Rutherford, cùng với Frederick Soddy, tiếp tục nghiên cứu với
các nguyên tố phóng xạ. Đặc biệt, Soddy để ý thấy khi hạt alpha
và hạt beta phát ra khỏi nguyên tử, các nguyên tử đó biến đổi
theo một trong hai kiểu: (1) nguyên tố đó trở thành một nguyên
tố khác hoàn toàn với những phản ứng hóa học hoàn toàn mới,
hoặc (2) nguyên tố đó vẫn duy trì những phản ứng hóa học như
cũ và quang phổ nguyên tử như cũ nhưng chỉ thay đổi trọng
lượng nguyên tử.
4 trang |
Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1574 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Thuyết nguyên tử - Phần 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thuyết nguyên tử - Phần 2
Rutherford, cùng với Frederick Soddy, tiếp tục nghiên cứu với
các nguyên tố phóng xạ. Đặc biệt, Soddy để ý thấy khi hạt alpha
và hạt beta phát ra khỏi nguyên tử, các nguyên tử đó biến đổi
theo một trong hai kiểu: (1) nguyên tố đó trở thành một nguyên
tố khác hoàn toàn với những phản ứng hóa học hoàn toàn mới,
hoặc (2) nguyên tố đó vẫn duy trì những phản ứng hóa học như
cũ và quang phổ nguyên tử như cũ nhưng chỉ thay đổi trọng
lượng nguyên tử.
Ông gọi các nguyên tử thuộc nhóm thứ hai vừa nói là các đồng
vị, những nguyên tử thuộc cùng một nguyên tố với trọng lượng
nguyên tử khác nhau. Trong bất kì mẫu nguyên tố tự nhiên nào,
có thể có vài loại đồng vị. Kết quả là trọng lượng nguyên tử của
một nguyên tố mà Berzelius tính được thật ra là giá trị trung
bình của mọi trọng lượng đồng vị thuộc nguyên tố đó. Đây là
nguyên do một số nguyên tố không rơi vào trật tự đúng trên
bảng tuần hoàn Mendeleev – trọng lượng nguyên tử trung bình
phụ thuộc vào mỗi loại đồng vị có mặt bao nhiêu. Soddy đề xuất
đặt các nguyên tố vào bảng tuần hoàn dựa trên sự tương đồng
phản ứng hóa học và sau đó đánh số thứ tự chúng. Con số gán
cho mỗi nguyên tố theo kiểu này được gọi là số nguyên tử. Số
nguyên tử là phương pháp tiện lợi để chỉ các nguyên tố.
+ Phóng to hình
Các đồng vị của hydrogen: hydrogen, deuterium và tritium.
Trong khi đó, Thomson tiếp tục nghiên cứu của ông với ống
Crookes. Ông nhận thấy, không những tia cathode gồm những
electron được sinh ra, mà còn gồm những hạt mang điện dương.
Sau nhiều nghiên cứu thận trọng, ông đã có thể tách li nhiều loại
hạt dương khác nhau bằng trọng lượng. Dựa trên những phép đo
này, ông đã có thể xác định một hạt cơ bản, hạt mang điện
dương nhỏ nhất được tạo ra, gọi là proton. Vì những hạt này
được sinh ra bởi những nguyên tử của cathode và vì Rutherford
đã chứng minh rằng hạt nhân mang điện dương, nên Thomson
nhận thấy hạt nhân nguyên tử phải chứa proton. Một nhà khoa
học trẻ tên là Henry Moseley đã làm thí nghiệm bắn phá nguyên
tử thuộc những nguyên tố khác nhau bằng tia X. Giống như
trong quang phổ nguyên tử, trong đó nhiệt cấp cho các electron
thêm năng lượng, tia X truyền thêm năng lượng cho các proton
trong hạt nhân. Và giống như các electron giải phóng ánh sáng
thuộc những năng lượng nhất định khi chúng nguội đi, hạt nhân
phát ra tia X thuộc một năng lượng nhất định khi nó “thôi kích
thích”. Moseley phát hiện thấy năng lượng của tia X phát ra đối
với mỗi nguyên tố tuân theo một mối liên hệ toán học đơn giản.
Năng lượng đó phụ thuộc vào số nguyên tử của nguyên tố đó, và
số nguyên tử tương ứng với số điện tích dương trong hạt nhân.
Cho nên trật tự đúng của bảng tuần hoàn hóa học là sắp theo số
proton tăng dần trong hạt nhân nguyên tử. Trong một nguyên tử
trung hòa, số lượng proton bằng số electron. Các electron là
nguyên nhân gây ra các phản ứng hóa học. Các nguyên tố thuộc
cùng một cột của bảng tuần hoàn có sự sắp xếp electron thuộc
mức năng lượng cao nhất giống nhau, và đây là nguyên do phản
ứng hóa học của chúng giống nhau.
Chỉ còn lại một trở ngại nữa. Electron có trọng lượng rất nhỏ,
bằng 1/1836 trọng lượng của một proton. Nhưng các proton
không lí giải nổi toàn bộ trọng lượng nguyên tử của một nguyên
tử. Mãi đến năm 1932 thì James Chadwick mới phát hiện ra sự
tồn tại của một hạt trong hạt nhân không mang điện tích nhưng
có khối lượng hơi nhỉnh hơn proton một chút. Ông đặt tên cho
hạt này là neutron. Neutron giải thích cho sự tồn tại của các
đồng vị. Hai nguyên tử thuộc cùng một nguyên tố sẽ có số
proton và electron như nhau, nhưng chúng có thể có số neutron
khác nhau, và vì thế nên trọng lượng nguyên tử khác nhau. Các
đồng vị được đặt tên theo tên của nguyên tố và theo sau đó là số
proton cộng với số neutron có trong hạt nhân. Tổng số proton và
neutron được gọi là số khối. Thí dụ, uranium-235 có 235 proton
và neutron. Chúng ta có thể nhìn vào bảng tuần hoàn hóa học để
tìm số nguyên tử của uranium (92), số nguyên tử cho chúng ta
biết proton. Sau đó, làm toán trừ, chúng ta biết đồng vị này có
143 neutron. Có một đồng vị khác của uranium, 238U, với 92
proton và 146 neutron. Một số kết hợp của proton và neutron thì
kém bền hơn những kết hợp khác. Hãy hình dung bạn đang cố
giữ 10 quả bóng bowling trong tay. Sẽ có một số sắp xếp bạn có
thể làm chủ được như vậy. Nhưng giờ hãy thử giữ 11 hoặc 9 quả
thôi. Có thể sẽ không còn một sắp xếp bền và bạn sẽ làm rơi các
quả bóng. Điều tương tự xảy ra với các proton và neutron.
Những sắp xếp không bền sẽ tự động phân rã, giải phóng các
hạt, cho đến khi đạt tới một cấu trúc bền. Đây là cách thức
những hạt phóng xạ như hạt alpha được sinh ra. Hạt alpha gồm
hai proton và hai neutron giải phóng ra từ một hạt nhân không
bền
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuyet_nguyen_tu_8493.pdf