng hoá, không tính đến nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng dẫn tới sự khan hiếm hàng hoá, dịch vụ. Đặc biệt nền kinh tế lúc đó có tới hai hệ thống giá (giá chính thức do Nhà nước quy định và giá trên thị trường tự do) với nỗ lực ổn định và phấn đấu hạ giá hàng hoá khiến cho giá cả - một đòn bẩy kinh tế quan trọng - bị "đông cứng".
Thứ hai, nền kinh tế dựa chủ yếu vào khu vực quốc doanh làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả. Kinh tế nhà nước chiếm gần 90% vốn cố định, 95% lượng lao động lành nghề nhưng chỉ tạo ra gần 40% tổng sản phẩm xã hội [25]. Nhà nước thực hiện bao cấp vốn qua các kênh phân phối theo ngành dọc, không gắn với trách nhiệm sử dụng vốn nên tình trạng móc nối tham nhũng dẫn đến làm ăn thua lỗ rất phổ biến trong các doanh nghiệp quốc doanh. Vốn ngân sách cấp ra thì nhiều, thu về thì ít nên Nhà nước luôn phải bù lỗ. Có năm, 1/3 ngân sách là dùng vào bù giá và bù lỗ. Để tài trợ cho bội chi ngân sách, Nhà nước buộc phải phát hành tiền và lạm phát cao xảy ra.
Thứ ba, nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào bên ngoài, cơ cấu đầu tư bất cập góp phần làm cho lạm phát tăng cao. Chính sách đóng cửa về kinh tế cùng với sự bao vây cấm vận của Mỹ đã ngăn cản các nước phương Tây đầu tư, buôn bán với Việt Nam khiến nước ta bị thiếu vốn sản xuất và do đó, càng khan hiếm hàng hoá. Hơn nữa, sự thấp kém của chính nền kinh tế làm cho sản xuất yếu kém, phải nhập khẩu nhiều. Nhà nước ưu tiên phát triển công nghiệp nặng mà việc thu hồi vốn của các dự án đầu tư như vậy rất chậm chạp, hoặc Nhà nước rót vốn vào nông nghiệp - ngành cho hiệu quả không cao. Kết quả là, ngân sách thâm hụt trầm trọng (mức bội chi ngân sách năm 1981 bằng 1757,02% so với năm 1976; và con số này vào năm 1985 là 181,64% so với năm 1981 [6], và biện pháp phát hành tiền dường như là lựa chọn duy nhất. Đồng tiền mất giá nhiều; nền kinh tế rơi vào lạm phát phi mã.
20 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1751 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Tiểu luận Các giai đoạn lạm phát ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÁC GIAI ĐOẠN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
1. Giai đoạn trước tháng 5/1988
Từ năm 1976 đến tháng 5/1988 là giai đoạn không có lạm phát theo quan niệm chính thống của các nước xã hội chủ nghĩa nói chung và Việt Nam nói riêng. Phần lớn khoảng thời gian này (1976 - 1986) lạm phát vẫn âm ỷ, như chờ cơ hội để bùng phát vào thời kỳ sau (1986 - 1988).
Xuyên suốt thời kỳ này, lạm phát phi mã diễn ra với mức tăng bình quân của giá cả là 52%/ năm [14]. Sức mua của đồng Việt Nam giảm; chi phí sản xuất và lưu thông liên tục tăng cao do quản lý kém và điều kiện sản xuất đã thay đổi; cung cầu mất cân đối nghiêm trọng và trong xã hội xảy ra tình trạng khan hiếm hàng hoá, dịch vụ. Đó là những biểu hiện của lạm phát không thể phủ nhận trong nền kinh tế .
Lạm phát thời kỳ này có đặc điểm là tăng liên tục và tốc độ lạm phát ở cao nhất vào năm cuối cùng của thời kỳ (1985) (xem phụ lục, bảng 1). Lạm phát chưa được chính thức thừa nhận mà lại quy vào xử lý ở các mặt "giá - lương - tiền" thông qua việc bù giá vào lương, đổi tiền vào năm 1985. Chính quan điểm này đã kéo theo một đặc điểm khác là lạm phát trong giai đoạn này ở dạng tiềm ẩn. Trong nền kinh tế, người ta không chính thức thừa nhận lạm phát để có biện pháp ứng phó cho đến tận tháng 6/1980.
Lạm phát như trên bắt nguồn từ một nền kinh tế thấp kém, lạc hậu, phụ thuộc nhiều vào bên ngoài trong điều kiện Nhà nước thống trị mọi lĩnh vực thông qua cơ chế quan liêu, bao cấp, mệnh lệnh hành chính nặng nề. Cụ thể, lạm phát xảy ra do 4 nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, chế độ độc quyền nhà nước, cơ chế quản lý kinh tế quan liêu bao cấp là nguyên nhân cơ bản nhất gây ra lạm phát. Nhà nước đã hợp nhất các xí nghiệp trong mỗi ngành thành liên hiệp hay tổ chức độc quyền làm cho giá cả tăng cao. Việc tiến hành bao cấp hàng hoá, không tính đến nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng dẫn tới sự khan hiếm hàng hoá, dịch vụ. Đặc biệt nền kinh tế lúc đó có tới hai hệ thống giá (giá chính thức do Nhà nước quy định và giá trên thị trường tự do) với nỗ lực ổn định và phấn đấu hạ giá hàng hoá khiến cho giá cả - một đòn bẩy kinh tế quan trọng - bị "đông cứng".
Thứ hai, nền kinh tế dựa chủ yếu vào khu vực quốc doanh làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả. Kinh tế nhà nước chiếm gần 90% vốn cố định, 95% lượng lao động lành nghề nhưng chỉ tạo ra gần 40% tổng sản phẩm xã hội [25]. Nhà nước thực hiện bao cấp vốn qua các kênh phân phối theo ngành dọc, không gắn với trách nhiệm sử dụng vốn nên tình trạng móc nối tham nhũng dẫn đến làm ăn thua lỗ rất phổ biến trong các doanh nghiệp quốc doanh. Vốn ngân sách cấp ra thì nhiều, thu về thì ít nên Nhà nước luôn phải bù lỗ. Có năm, 1/3 ngân sách là dùng vào bù giá và bù lỗ. Để tài trợ cho bội chi ngân sách, Nhà nước buộc phải phát hành tiền và lạm phát cao xảy ra.
Thứ ba, nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào bên ngoài, cơ cấu đầu tư bất cập góp phần làm cho lạm phát tăng cao. Chính sách đóng cửa về kinh tế cùng với sự bao vây cấm vận của Mỹ đã ngăn cản các nước phương Tây đầu tư, buôn bán với Việt Nam khiến nước ta bị thiếu vốn sản xuất và do đó, càng khan hiếm hàng hoá. Hơn nữa, sự thấp kém của chính nền kinh tế làm cho sản xuất yếu kém, phải nhập khẩu nhiều. Nhà nước ưu tiên phát triển công nghiệp nặng mà việc thu hồi vốn của các dự án đầu tư như vậy rất chậm chạp, hoặc Nhà nước rót vốn vào nông nghiệp - ngành cho hiệu quả không cao. Kết quả là, ngân sách thâm hụt trầm trọng (mức bội chi ngân sách năm 1981 bằng 1757,02% so với năm 1976; và con số này vào năm 1985 là 181,64% so với năm 1981 [6], và biện pháp phát hành tiền dường như là lựa chọn duy nhất. Đồng tiền mất giá nhiều; nền kinh tế rơi vào lạm phát phi mã.
Thứ tư, các chính sách kinh tế sai lầm làm cho lạm phát ngày càng trầm trọng. Tuy tư duy kinh tế ở nước ta lúc đó đã có sự đổi mới, được đánh dấu bằng sự ra đời của Nghị quyết 26 (23/6/1980) về giải quyết vấn đề phân phối lưu thông (trọng tâm là điều chỉnh giá cả) nhưng ngay trong chủ trương này cũng chứa đựng những mâu thuẫn. Nghị quyết này đã đánh giá được những bất cập trong hệ thống giá gây cản trở cho phát triển sản xuất, lưu thông và đưa ra yêu cầu tiến hành điều chỉnh giá, tiến tới cải cách toàn bộ hệ thống giá Nhà nước rồi từ đó cải cách hệ thống tiền lương xơ cứng theo hướng vận dụng đầy đủ hơn nguyên tắc phân phối theo lao động. Song, Nghị quyết chưa dứt khoát thừa nhận mô hình và cơ chế kinh tế lúc đó đã lỗi thời: chỉ điều chỉnh những giá bán lẻ đã quá bất hợp lý chứ không thay đổi cả cơ chế giá; chủ trương ổn định đời sống trong hai năm trong khi sản xuất đang sa sút nặng nề. Sự thiếu đồng bộ và duy ý chí trong chính sách này dẫn đến lạm phát càng cao trong các năm từ 1982 đến 1985. Cuộc tổng điều chỉnh giá lần thứ hai được tiến hành với sự ra đời Nghị quyết 8 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (năm 1985) về cải cách giá - lương - tiền. Song, sai lầm lớn nhất của cả hai cuộc tổng điều chỉnh giá là Nhà nước đã không có chính sách chống lạm phát thông qua khống chế bội chi ngân sách và kiểm soát hệ thống tiền tệ tín dụng. Chính cải cách giá đã đẩy lạm phát tăng vọt trong thời kì 1986 - 1988.
Trong ba năm 1986, 1987, 1988, siêu lạm phát hoành hành ở nước ta với tốc độ tăng mức giá ba con số. Đỉnh cao của lạm phát kể từ năm 1954 đến nay xảy ra vào năm 1986. Giá bình quân năm 1986 bằng 570% so với năm 1985 [26]. Ảnh hưởng của lạm phát bao trùm lên mọi lĩnh vực, từ sản xuất, tiêu dùng, tài chính, tín dụng, đời sống nhân dân, đe doạ sự ổn định về mặt chính trị của đất nước.
Thực trạng kinh tế như vậy là hậu quả tổng hợp của nhiều nhân tố mà trước hết là do bội chi ngân sách tăng vọt. Năm 1985, bội chi cao nhất so với cả chục năm trước đó; mức bội chi ngân sách năm 1986 còn cao gấp hai lần năm 1985; năm 1987 gấp 22,2 lần năm 1984 và gấp 12 lần năm 1985. Điều này là do Nhà nước luôn phải bù lỗ, bù giá cho khu vực kinh tế quốc doanh cũng như chi cho nhập khẩu phục vụ đời sống. Số bù lỗ từ ngân sách trong hai năm 1987, 1988 lên tới 100 tỷ đồng [6]. Nền kinh tế rơi vào vòng xoáy: thâm hụt - phát hành tiền - lạm phát .
Một nguyên nhân khác là nhu cầu có khả năng thanh toán tăng nhanh tới hàng trăm phần trăm mỗi năm trong khi tổng quỹ hàng hoá xã hội (bao gồm sản xuất trong nước và nhập khẩu, ở đây chưa trừ đi xuất khẩu) chỉ tăng có vài phần trăm một năm. Hàng hoá trước đây vốn đã khan hiếm thì nay lại càng khan hiếm hơn do tâm lý lo sợ, đề phòng những diễn biến bất thường của lạm phát khiến mọi người cố gắng "ném" tiền vào lưu thông, tránh sự mất giá của tiền và tích trữ hàng hoá. Quan hệ tiền - hàng càng trở nên mất cân đối hơn, đẩy mức giá lên cao.
Cũng tương tự như thời kỳ trước, siêu lạm phát từ 1986 đến 1988 còn là hệ quả của chính sách kinh tế sai lầm. Các cuộc cải cách giá cả năm 1981 - 1982, năm 1985 nhằm mục tiêu xóa bỏ bao cấp nhưng ngay từ tư duy về cách tiến hành đã phạm sai lầm: xoá bỏ bao cấp được tiến hành bằng các biện pháp hành chính, quan liêu. Tháng 9/1985, Nhà nước nâng giá trị danh nghĩa của tiền lên 10 lần bằng cách thu hồi tiền cũ, phát hành tiền mới. Trong vòng ba năm (từ tháng 1/1986 đến tháng 12/1988), lượng tiền giấy tăng lên 96,07 lần, chỉ số giá tiêu dùng tăng hơn 100 lần, giá cả tăng liên tục [14]. Sự leo thang của giá cả làm cho tình trạng đầu cơ tích trữ hàng hóa càng phổ biến, hàng hóa rất khan hiếm trên thị trường, cung càng thiếu hụt vì tiền thu được từ việc bán các sản phẩm đầu ra không đủ để mua đầu vào tiếp theo do giá tăng quá nhanh. Vào tháng 6/1987, Nhà nước công bố giá kinh doanh thương nghiệp ổn định trong từng khoảng thời gian và là mức giá giới hạn cho các mặt hàng quan trọng lưu thông trong cả nước. Đây là giá cả "phi thị trường" gây kìm hãm sản xuất. Hơn nữa, việc nâng giá đầu vào lên 8,3 lần vào năm 1987 và 4,6 lần vào năm 1988 được thực hiện với mức độ lớn, trong thời gian ngắn từ 2 đến 3 tháng [6] càng đẩy giá đầu ra trên thị trường lên cao, khiến lạm phát trầm trọng hơn.
Thời kỳ 1986-1988 là khoảng thời gian mà lạm phát đã tăng vọt đến mức ba con số nhưng vẫn chưa được thừa nhận thực sự và Chính phủ chưa đưa ra biện pháp gì để “kìm chân con ngựa bất kham”. Những cải cách liên quan đến giá, lương, tiền không nhằm mục tiêu điều trị “căn bệnh" lạm phát nên nó ngày càng nguy hiểm đối với nền kinh tế lúc đó. Kinh tế rơi vào suy thoái với tốc độ tăng trưởng năm 1986 chỉ là 0,3% [24].
2. Giai đoạn lạm phát chính thức được thừa nhận ở Việt Nam (từ tháng 5/1988 đến 1990)
Sự ra đời Nghị quyết số 11 của Uỷ ban Trung Ương Đảng cộng sản Việt Nam về đấu tranh với lạm phát chứng tỏ đến đây lạm phát đã được chính thức thừa nhận ở nước ta. Từ đó, Nhà nước mới có các biện pháp để đối phó với thực tế lạm phát dai dẳng và đầy tai hại cho đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Nhờ đó, chúng ta bước đầu được chứng kiến những thành quả trong sự nghiệp đấu tranh chống lạm phát. Nếu như tỷ lệ lạm phát ở mức đỉnh điểm 774% vào năm 1986 thì đến năm 1990 đã giảm xuống còn 67,4%. Kinh tế bắt đầu tăng trưởng khá với tốc độ tăng GDP năm 1988, 1989, 1990 lần lượt là 6,0%, 4,7% và 5,1% [15]. Tuy con số đó còn cao nhưng đây được coi là một thành công đáng kể của Đảng và Nhà nước ta khi nền kinh tế còn vô vàn khó khăn và trong tương quan so sánh với giai đoạn trước.
Chúng ta đạt được kết quả như vậy là do công cuộc đổi mới gần như toàn bộ cơ chế kinh tế, chuyển mạnh và khá đồng bộ sang cơ chế thị trường, bao gồm một loạt các biện pháp bước đầu mang tính đồng bộ và tuân theo quy luật thị trường. Nếu như trước đây người ta không quan tâm đến lạm phát khi tiến hành cải cách giá thì nay chống lạm phát cao và kiềm chế lạm phát trở thành mục tiêu của cải cách giá. Hơn thế nữa, các chính sách để đưa lạm phát vào tầm kiểm soát là phương tiện để cải cách giá đạt được thành công.
Điểm đặc biệt cần nhấn mạnh trong các giải pháp chống lạm phát là vào giai đoạn 1988 - đầu 1989 nước ta có chính sách tài chính quốc gia tiến bộ hơn hẳn so với giai đoạn trước để điều tiết cầu với liều lượng mạnh, làm giảm hẳn lạm phát. Lãi suất tiết kiệm được nâng lên cao hơn tỷ lên trượt giá (hay lãi suất thực dương). Tỷ lệ lạm phát bình quân trong năm 1989 là 2,45%/tháng trong khi lãi suất gửi tiết kiệm kỳ hạn 3 tháng là 10%/ tháng [6] nên lượng tiền gửi vào ngân hàng tăng mạnh làm giảm cầu trên thị trường. Nhờ đó, nhà nước hạn chế được việc phát hành thêm tiền giấy mà vẫn có thể khắc phục tình trạng bội chi ngân sách. Lượng tiền tiết kiệm, hệ thống ngân hàng thu hút về được đầu tư vào sản xuất, nhập khẩu thêm hàng hoá nhờ đó mà quan hệ cung cầu trên thị trường bớt căng thẳng hơn. Chính việc nâng lãi suất tiền vay và tiền gửi của các tổ chức kinh tế quốc doanh lên cao là biểu hiện rõ nét của công tác chống bao cấp vốn (trợ cấp thông qua lãi suất tín dụng thấp). Từ đây, các doanh nghiệp không thể vay vốn vì những mục đích trục lợi riêng tư, mà phải có kế hoạch bảo tồn và phát triển nó sao cho trả được khoản vay khi đến hạn. Do đó, hiệu quả sử dụng vốn được nâng lên rõ rệt.
Chính sách lớn thứ hai được sử dụng để kiềm chế lạm phát là nhấn mạnh sản xuất nhập khẩu nhằm làm tăng cung hàng hóa cho xã hội. Để đạt mục tiêu đó, nhà nước đã khuyến khích sự phát triển của kinh tế tư nhân, giao quyền sử dụng vốn và gắn trách nhiệm bảo toàn, phát triển vốn cho các doanh nghiệp quốc doanh. Thế độc quyền của khu vực kinh tế nhà nước từng bước bị phá vỡ, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng hơn, thúc đẩy tất cả các thành phần kinh tế tham gia một cách hiệu quả vào sản xuất, kinh doanh, tạo ra nhiều hàng hoá, dịch vụ. Nhà nước còn đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, nhất là nhập khẩu các hàng tiêu dùng, máy móc, vật tư khan hiếm phục vụ cho sản xuất. Nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu trước đây là 200 - 300 triệu USD/năm thì đến 1990 cần phải có gấp 3-5 lần số đó [6].
Ngoài các “liệu pháp” trên, điểm tiến bộ rõ rệt trong chính sách giá cả là chuyển giá nhà nước quy định sang giá cả thị trường. Điều này phản ánh sự tuân thủ quy luật giá trị và một khi vẻ đẹp của quy luật giá trị được tôn trọng thì tự nó sẽ thúc đẩy sản xuất và lưu chuyển hàng hoá trong xã hội. Chính phủ chỉ điều tiết gián tiếp giá cả của một số mặt hàng thiết yếu như gạo, vàng bằng cách khi cần thiết thì mua vào và bán ra nhằm điều tiết cung cầu thị trường. Một động thái nữa thực hiện nhận thức đúng đắn hơn về vai trò của quy luật giá trị là việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái cho sát hơn với tỷ giá của thị trường tự do. Nhà nước đã chọn mức giá và tỷ giá giữa đồng Việt Nam và hai loại ngoại tệ tiêu biểu cho hai khu vực thị trường thế giới là đồng Rúp mậu dịch và đô-la Mỹ để xác định giá trị còn lại của tài sản cố định trong các doanh nghiệp quốc doanh. Chúng ta đã đưa được mức giá những nguyên - nhiên - vật liệu quan trọng nhất lên xấp xỉ giá thị trường khu vực II (các nước không thuộc cộng đồng tương trợ kinh tế SEV) giúp nước ta từng bước hoà nhập thị trường thế giới. Do đó, tình trạng lãi giả lỗ thật của các doanh nghiệp dần bị xoá bỏ, giúp cho việc điều hoà cung cầu, giảm lạm phát. Tuy nhiên, điểm mới trong cách điều chỉnh giá lần này là điều chỉnh từ từ để người tiêu dùng và các doanh nghiệp không bị “sốc”, tránh những phản ứng do tâm lý có thể tạo ra cầu giả tạo.
Những cải cách toàn diện nền kinh tế theo hướng thị trường, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, chính sách mở cửa nền kinh tế như chúng ta vừa xét cùng với chính sách khoán đến hộ nông dân đã làm giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất lao động, tạo ra nhiều hàng hoá cho xã hội, khắc phục dần sự mất cân đối cung - cầu, tiền - hàng. Sau 18 tháng duy trì được tốc độ lạm phát tương đối thấp (trên 2%/tháng), đến cuối năm 1990, đầu năm 1991, lạm phát có xu hướng tăng trở lại: Mức giá vào tháng 1/1991 tăng thêm 14,3% so với tháng 12/1990 [6]. Từ đây, công cuộc chống lạm phát ở nước ta lại bước vào một giai đoạn mới.
3. Giai đoạn vấn đề chống lạm phát được đưa lên hàng đầu (từ 1991 đến 1998)
3.1. Thực trạng và nguyên nhân của lạm phát
Sau khi áp dụng những biện pháp đồng bộ, siêu lạm phát ở nước ta đã bị đẩy lùi mà mốc đánh dấu là tỷ lệ lạm phát năm 1989 giảm xuống còn 34,7%. Sau đó, tỷ lệ lạm phát bắt đầu tăng lên từ năm 1991. Chúng ta hãy xem xét tình hình lạm phát từ năm 1991 đến năm 1998 qua biểu đồ sau:
6.0%
8.6%
8.1%
8.8%
9.5%
9.3%
8.8%
4.5%
67.50%
17.50%
5.20%
9.30%
16.80%
5.60%
3.20%
9.20%
0.0%
10.0%
20.0%
30.0%
40.0%
50.0%
60.0%
70.0%
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
GDP
tỷ lê lạm phát
HÌNH 6: TÌNH HÌNH LẠM PHÁT TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 1998
(Nguồn: [37], [15].)
Nhìn vào biểu đồ trên, dễ dàng nhận thấy là lạm phát diễn biến không ổn định từ năm 1991 đến năm 1998. Vào năm 1991, lạm phát phi mã hoành hành với tỷ lệ tương ứng là 67,1% và 67,5 %. Vào năm 1993, 1996 và 1997, tỷ lệ lạm phát xuống thấp ở mức trên dưới 5%/ năm. Các năm khác trong giai đoạn này, lạm phát dao động ở mức trên dưới 10%/năm. Tuy nhiên, từ năm 1990 đến năm 1997, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khá cao so với các năm trước, GDP tăng từ khoảng 6%/năm đến trên 9%/năm. Phải chăng lạm phát cao trở lại do nền kinh tế tăng trưởng nóng?
Đối chiếu với các tín hiệu về một nền kinh tế chuyển sang trạng thái nóng (xem chương I, mục 2.2) chúng ta thấy Việt Nam chưa đạt đến trạng thái toàn dụng nhân công. Tuy sản xuất tăng mạnh nhưng nguồn tài nguyên khá phong phú (nhất là các nguyên vật liệu thô) vẫn được đáp ứng đủ yêu cầu của sản xuất, nguồn lao động dồi dào vẫn được cung cấp thường xuyên cho các ngành. Tỷ lệ thất nghiệp còn ở mức cao (khoảng gần 10%/ năm) chứ chưa giảm xuống bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên của một nền kinh tế. Lương lao động (lao động giản đơn là chủ yếu) vẫn thấp; nếu trừ đi tỷ lệ lạm phát thì chi phí lao động cận biên không tăng nhiều lắm.
Một đặc điểm khác của một nền kinh tế nóng là lượng cầu có khả năng thanh toán của xã hội chưa được đáp ứng. 1990 - 1998 là giai đoạn đầu tư phát triển mạnh. Chủ trương phát triển kinh tế thị trường, thực hiện sản xuất phải “bung ra” đã kích thích cả nhà nước lẫn tư nhân đầu tư để đáp ứng nhu cầu lớn của thị trường sau thời kỳ bao cấp đầy khó khăn, thiếu thốn. Cầu đầu tư tăng mạnh cũng có nghĩa là cầu về các nguyên vật liệu, bán thành phẩm, các máy móc, trang thiết bị ở mức cao. Qua biểu đồ về đầu tư và tiết kiệm so với GDP (hình 7), ta thấy yêu cầu mở rộng đầu tư trong nước hàng năm đều vượt quá khả năng tích luỹ của nền kinh tế.
HÌNH 7: ĐẦU TƯ VÀ TIẾT KIỆM SO VỚI GDP VẪN THẤP
(Nguồn: [15])
Đặc biệt, từ năm 1993 đến 1996, đầu tư tăng trưởng rất mạnh mẽ với tỷ lệ gần bằng 30% GDP. Đầu tư của ngân sách Nhà nước tập trung chủ yếu vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng để phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế lâu dài. Các nguồn vốn đầu tư khác (không phải từ ngân sách) chủ yếu được rót vào các ngành có khả năng thu hồi vốn nhanh, có lợi nhuận cao như kinh doanh bất động sản (cho thuê văn phòng, khách sạn), vật tư xây dựng (xi măng, sắt thép...), du lịch. Do đó, cầu về các loại hàng hoá, dịch vụ này tăng vọt, gây nên những cơn sốt trong thập kỷ 90 của thế kỷ XX như sốt xi măng, sắt thép, đất đai. Sự tăng trưởng của đầu tư tạo ra thu nhập lớn hơn cho các tầng lớp trong xã hội khiến cho cầu các mặt hàng tiêu dùng như đường, mía, đồ điện, điện tử tăng mạnh. Hệ quả tiếp theo là các ngành sản xuất ra các sản phẩm này cũng phát triển mạnh. Yêu cầu mở rộng đầu tư đã thúc đẩy cung tín dụng tăng nhanh, buộc nhà nước phải phát hành thêm tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách. Trong năm 1990, 1991, tỷ trọng bù đắp từ nguồn phát hành so với thâm hụt Ngân sách chiếm tới 39,6% và 17,8 % [15]. Đây là nguyên nhân trực tiếp khiến tỷ lệ lạm phát khá cao vào hai năm đó. Điều tất yếu xảy ra là lãi suất tăng cao. Nhìn chung, từ năm 1991 đến 1998, lạm phát cao ở nước ta là do nền kinh tế có biểu hiện tăng trưởng nóng ở một số ngành như xây dựng, kinh doanh bất động sản, đường, phân bón, thuốc trừ sâu v.v... Nói như vậy không có nghĩa là hiện tượng này xảy ra vào mọi năm thuộc giai đoạn đó. Riêng các năm 1993, 1996 và 1997 lạm phát có diến biến tương đối khác. Tỷ lệ lạm phát trong các năm này lần lượt là 5,2%; 5,6% và 3,2% [37].
Tỷ lệ lạm phát năm 1993 thấp hơn hẳn so với các năm trước, đó là một thành công của Nhà nước ta trong đấu tranh chống lạm phát. Trong năm đó, kết quả của sự tăng trưởng đầu tư từ sau khi bắt đầu công cuộc đổi mới kinh tế (1986) đã được thể hiện. Lượng hàng hoá cung ứng ra khá lớn, đáp ứng được cầu của thị trường nên quan hệ cung cầu không còn căng thẳng như mấy năm trước. Ngoài ra, một nguyên nhân quan trọng nữa là vai trò điều hành vĩ mô nền kinh tế của Chính phủ (sẽ xét trong phần sau).
Trong hai năm 1996, 1997, giảm phát đã diễn ra. Giải thích cho điều này không chỉ căn cứ vào các chính sách của Nhà nước (sẽ xét sau) mà còn dựa trên đặc điểm phát triển của nền kinh tế ở thời kỳ đó. Đây là hai năm lương thực được mùa lớn nên giá gạo giảm liên tục: năm 1996 giảm 7 tháng liền [15], kéo theo chỉ số giá cả chung giảm xuống. Sau mấy năm nền kinh tế có biểu hiện tăng trưởng thì nay tốc độ tăng trưởng đã chững lại, cung có xu hướng vượt cầu. Vì thế, giá thành các sản phẩm hạ. Ngoài ra, còn phải kể đến tình trạng nhập khẩu lậu hàng nước ngoài (đồ điện tử, điện dân dụng, thực phẩm đóng hộp, bia, rượu, thuốc lá v.v...) xảy ra phổ biến càng làm tăng cung trong nền kinh tế. Hàng nhập lậu trốn thuế nên giá thấp hơn hẳn so với các sản phẩm sản xuất trong nước cũng kéo chỉ số giá chung xuống thấp.
3.2. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế vào giai đoạn 1991-1998
a. Tác động đến sản lượng
Quay trở lại với hình 11, chúng ta sẽ thấy rõ tác động của lạm phát đến sản lượng. Trong giai đoạn 1991-1998, năm 1991 là năm có tỷ lệ lạm phát cao nhất (67,5%) và là năm tốc độ tăng trưởng (6%) ở mức thấp hơn các năm khác. Như đã đề cập ở trên, tốc độ lạm phát ở giai đoạn này nhìn chung là cao nhưng vẫn nhỏ hơn 25% nên nền kinh tế vẫn giữ được mức tăng trưởng tích cực (từ 6% đến 9%/ năm) (dựa trên lý thuyết đã phân tích ở mục 4.3, c., chương I). Mức giá tăng lên hàng năm nhưng không quá đột ngột đã thúc đẩy đầu tư (lượng vốn đầu tư chiếm khoảng 30% GDP mỗi năm) và sản xuất, làm tăng sản lượng của nền kinh tế. Sự gia tăng sản lượng quá mức ở một số ngành đã đẫn đến tình trạng dư cung các mặt hàng như xi-măng, đường.
b. Tác động đến lãi suất
Do tốc độ lạm phát ở thời kỳ này khá cao nên các ngân hàng không thể giảm lãi suất huy động đi nhiều trong khi vẫn phải giảm lãi suất cho vay để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Lạm phát giảm mạnh từ năm 1991 đến 1993 (từ 67,5% xuống còn 5,2%) tạo điều kiện cho Ngân hàng Nhà nước có thể giảm lãi suất với mức độ mạnh hơn. Lãi suất tiền gửi không kỳ hạn giảm từ 25,2%/ năm vào tháng 7/1991 xuống còn 21,6%/ năm vào tháng 6/1992, rồi dần dần xuống mức 8,4%/ năm ở thời điểm tháng 10/1993 nhưng vẫn đảm bảo cao hơn tốc độ trượt giá. Sau đó, lạm phát lại tăng cao trở lại, tới mức 16,8% vào năm 1995 đã làm chậm quá trình cắt giảm lãi suất. Đến tháng 11/1995, lãi suất vẫn được giữ ở mức 8,4%/ năm. Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn cũng diễn biến tương tự. (Các mức lãi suất được tính toán từ số liệu ở phụ lục, bảng 5 và 6, bằng cách lấy lãi suất hàng tháng nhân với 12 tháng). Điều này phù hợp với lý thuyết về quan hệ giữa lạm phát và lãi suất được xét trong chương I. Tuy nhiên, cần phải nhận thức rõ rằng xu hướng biến động lãi suất thì tuân theo lý thuyết nhưng mức độ thay đổi cụ thể của lãi suất còn tuỳ thuộc vào mục tiêu của chính sách tiền tệ mà ngân hàng trung ương đưa ra. Lập luận này cùng với thực tế lạm phát chưa tới mức không kiểm soát được cho phép lý giải vì sao lãi suất cho vay nội tệ của các ngân hàng quốc doanh trong giai đoạn này lại giảm chứ không tăng để bù đắp tỷ lệ lạm phát. Hơn nữa, để đạt mục tiêu tăng trưởng đôi khi vẫn phải chấp nhận lạm phát cao trong tầm kiểm soát.
c. Tác động đến công ăn việc làm
Mức giá tăng trong giai đoạn 1991-1998 đã thúc đẩy đầu tư, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho xã hội. Bình quân mỗi năm, số người có việc làm tăng 2,2% [61]. Nhiều ngành công nghiệp tăng trưởng nóng (thực phẩm, đồ uống, đồ điện tử, điện dân dụng, sản phẩm lắp ráp) đã thu hút một lực lượng lao động tương đối lớn trong xã hội, kéo theo luồng di chuyển dân cư từ nông thôn ra thành thị để tìm kiếm việc làm. Vì thế, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị có xu hướng gia tăng: năm 1996 là 5,88% thì đến năm 1998 đã lên tới 6,85% [63], tức là tăng thêm gần 1%, dẫn đến vấn đề an ninh trật tự ngày càng thêm phức tạp, giá nhà đất mỗi lúc một leo thang ở các thành phố lớn.
d. Tác động đến cán cân thanh toán quốc tế
Tình hình lạm phát như trên làm cho đồng Việt Nam mất giá so với các ngoại tệ, nhất là USD. Tỷ giá giữa VND và USD tăng liên tục: năm 1990 chỉ dao động ở mức trên dưới 5000 VND/ USD thì đến năm 1998 đã lên tới gần 14000 VND/ USD. Đây là điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu và thực tế cũng cho thấy kim ngạch xuất khẩu tăng liên tục từ năm 1991 đến năm 1998. Lạm phát lại bất lợi cho hoạt động nhập khẩu và nó làm tăng kim ngạch nhập khẩu, dẫn tới tình trạng thâm hụt cán cân thương mại ngày càng trầm trọng (xem phụ lục, bảng 2). Tuy nhiên, cần nhớ rằng những biến đổi về cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế hay một số yếu tố khác không phải do nguyên nhân duy nhất là biến động lạm phát mà là kết quả tổng hợp của nhiều nguyên nhân. Trong chương II này, chúng ta đã và đang phân tích các yếu tố đầu ra của nền kinh tế để thấy được tác động của lạm phát như là một trong nhiều yếu tố đầu vào.
Ảnh hưởng tổng hợp của các thành phần trong cán cân thanh toán quốc tế (bao gồm: cán cân thương mại, chuyển nhượng ròng, cán cân tài khoản vốn, hạng mục tài trợ) dưới tác động của lạm phát đã làm giảm dần thâm hụt cán cân thanh toán của nước ta trong giai đoạn này. Tổng cán cân thanh toán đã chuyển biến tích cực: từ - 478 triệu USD (năm 1995) xuống - 288 triệu USD (năm 1996) và thặng dư 214 triệu USD vào năm 1997, tức là bằng khoảng 2% GDP. Mức thặng dư năm 1998 còn cao hơn, đạt 5% GDP [11].
3.3. Chính sách của Chính phủ
Những thành tựu lớn trong kiềm chế lạm phát giai đoạn 1991-1998 không chỉ đơn thuần nhờ sự vận động theo quy luật khách quan của chính nền kinh tế mà phần lớn là do bàn tay “chèo lái” tài tình của những người lãnh đạo đất nước với một loạt các chính sách tương đối linh hoạt và đồng bộ. Dưới đây, chúng ta sẽ đề cập đến những giải pháp cơ bản nhất về chống lạm phát trong giai đoạn này.
a. Tiếp tục cải cách giá và lương
Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1987, trang 221), Đảng đã chủ trương “từng bước lập lại cân đối giữa khối lượng hàng và khối lượng tiền tệ lưu thông để giải quyết khâu then chốt là giảm dần, đi tới chấm dứt lạm phát. Đó là cơ sở để giảm nhịp độ tăng giá, tiến tới ổn định giá cả và sức mua của đồng tiền...”. Nhờ đó, cùng với những kinh nghiệm rút ra qua cả chục năm tiến hành cải cách giá, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta kiên trì đổi mới, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, ở đó giá cả được xác định trên cơ sở cung cầu, có sự điều tiết của Nhà nước. Ngày 24/7/1992, Quyết định 137/HĐBT về quản lý giá đã được ban hành, cho phép các doanh nghiệp tự quyết định giá các hàng hoá, dịch vụ kinh doanh trên thị trường. Giờ đây, các biện pháp hành chính không còn là công cụ để Nhà nước
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1cac_giai_doan_lam_phat_o_viet_nam.doc