Vấn đềcơbản thứba trong triết học phê phán của Cantơlà vấn đềkhảnăng
phán đoán tổng hợp tiên nghiệm trong siêu hình học, tức là trong triết học tựbiện.
Đây cũng chính là vấn đềvềnăng lực biện chứng tiên nghiệm.
Luật tương phản ( antinomi)
Lý tính con người luôn khao khát vươn tới lĩnh vực vật tựnó để đạt tới tri
thức tuyệt đối. Song quá trình vươn tới tri thức đó luôn luôn nẩy sinh những mâu
thuẫn, những nghịch lý( antinomi).
Cantơkhẳng định có 4 antinomi cơbản của lý tính. Mỗi antinomi đuợc kết
cấu từ2 luận đề đối lập : Dĩnhiên, học thuyết antinomi của Cantơcó nhiều hạn
chế. Ông chỉthừa nhận mâu thuẫn trong tưtưởng của con người, chưa thấy mâu
thuẫn luôn luôn tồn tại trong thếgiới tựnhiên. Các atinomi đó chưa hoàn toàn là
những mâu thuẫn biện chứng, vì giữa các chính đềvà phản đềcủa chúng chưa có
sựthống nhất và chuyển hoá lẫnhau. Giải quyết mâu thuẫn cũng không phải chỉ
dừng lại ởviệc phân tích từng mặt đối lập rồi kết luận đúng sai nhưông đã làm.
Trên thực tế, quá trình nẩy sinh và giảquyết mâu thuẫn là động lực thúc đẩy sự
vật phát triển.
Tuy nhiên, học thuyết biện chứng tiên nghiệm bao hàm nhiều tưtưởng tích
cực. Ông thấy antinomi là bản chất của lý tính con nguời chứkhông phải những
lỗi lôgic thông thường. Cantơlà người đầu tiên tìm cách bao quat toàn bộnhững
nguyên lý tưduy đối lập nhau của thời đại trên quan niệm thống nhất, vạch ra
những vấn đềcòn bỏngỏtrong các vấn đềvềbản chất của tưduy. Hêghen đánh
giá rằng “ việc tìm ra các antinnomi cần đươc xem nhưmột thành tựu rất quan
trọng của nhận thức, bởi bằng việc đó.vận động biện chứng của tưduy đựơc đề
cao’’.
25 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1262 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tiểu luận Bài Lịch sử Triết học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhóm được sắp xếp theo trình
tự : chính đề – phản đề – hợp đề. Giữa 4 khối có mối liên hệ bên ngoài bên trong,
chiều hướng cách thức.
Cantơ cho đây là những phạm trù cơ bản để từ đó triển khai ra những phạm
trù mới, đáp ứng đòi hỏi của khoa học và hoạt động của con người. Bởi vì, Cantơ
viết : “ đối với tôi, điều quan trọng khong phảilà đưa ra một hệ thống đầy đủ các
phạm trù, mà chỉ là sự đầy đủ có tính nguyên lý của hệ thống”.
Nhưng các phạm trù mới chỉ đơn thuần lànhững hình thức của tư tưởng
chưa bao chứa một nội dung nào cả. Vì thế, để có nội dung và trở thành tri thức
các phạm trù phải được vận dụng vào kinh nghiệm cảm tính. Cantơ coi nhiệm vụ
cơ bản ở đây là dùng phép phán đoán tiên nghiệm các phạm trù, tức vận dụng
chúng vào kinh nghiệm quy tụ các tư liệu cảm tính đa dạng dưới sự thống nhất của
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu 17
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
khái niệm, và bằng cách khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy cảm và duy
lý trước đây.
Cantơ kết luận : Không một hình thức cảm tính trực giác nào, không một
phạm trù khoa học nào, thậm chí không một loại tri thức nào dù cao đến đâu, lại
có thể xác định được, với tới được thế giới khách quan. Giới tự nhiên với tư cách
là đối tượng của tri thức phổ biến và tất yếu từ phía các hình thức của tri thức
được xây dựng nên bằng chính tri thức của chúng ta. Chúng ta chỉ nhận thức thế
giới đó. Nhận thức của khoa học tự nhiên lý thuyết cũng chỉ nằm trong khuôn khổ
tri thức đó mà thôi.
3.1.5 Lý tính ( hay biện chứng tiên nghiệm ). Về khả năng của siêu hình học.
Vấn đề cơ bản thứ ba trong triết học phê phán của Cantơ là vấn đề khả năng
phán đoán tổng hợp tiên nghiệm trong siêu hình học, tức là trong triết học tự biện.
Đây cũng chính là vấn đề về năng lực biện chứng tiên nghiệm.
Luật tương phản ( antinomi)
Lý tính con người luôn khao khát vươn tới lĩnh vực vật tự nó để đạt tới tri
thức tuyệt đối. Song quá trình vươn tới tri thức đó luôn luôn nẩy sinh những mâu
thuẫn, những nghịch lý( antinomi).
Cantơ khẳng định có 4 antinomi cơ bản của lý tính. Mỗi antinomi đuợc kết
cấu từ 2 luận đề đối lập : Dĩ nhiên, học thuyết antinomi của Cantơ có nhiều hạn
chế. Ông chỉ thừa nhận mâu thuẫn trong tư tưởng của con người, chưa thấy mâu
thuẫn luôn luôn tồn tại trong thế giới tự nhiên. Các atinomi đó chưa hoàn toàn là
những mâu thuẫn biện chứng, vì giữa các chính đề và phản đề của chúng chưa có
sự thống nhất và chuyển hoá lẫ nhau. Giải quyết mâu thuẫn cũng không phải chỉ
dừng lại ở việc phân tích từng mặt đối lập rồi kết luận đúng sai như ông đã làm.
Trên thực tế, quá trình nẩy sinh và giả quyết mâu thuẫn là động lực thúc đẩy sự
vật phát triển.
Tuy nhiên, học thuyết biện chứng tiên nghiệm bao hàm nhiều tư tưởng tích
cực. Ông thấy antinomi là bản chất của lý tính con nguời chứ không phải những
lỗi lôgic thông thường. Cantơ là người đầu tiên tìm cách bao quat toàn bộ những
nguyên lý tư duy đối lập nhau của thời đại trên quan niệm thống nhất, vạch ra
những vấn đề còn bỏ ngỏ trong các vấn đề về bản chất của tư duy. Hêghen đánh
giá rằng “ việc tìm ra các antinnomi cần đươc xem như một thành tựu rất quan
trọng của nhận thức, bởi bằng việc đó..vận động biện chứng của tư duy đựơc đề
cao’’.
3.2 Triết học thực tiễn.
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu 18
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
Nếu triết học lý thuyết nghiên cứu khả năng nhận thức của con người, thì
triết học thực tiễn nghiên cứu các hoạt động thực tiễn của con người nhằm giải
đáp vấn đề “ tôi cần phải làm gì? ’’.
Nếu nhận thức của con người chỉ dừng lại ở giới hạn hiện tượng luận, thừa
nhận vật tự nó là bất khả tri, thì trong hoạt động thực tiễn của mình, con người vẫn
thường xuyên tác động đến các sự vật xung quanh ta, không chỉ nhận thức thế giới
hiện tượng mà còn luôn hướng tới, vươn tới thế giới vật tự nó như là đối tượng
hoạt động của mình.
Chính điều đó làm cho Cantơ thấy quan hệ giữa triết học lý thuyết và triết
học thực tiễn trở nên hết sức phức tạp. Một mặt, ông muốn xây dựng một hệ thống
triết học thực tiễn thực sự khoa học. Mặt khác, “ thực tiễn’’ theo Cantơ, về cơ bản
độc lập với quá trình nhận thức của con người. Bản thân thực tiễn cũng được
Cantơ hiểu theo hiều nghĩa. Theo nghĩa hẹp, đó là toàn bộ các hoạt động chính trị,
pháp quyền, văn hoá của con người. Mặc dầu thiếu xót của Cantơ trong lĩnh vực
này là ở chỗ, hoạt động thực tiễn sản xuất vật chất hầu như chưa được ông quan
tâm.
3.2.1 Đạo đức học của Cantơ.
Xuất phát từ tư tưởng khẳng định sự độc lập của nhân cách đạo đức với học
thức và giáo dục của Rutxo, Cantơ cho rằng, các nguyên lý đạo đức là độc lập với
mọi lĩnh vực hoạt động khác của con nguời. Nếu trong triết học lý thuyết, cảm
giác là nguồn gốc duy nhất của tri thức, của giác tính với các phạm trù và quy luật
của hiện tượng luận, thì ở đây, lý tính là nguồn gốc duy nhất sinh ra các nguyên
tắc và chuẩn mực đạo đức. Trong lĩnh vực này, “ các nguyên lý cảm tính nói
chung không thích hợp để có thể từ đó người ta xây dựng nên các quy luật đạo đức
’’.
Nguyên lý đạo đức cơ bản của nhà sáng lập ra triết học cổ điển Đức là làm
theo yêu cầu của lý trí, cái mà Cantơ gọi là “ mệnh lệnh tuyệt đối ’’. Mệnh lệnh
tuyệt đối đòi hỏi người ta phải hành động như thế nào đó để những hành vicủa
mình phù hợp với một pháp chế – phổ biến : Mỗi người hãy hành động tới mức tối
đa sao cho điều đó được đưa vào cơ sở pháp chế phổ biến’’.
Theo Cantơ, chỉ có hành động nào của con người phù hợp với mệnh lệnh
tuyệt đối nói trên mới được coi là hành động có đạo đức. Cụ thể,một mệnh lệnh
tuyệt đối đòi hỏi hoạt động của con người phải tuân theo các quy tắc sau:
- Mỗi ngưòi đều có quyền và cần phải hành động theo điều kiện và ý muốn
sao cho ai cũng lam được như thế.
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu 19
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
- Mỗi người đều có quyền và cần cho phép người khác cũng có được quyền
như thế, đồng thời tạo điều kiện để họ thực hiện được quyền đó.
- Mỗi người điều có quyền và cần phải ngăn chặn những người khác hành
động trái với mệnh lệnh tuyệt đối trong khả năng có thể làm được.
Phạm trù trung tâm của đạo đức học của Cantơ là Tự do. Hai mạt mâu thuẫn
trong con người của đạo đức theo quan niệm của Rútxô được Cantơ giải quyết
bằng cách ông chuyển cái đạo đức trong tình cảm, lương tâm thành mệnh lệnh
của lý trí. Cái lý trí mà ông hiểu là có sức mạnh từ bên ngoài. Thực chât, sự vươn
tới đạo đức của cpn người đối với Cantơ chính là khát vọng vươn tới Tự do – hiểu
theo con người vươn tới các ý niệm phổ quát và tất yếu cũng như theo nghĩa con
người vươn tới lý tưởng cao đẹp của mình.
Ngay từ cuối thời kỳ Tiền phê phán, Cantơ đã hình thành tư tưởng chia lý
tính ra những thành tố khác nhau, tư đó hình thành các bộ phận khác nhau trong
triết học. Bất kỳ một triết học nào theo ông cũng hoặc là triết học lý thuyết hoặc là
triết học thực tiễn. Triết học lý thuyết là ly luận về nhận thức và từ đó tim ra
nguyên tắc nhận thức. Triết học thực tiễn là lý luận về phẩm hạnh và tim ra
nguyên tắc vươn tới phẩm hạnh – sự lựa chọn Tự do. Sự khác nhau giữa hai loại
triết học đó là do ở đối tượng của chúng. Đối tượng của triết học lý thuyết chủ yếu
là thế giới hiện tượng, của triết học thực tiễn là hành vi tự do và phẩm hạnh tự do
– vươn tới vật tự nó.
Tự do như vậy có thể hiểu theo ba cấp độ:
1. là khả năng tiên nghiệm đặc biệt cho phép giới tính hoạt động độc lập đối
với các quy luật tất yếu của tự nhiên trong lĩnh vực hiện luận.
2. Là cái tồn tại một cách tương đối trong lĩnh vực hiện tượng luận, nơi ma
mọi cái điều diễn ra một cách tất yếu.
3. Tự do với tư cách là cái thuộc lĩnh vực vật tự nó. Nếu trong lĩnh vực hiện
tượng luận, tự do chỉ là tương đối thì trong lĩnh vực vật tự nó tự do là tuyệt đối.
Tóm lại, đạo đức học của Cantơ tuy có nhiều điểm duy tâm, không mang vì
tính phi lịch sử phi giai cấp cũng như thiếu cơ sở thực nghiệm nhưng nó chữa
đựng nhiều tang nhân đạo sâu sắc. Đối lập với những quan niệm ích kỷ, thực
dụng, hẹp hòi, nó là sự kết tinh những giá trị đạo đức chugcủa loài người trong
lịch sử, đồng thời thể hiện những khát vọng của giai cấp tư sản ở Đức cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX nhằm giải phóng con người khỏi gông cùm của chế độ
phong kiến, xây dựng một xã hội mới, đem lại tự do và hạnh phúc cho loài người.
3.2.2. Quan niệm về lịch sử, xã hội, pháp quyền.
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu 20
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
Các lĩnh vực lịch sử, xã hội pháp quyền của con người được Cantơ coi lĩnh
vực đạo đức học ứng dụng ; vì theo ông, con người vơi tư cách là chủ thể đạo đức
tích cực được thể hiện trong lĩnh vực đó.
Các quan niệm về lịch sử, xã hôi, pháp quyền của Cantơ, một mặt có ý
nghĩa triết học và xã hội to lớn, mặt khác nó mang tinh hai mặt và mâu thuẫn.
Chịu ảnh hưởng của các nhà cách mạng tư sả pháp, Cantơ cụ thể hoá mệnh
lệnh tuyệt đối trong đạo đức học thành theo yêu cầu chung ở mọi lĩnh vực thực
tiễn: chính tri, xã hôi. Mỗi người hãy hành đông sao cho tự do của bạn phải tồn tại
cùng với tự do của tất cả mọi người.
Quan niệm về lịch sử, xã hội:Lịch sử, theo Cantơ là phương thức tồn tại của
loài người mà cụ thể là của từng cá nhân như một chủ thể. lịch sử chính vì vậy tập
trung cao ở lịch sử xã hội. Một mặt, lịch sử là quá trình mà ở đó, bằng hoạt động
của chính mình, con người ngay càng phát triển bản chấtvà khả năng của mình ;
mặt khác, đây là lĩnh vực để con người thể hiện mục đích và lý tang đạo đức. Cho
nên, tiến trình lịch sử nhân loại là sự tiếp tục cho quá trình phát triển của lịch sử tự
nhiên, nó diễn ra theo hướngngày càng tiến bộ và hoàn thiện, nó gạt bỏ dần những
cản trở và đi ngược lại nó. Cách mạng tư sản pháp là môt bằng chứng điển hình về
điều đó : Nó tiêu diệt ché độ chuyên chế bất công mở đường cho xã hội tiến lên
một bước mới.
Quan niệm về nhà nước, pháp quyền: Theo Cantơ, nhà nước là công cụ liên
kết mọi thành viên của nó vào khuôn khổ pháp luật, nhằm giám sát và bảo đảm sự
tự do và bình đẳng cho mọi công dân. Sự hình thành nhà nước một mặt là do khế
ước mặt khác đó là sự hình thành có tính tất yếu, do yêu cầu xã hội yêu cầu – con
người đòi hỏi. Theo Cantơ nói đến nhà nước là nói đến nhà nước pháp quyền nhân
dân tập hợp lại để thực hiện tự do và bình đẳng Cantơ con cho rằng: Chế độ cộg
hoà là chế độ phù hợp nhất với nhu cầu phát triể của xã hội, nhằm mục đích vì
hạnh phúc con người
Quan niệm về quyền sở hữu và bình đẳng: Phát triển quan điểm tư sản về xã
hội, Cantơ bảo vệ chế độ tư hữu và cố gắng củng cố nó bằng những lập luận theo
kiểu tư sản : Sự tồn tại của xã hội tư sản là có tính tiên thiên, tính tự nhiên và do
đó nó có tính bất khả xâm phạm. Ông chứng minh rằng, quyền tư hữu tài sản là có
nguồn gốc tiên thiên do đó nó là vĩnh cửu, phổ biến và tuyệt đối câng thiết.
Cantơ cũng nêu lên tư tưởng độc đáo và sâu sắc về quyền bình đẳng của con
người. Bình đẳng không phải là về tài năng mà là về cơ hội để phát triển và áp
dụng tài năng ông cũng xác định là có quyền độc lập của người công dân. Nhưng
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu 21
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
quyền độc lập đó được ông hiểu theo kiểu cá nhân chủ nghĩa vốn có trong xã hội
tư sản.
Cantơ chia nhân dân trong xã hội ra hai loại nguời: Người công dân và
người chỉ có quốc tịch. Người chỉ có quốc tịch không hề có một quyền thông
thường nào trong xã hội. Người lao động thuộc loại người này.
Quan niện về hoà bình về chiến tranh : Trong cuốn “Về hoà bình vĩnh viễn
’’1975 Cantơ kêu gọi tất cả các dân tộc hãy thiết lập mối quan hệ hoà bình hữu
nghị. Ông phê phán các thế lực phản động ở Tây âu cuối thế kỷ XVIII đang liên
kết chống cách mạng tư sản Pháp. Theo Cantơ, các cuộc chiến tranh nhiều khi phá
hoại chuẩn mực đạo đức con người. Ông khẳng định “không cần có bất kỳ một
cuộc chiến tranh nào cả.’’ cho nên ông kêu gọi tất cả các quốc gia trên hành tinh
hãy đoàn kết xây dựng một “liên bang’’ tất cả các dân tộc trong khi vẫn đảm bảo
cho mỗi dân tộc được độc lập và tự do về chính trị. Xây dựng một thế giới hoà
bình và hữu nghị theo những lý tang nhân đạo cao cả phải được coi là mục đích
cap đẹp nhất.Song ông lại thấy rằng việc thực hiện mục đích đó trong tình hình
hiện tại có tính chất là một nghĩa vụ luân lý luôn là một nghĩa vụ lịch sử cụ thể
Với những tư tang nêu trên Cantơ thự sự là người đặt nền móng cho nhiều
quan niệm duy vật lịch sử sau này của Mác –Engen
3.2.3. Mỹ học và quan điểm triết học về con người và tương lai loài người
Mặc dù có mâu thuẫn, có tính chủ quan và tính hình thức của nó, mỹ học
của Cantơ vẫn là một sự đề xuất mới với những ý tưởng sâu sắc và độc đáo, là một
bước tiến rất quan trong trong sự phat triển tư tưởng thẩm mỹ. Lý thuyết về thiên
tài nghệ thuật mặc dù dựa trên cơ sở duy tâm chủ nghĩa, nhưng về mặt nhận thức
luận lại quan trọng ở chỗ nó bác bỏ xu hướng tĩnh quan đặc tính của lý thuyết sao
chép tự nhiên. Xu hướng chủ yếu trong phếp phân tích cái đẹp thuần khiết là xu
hướng hình thức, nhưng phép phân tích ấy cũng vạch rõ chỗ khác nhau giữa chủ
nghĩa duy tâm siêu nghiệm nói về timnhs tất yếu và tính phổ biến của phê phán
thẩm mỹ – với xu hướng tương đối chủ nghĩa của cảm giác luận duy tâm chủ
quan. Với lý thuyết về cái đẹp nương tựa –cái cao cả chứng tỏ trong chừng mực
nào đó, Cantơ đã tiến sát tới quan niệm biện chứng và những phạm trù thẩm mỹ
và mối liên hệ lẫn nhau giữa những yếu tố khách quan và cgủ quan trong những
khái niệm thẩm mỹ.
Cũng như các nhà tư tưởng khác Cantơ muốn trả lời câu hỏi: Con người từ
đâu đến và nó sẽ đi về đâu? cái gì đang đợi nó?và nó sẽ đi tơi tương lai như nthế
nào.
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu 22
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
Đối với chúng ta khog ai chờ đón chỉ ở một cá nhân lại có thể trả lời được
câu hỏi lớn lao của cả loài người. Điều quan trọng là những vấn đề đã được nhà
triết học nêu lên Cantơ đã đi sâu vào các quan hệ con ngưòi không chỉ từ khía
cạnh nhận thức luận mà cả khiá cạnh bản thể luận, làm rã quan hệ tác động qua lại
giữa cái sinh học và cái xã hộ trong con người. Nếu Cantơ chưa giải quyết được
những vấn đề đó tì chỉ là vì ông chưa giải quyết được chúng trên cơ sở lý luận
nhận thức duy vật biện chứng và duy vật lịch sử một cách triệt để.
Ý nghĩa to lớn của việc nghiên cứu con người của Cantơ là ở chỗ, Cantơ
đã: Thứ nhất, quan tâm đặc biệt tới những điều kiện tự nhiên – vật chất của sự nảy
sinh và sự phát triển xã hội ; Thứ hai, Xây dựng học thuyết về vai trò của tính mâu
thuẫn xã hộivà tính đối kháng như là động lực của tiến trình lịch sử;Thứ ba, tin
vào tiến bộ xã hội và thắng lợi của các yếu tố đạo đức trong con người; thứ tư,
xem mục đích của lịch sử là xây dựng một xã hội công bằng và con người phát
triển hài hoà.
Các qua điểm của Cantơ về tiến trình lịch sử là một trong những bứoc tiến
lớn lao trên con đường loài người xây dựng lý thuyết duy vật –Biện chúng về sự
phát triể
C. KẾT LUẬN
Giá trị lớn lao trước hết của triết học Cantơ là nó đã đặt ra một loạt vấn đề
căn bản của nhận thức luận, về phương pháp biện chứng,về nguồn gốc của những
khái niện và các phạm trù lôgíc chủ yếu và vị trí của chúng trong tư duy khoa học
cũng như trong quá trình nhận thức.
Cantơ cũng đã đề xuất nhiều tư tưởng có ý nghĩa quan trong trong các lĩnh
vực chính trị, xã hội, pháp quyền, những vấn đề tôn giáo, chiến tranh và hoà
bình…Trên con đường tim tòi đó Cantơ đã đư ra nhiều tư tưởg mới mẻ có ý nghĩa
vạch thời đại
Đóng góp quan trọng của Cantơ là đã phát ra được bức tranh của quá trình
nhận thức qua ba giai đoạn từ thấp đến cao. Công lao của Cantơ là đã khẳng định
tính phổ biến của các cặp phạm trù tìm ra những yếu tố của mối liên hệ biện
chứng giữa các cặp phạm trù đó, Cantơ là một trong những người đầu tiên trong
lịch sử triết học đặt ra ván đề mâu thuẫn trong nhận thức luận giải vân đề đó theo
tinh thần biện chứng.
Ý tưởng nhân đạo của triết học Cantơ cho đến hôm nay vẫn còn nguyên
tính chất thời sự. No cho ta phương pháp nhìn nhận t ương lai để đấu tranh chống
lại chủ nghĩa phi nhân đạo của thuyết vị khoa học-kỹ thuật hiện đại: chống lại
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu 23
Cơ
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học
quan niệm tách biệt mâu thuẫn và đối lập giữa tiến bộ khoa học –công nghệ với
tiến bộ xã hội loài người; và ý ghĩa lớn lao nhất có tính quyết định có tính nhân
loại bao trùm nhất là nó cho ta thấy rằng, ý nghĩa cuộc sống con người không phải
là cái gì trừu tượng mà là thực tiễn cụ thể ; hơn nữa, không chỉ là cụ thể của hiện
tại mà còn của tương lai, của những khả năng.
2. Tài liệu tham khảo:
- Giáo trình Lịch sử Triết học, Bùi Thanh Quất, Vũ Tình, NXB GDHN
2001
- Giáo trình Lịch sử Triết học, Học viện Báo chí tuyên truyền - Khoa Triết
học xuất bản năm 1998
- Lịch sử triết học, tập 1,2,3 - NXB Tư tưởng văn hoá Hà Nội 1992
- I.Kant các tác phẩm gồm VI tập Maxcơva 1963 - 1966
- V.F.Axmut. Mỹ học I.Kant - NXB nghệ thuật Maxcơva 1962
- A.A Karapetian Phân tích phương pháp triết học I.Kant erevan 1958
- Triết học I.Kant và thời đại Maxcơva 1974
- Triết học cổ điển Đức, NXB sự thật Hà Nội 1963
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu 24
Cơ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- muc_luc_5787.pdf