Thương mại quyền sở hữu trí tuệ

Trước khi tim hiểu về vấn đề bảo hộ quyền tác giả, chúng ta nên tìm hiểu về khái niệm và một số vấn đề cơ bản về quyền sở hữu trí tuệ. Một câu hỏi đặt ra là: Tại sao phải có quyền sở hữu trí tuệ?

Trước thập niên 90, khái niệm “tài sản” được nhiều người biết đến chỉ bao gồm tiền tệ và vật chất. Trong nền kinh tế hiện đại, nhiều quốc gia nhất là các quốc gia phát triển đang hướng tới một nền kinh tế dựa trên tri thức (thông tin và công nghệ), do đó khái niệm này được thay đổi, “tài sản” không chỉ là tiền, vàng, nhà xưởng, xe cộ . mà nó bao gồm cả tài sản vô hình, trong đó có tài sản trí tuệ.

 

doc20 trang | Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1639 | Lượt tải: 1download
Nội dung tài liệu Thương mại quyền sở hữu trí tuệ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I - Quyền sở hữu trí tuệ, khái niệm và những vấn đề cơ bản: Trước khi tim hiểu về vấn đề bảo hộ quyền tác giả, chúng ta nên tìm hiểu về khái niệm và một số vấn đề cơ bản về quyền sở hữu trí tuệ. Một câu hỏi đặt ra là: Tại sao phải có quyền sở hữu trí tuệ? Trước thập niên 90, khái niệm “tài sản” được nhiều người biết đến chỉ bao gồm tiền tệ và vật chất. Trong nền kinh tế hiện đại, nhiều quốc gia nhất là các quốc gia phát triển đang hướng tới một nền kinh tế dựa trên tri thức (thông tin và công nghệ), do đó khái niệm này được thay đổi, “tài sản” không chỉ là tiền, vàng, nhà xưởng, xe cộ ... mà nó bao gồm cả tài sản vô hình, trong đó có tài sản trí tuệ. Tài sản trí tuệ là sản phẩm của óc con người, tri thức của nhân loại, do đó cần phải được bảo hộ. Để bảo hộ những tài sản trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ đã ra đời với tư cách là quyền của các tổ chức, cá nhân đối với các tài sản trí tuệ mà tổ chức, cá nhân đó phát minh, chế tạo ra và được thực thi bằng các điều luật, công ước. Đó là dưới góc độ pháp luật. Tuy nhiên, quyền sở hữu trí tuệ không phải chỉ là một thứ luật pháp mà còn có những căn bản về kinh tế. Dưới góc độ kinh tế thì bất cứ khi nào một sản phẩm mới vào thị trường và thu hút khách hàng thành công, không sớm thì muộn sẽ bị đối thủ cạnh tranh sản xuất các sản phẩm giống hoặc tương tự. Trong một số trường hợp, đối thủ cạnh tranh sẽ hưởng lợi từ việc tiết kiệm về quy mô sản xuất, khả năng tiếp cận thị trường lớn hơn, có quan hệ tốt hơn với các nhà phân phối chính hoặc tiếp cận với các nguồn nhiên liệu thô và rẻ hơn và do đó, có thể sản xuất một số sản phẩm tương tự hoặc giống hệt với giá thành rẻ hơn, tạo áp lực nặng nền lên nhà sáng tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ nguyên gốc. Đôi khi điều này sẽ đẩy nhà sáng tạo gốc ra khỏi thị trường, đặc biệt khi mà họ đã đầu tư đáng kể vào việc phát triển sản phẩm mới thì đối thủ cạnh tranh lại hưởng lợi từ kết quả đầu tư đó và chẳng mất một xu nào cho thành quả sáng tạo và sáng chế của nhà sáng tạo gốc. Đây là nguyên nhân quan trọng cẩn phải bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ vì mục đích kinh tế. Theo điều 4.1 của luật sở hữu trí tuệ Việt Nam: quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Việc bảo hộ các tài sản trí tuệ thông qua hệ thống sở hữu trí tuệ mạng lại cho chủ sở hữu độc quyền sử dụng những tài sản đó trong kinh doanh. Chủ sở hữu có quyền lựa chon ai có thể tiếp cận và sử dụng tài sản của mình và bảo vệ nó trước việc sử dụng không được phép. Về khái niệm thương mại quyền sở hữu trí tuệ: Thương mại quyền sở hữu trí tuệ có thể được hiểu là toàn bộ những hiện tượng, hoạt động và những quan hệ phát sinh gắn với việc mua bán, chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ mang tính thương mại trên thị trường. Hoặc ta có thể hiểu, quyền sở hữu đối với những tài sản trí tuệ là đối tượng của hoạt động thương mại. Đối tượng chuyển nhượng trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ là là quyền sở hữu đối với những tài sản trí tụê, tức là quyền tài sản. Vì vậy mà chủ thể tham gia vào quan hệ thương mại này cần phải tôn trọng quyền nhân thân của tác giả. Và các hoạt động thương mại quyền sở hữu trí tuệ chỉ có thể diễn ra trong môi trường pháp lý và thông qua hợp đồng chuyển nhượng bằng văn bản với những điều khoản. Có thể phân loại thương mại quyền sở hữu trí tuệ theo nhiều cách. Căn cứ vào đối tượng của hoạt động thương mại thì có thương mại quyền sở hữu các tác phẩm văn học nghệ thuật; thương mại quyền sở hữu công nghiệp; thương mại quyền sở hữu giống. Căn cứ vào phạm vi hoạt động thương mại thì có thương mại ở trong nước và ngoài nước. Căn cứ vào hình thức chuyển nhượng thì có chuyển nhượng từng phần và chuyển nhượng toàn bộ. Còn căn cứ vào số lượng bên nhận chuyển nhượng tham gia có chuyển nhượng cho duy nhất một bên khái thác và chuyển nhượng cho nhiều bên cùng đồng thời khai thác. Thương mại quyền sở hữu trí tuệ sẽ: kích thích các hoạt động sáng tạo của con người; thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa các vùng, các quốc gia; đóng vai trò quan trọng trong chuyển nhượng; thúc đẩy nền văn minh nhân loại… Mỗi quốc gia có thể có các văn bản pháp luật khác nhau về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên trong nền kinh tế mở cửa và hội nhập như ngày nay, nhu cầu chuyển giao công nghệ; xuất nhập khẩu hay đầu tư giữa các nước với nhau là cần thiết. Do vậy cần có các Tổ chức, Hiệp định và các Công ước quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ. Cụ thể là: Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) là một tổ chức quốc tế có mục đích giúp đỡ nhằm đảm bảo rằng quyền của người phát minh và chủ sở hữu tài sản trí tuệ được bảo hộ trên toàn thế giới và rằng các nhà phát minh và tác giả được công nhận và hưởng thành quả từ tài năng của họ. Tiền thân của WIPO là BIRPI được thành lập vào năm 1893 để quản lý việc thực thi Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật và Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp. Từ ngày 26 tháng 4 năm 1970, Công ước về thành lập Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) chính thức có hiệu lực. Hiệp định về các Khía cạnh Liên quan đến Thương mại của Quyền Sở hữu Trí tuệ TRIPS (do Tổ chức Thương mại Thế giới quản lý thực hiên). Hiệp định về các Khía cạnh Liên quan đến Thương mại của Quyền Sở hữu Trí Tuệ được ký kết vào cuối những năm 1994 như là một phần của Hiệp định Thương mại Đa phương của vòng Đàm phán Uruguay. Nó giúp cho việc xây dựng nền tảng các tiêu chuẩn của việc bảo hộ tất cả các quyền sở hữu trí tuệ và việc thực hiên các tiêu chuẩn đó cả ở trong nước và nước ngoài thông qua các hoạt động hành chính và tư pháp. Ngoài ra, còn có các Hiệp định trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp như: Công ước Pari (1883) về bảo hộ sở hữu công nghiệp; Hiệp định Madrid về đăng ký quốc tế đối với nhãn hiêu (1981); Hiệp đinh Hague về đăng ký quốc tế về kiểu dáng công nghiệp (1825); Hiệp đinh Lisbon về bảo hộ đối với tên gọi xuất sứ và đăng ký quốc tế về xuất xứ (1958); Hiệp đinh Washington về sở hữu trí tuệ liên quan đến vi mạch (1989)… Về các Hiệp định trong lĩnh vực bản quyền và quyền liên quan: Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật (1886); Công ước Rome về bảo hộ diễn viên, người sản xuất chương trình ghi âm, và các tổ chức truyền thông (1961); Công ước Geneva về bảo hộ các nhà sản xuất chương trình thu thanh chống lại việc sao chép bất hợp pháp các chương trình của họ (1971); Công ước Brussels liên quan đến việc truyền các tín hiệu qua vệ tinh (1974); … II, Bào hộ Quyền tác giả (Bản quyền): Quyền tác giả hay còn gọi là bản quyền, là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tác ra hoặc sở hữu. Các tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào. Từ một thế kỷ trước, vấn đề bảo hộ quyền tác giả đã là một vấn đề rất nóng hổi với Công ước Berne và sự thành lập Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới WIPO. Ở Việt Nam, năm 2004 là thời điểm mà nước ta gia nhập Công ước Berne về bảo hộ quyền tác giả và sự tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới WTO khiến cho việc bảo hộ quyền tác giả còn khá mới mẻ và gặp nhiều trở ngại. Tuy nhiên có thể khẳng định đó là một bước tiến trong quá trình hội nhập của nước ta. Có mặt trong sân chơi này, cũng có nghĩa là môi trường văn hóa Việt Nam sẽ được thanh lọc, tình trạng vi phạm bản quyền, dùng tác phẩm của người khác để khai thác lợi nhuận sẽ bị loại trừ. Khi công sức của mình được công nhận, quyền lợi chính đáng được bảo hộ một cách nghiêm túc, các tác giả sẽ có nhiều động lực để thúc đẩy sự sáng tạo. Để bảo hộ quyền tác giả cần phải xác lập cơ sở bảo hộ… 1, Xác lập cơ sở bảo hộ: Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả là: Những cá nhân, tổ chức trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả quy định tại các điều từ Điều 37 đến Điều 42 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam Các tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm công bố lần đầu tiên ở Việt Nam mà chưa được công bố ở bất kỳ nước nào hoặc được công bố đồng thời tại Việt Nam trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày tác phẩm đó được công bố lần đầu tiên ở nước khác; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Việt Nam là thành viên. Các loại hình được bảo hộ quyền tác giả: Các tác phẩm văn học nghệ thuật và khoa học gồm có: Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác; Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác; Tác phẩm báo chí; Tác phẩm âm nhạc; Tác phẩm sân khấu; Tác phẩm điện ảnh; Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng; Tác phẩm nhiếp ảnh; Tác phẩm kiến trúc; Bản hoạ đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, công trình khoa học; Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian; Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu. Liên quan đến tác phẩm phái sinh, tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ theo quy định nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh. Chủ sở hữu quyền tác giả là: Tác giả; Đồng tác giả; Tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả hoặc giao kết hợp đồng với tác giả; Người thừa kế; Người được chuyển giao quyền; Nhà nước; Công chúng. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả: Quyền nhân thân quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều 19 của Luật Sở hữu trí tuệ được bảo hộ vô thời hạn. Quyền nhân thân quy định tại khoản 3 Điều 19 và quyền tài sản quy định tại Điều 20 của Luật Sở hữu trí tuệ có thời hạn bảo hộ như sau: - Tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên; đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình; đối với tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác giả xuất hiện thì thời hạn bảo hộ được tính theo quy định tại điểm b khoản này; - Tác phẩm không thuộc loại hình quy định tại điểm a khoản này có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết; - Thời hạn bảo hộ quy định tại điểm a và điểm b khoản này chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả. 2, Tổ chức thực hiên bảo hộ: Việc xác lập cơ sở bảo hộ mới chỉ là điều kiện cần. Để bảo hộ quyền tác giả thì cần phải đăng ký bằng cách nộp đơn và hồ sơ kèm theo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để ghi nhận các thông tin về tác giả, tác phẩm, chủ sở hữu quyền tác giả. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả có thể trực tiếp hoặc uỷ thác cho tổ chức, cá nhân khác nộp đơn đăng ký quyền tác giả tại Cục Bản quyền tác giả hoặc có thể nộp đơn tại Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch nơi tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả cư trú hoặc có trụ sở. Theo luật sở hữu trí tuệ, đơn đăng ký quyền tác giả bao gồm: Tờ khai phải được làm bằng tiếng Việt và do chính tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan hoặc người được ủy quyền nộp đơn ký tên và ghi đầy đủ thông tin về người nộp đơn, tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả hoặc chủ sở hữu quyền liên quan; tóm tắt nội dung tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình hoặc chương trình phát sóng; tên tác giả, tác phẩm được sử dụng làm tác phẩm phái sinh nếu tác phẩm đăng ký là tác phẩm phái sinh; thời gian, địa điểm, hình thức công bố; cam đoan về trách nhiệm đối với các thông tin ghi trong đơn. Hai bản sao tác phẩm đăng ký quyền tác giả hoặc hai bản sao bản định hình đối tượng đăng ký quyền liên quan; Giấy uỷ quyền, nếu người nộp đơn là người được uỷ quyền; Tài liệu chứng minh quyền nộp đơn, nếu người nộp đơn thụ hưởng quyền đó của người khác do được thừa kế, chuyển giao, kế thừa; Văn bản đồng ý của các đồng tác giả, nếu tác phẩm có đồng tác giả; Văn bản đồng ý của các đồng chủ sở hữu, nếu quyền tác giả, quyền liên quan thuộc sở hữu chung. Sau khi đăng ký, cá nhân và chủ thể sẽ được cấp giấy chứng nhận quyền tác giả. Về việc quản lý giấy chứng nhận quyền tác giả thì: Cơ quan quản lý nhà nước mà cụ thể là Cục Bản quyền tác giả có quyền cấp cũng như có quyền cấp lại, đổi, hủy bỏ giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả. Việc cấp, đổi, hủy bỏ hiệu lực giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả có thể được thực hiện trong các trường hợp sau: Trong trường hợp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả bị mất, hư hỏng hoặc thay đổi chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành cấp lại hoặc đổi Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả. Trong trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả không phải là tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả không thuộc đối tượng bảo hộ thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền huỷ bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả. Tổ chức, cá nhân phát hiện việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan trái với quy định của pháp luật thì có quyền yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước về quyền tác giả, huỷ bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả. Thời hạn cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả là trong thời hạn mười lăm ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn hợp lệ, cơ quan quản lý nhà nước về quyền tác giả có trách nhiệm cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả cho người nộp đơn. Việc đăng ký bảo hộ quyền tác giả rất quan trọng và có lợi. Dù đăng ký quyền tác giả không phải là thủ tục bắt buộc để được hưởng quyền tác giả. Việc đăng ký bảo hộ không phải là cơ sở xác lập quyền tác giả; tác phẩm dù có đăng ký hay không đăng ký quyền tác giả đều được hưởng sự bảo hộ như nhau. Việc bảo hộ quyền tác giả là tự động và không phụ thuộc vào việc đăng ký. Tuy nhiên, việc đăng ký quyền tác giả lại cần thiết và rất có ý nghĩa trong việc bảo vệ quyền tác giả, đặc biệt trong việc chứng minh quyền tác giả khi có tranh chấp xảy ra. Nếu tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả không đăng ký quyền tác giả thì khi có tranh chấp xảy ra các chủ thể này phải có nghĩa vụ chứng minh quyền tác giả của mình đối với tác phẩm đó, tức phải tự mình cung cấp các tài liệu, chứng cứ để chứng minh quyền tác giả của mình đối với tác phẩm. Trong nhiều trường hợp việc tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả chứng minh quyền của mình là rất khó, thậm chí không thể chứng minh được mình là tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả của tác phẩm có tranh chấp. Thủ tục đăng ký quyền tác giả không quá phức tạp và chi phí rất nhỏ so với lợi ích thiết thực mang lại. Vì vậy, khi sáng tạo ra tác phẩm, đặc biệt các tác phẩm sáng tạo, có giá trị thương mại và nhiều khả năng bị sử dụng trái phép, chiếm đoạt thì tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả nên nhanh chóng thực hiện đăng ký quyền tác giả. Kể từ khi Việt Nam tham gia các điều ước quốc tế và các hiệp định song phương thúc đẩy việc bảo hộ quyền tác giả, số lượng người đăng ký bản quyền ngày càng tăng lên rõ rệt. Trong thời gian qua, các tổ chức, cá nhân Việt Nam đã quan tâm hơn đến việc đăng ký sáng chế. Tỷ lệ đơn đăng ký sáng chế, giải pháp hữu ích của người Việt Nam chiếm 12,9%, trong khi đó tỷ lệ bằng độc quyền sáng chế, giải pháp hữu ích của người Việt Nam là 9,9%. Xét về tổng thể, tỷ lệ đơn và bằng độc quyền sáng chế đã tăng ổn định trung bình khoảng 7 – 10% một năm. So sánh với các nước có trình độ phát triển tương đương như Philippines thì Việt Nam đã đuổi kịp và có những vượt bậc đáng kể. 3, Quy định pháp luật hiện hành về thực thi quyền tác giả: * Các công ước quốc tế về thực thi quyền tác giả: Tổ chức sở hữu trí tuệ thể giới WIPO cũng như tổ chức thương mại thế giới WTO đều khẳng định rằng: khai thác quyền sở hữu trí tuệ là công cụ quan trọng trong việc tao ra của cải và giảm đói nghèo. Các tổ chức này cũng kết luận: có luật sở hữu trí tuệ chưa đủ, điều quan trọng là luật sở hữu trí tuệ được thực thi như thế nào. Giá trị của các tài sản trí tuệ phụ thuộc đáng kể vào việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Trong nỗ lực nhằm bảo hộ và thực thi hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ nói chung, quyền tác giả nói riêng, nhiều công ước quốc tế về quyền tác giả đã ra đời. Tuy nhiên, không phải mọi công ước quốc tế về quyền tác giả, các quốc gia thành viên đều đề cập đến vấn đề thực thi này. Vấn đề thực thi quyền tác giả được quy định chủ yếu trong công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật được ký kết tại Berne, Thụy Sĩ năm 1886 và Hiệp đinh về các khía cạnh thương mại quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) được ký ngày 15/4/1994. Công ước Berne là công ước đầu tiên và là công ước nền tảng về quyền tác giả. Trong công ước Berne, vấn đề thực thi quyền tác giả được quy định tại các điều 13, 15, 16 và 17. Theo quy định tại điều 15, tác giả của tác phẩm văn học nghệ thuật “được khởi kiện những người vi phạm tác phẩm của mình trước Tòa án ở các nước thành viên Liên hiệp”. Đề được Tòa án bảo vệ, tác giả “chỉ cần có tên mình ghi trên tác phẩm theo như thông lệ”. Đối với những tác phẩm chưa xuất bản mà chưa biết ai là tác giả, nhưng có đủ cơ sở đề cho rằng tác giả là công dân một nước thành viên Liên hiệp, thì luật pháp quốc gia thành viên Liên hiệp có khả năng chỉ định một cơ quan có thẩm quyền đại diện cho tác giả và có thẩm quyền bảo hộ và thực thi các quyền của tác giả trong các nước thành viên Liên hiệp. Điều 16, 17 quy định các biện pháp cụ thể có thể được áp dụng trong quá trình thực thi quyền tác giả. Cụ thể là: mọi tác phẩm phi pháp có thể bị tịch thu ở những quốc gia là thành viên Liên hiệp, nơi tác phẩm nguyên tác được hưởng sự bảo hộ của luật pháp. Việc tịch thu cũng được xử lý theo luật pháp của mỗi quốc gia. Công ước Berne cũng cho phép các thành viên được áp dụng các biện pháp kiểm soát, biện pháp cấm khác để xử lý hành vi vi phạm quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật. Như vậy trong công ước Berne, vấn đề thực thi mới chỉ dừng lại ở mức độ thừa nhận quyền tác giả của tác phẩm văn học, nghệ thuật được bảo vệ khi có hành vi vi phạm. Vấn đề thực thi quyền tác giả chưa được quy định trong một phần riêng, chưa cụ thể và chi tiết, các biện pháp còn sơ sài. Hiệp đinh TRIPS là văn bản “xương sống” của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Hiệp định TRIPS bao gồm những nguyên tắc toàn diện thống nhất về thực thi quyền sở hữu trí tuệ trên phạm vi toàn thể giới. So với công ước Berne, hiệp định TRIPS thể hiện bước phát triển rất rõ ràng. Hiệp đinh dành phần III với 21 điều quy định về thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Các quy định này được xây dựng trên nguyên tắc tối thiểu và dành quyền quy định cụ thể cho các quốc gia thành viên. Cùng với các quy định linh hoạt nhưng cụ thể và cơ chế đảm bảo thực thi, hiệp định TRIPS thực sự là công cụ hữu hiệu trong việc đảm bảo thực thi quyền sở hữu trí tuệ trên phạm vi toàn cầu. Theo quy định của hiệp định, để đảm bảo thực thi quyền sở hữu trí tuệ, quốc gia thành viên có thể áp dụng ba loại thủ tục: dân sự, hành chính và hình sự. Các biện pháp cụ thể mà các quốc gia thành viên được áp dụng bao gồm: biện pháp khẩn cấp tạm thời, bồi thường thiệt hại, tiêu hủy tang vật và kiểm soát hàng giả tại biên giới. Tuy nhiên các thủ tục đó phải được áp dụng bình đẳng, công bằng, không phức tạp, tốn kém, tránh tạo ra rào cản cản trờ thương mại hợp pháp và chống lại sự lạm dụng các thủ tục đó. * Pháp luật Việt Nam về thực thi quyền tác giả: Nội dung cơ bản của các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về thực thì quyền tác giả: Cũng như hiệp định TRIPS, pháp luật hiện hành của nước ta quy định ba loại phương thức áp dụng để thực thi quyền tác giả. Cụ thể là phương thức dân sự, phương thức hành chính và phương thức hình sự. Về phương thức dân sự: Bộ luật dân sự năm 1995 và các văn bản hướng dẫn thi hành về quyền tác giả trong bộ luật quy đinh: tác giả, chủ sở hữu tác phẩm được quyền khởi kiện yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền của mình khi bị xâm hại; tranh chấp về quyền tác giả được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Bộ luật dân sự năm 2004 cũng quy định: tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Tòa án sẽ có những thầm quyền giải quyết những tranh chấp về quyền tác giả theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Thủ tục tố tụng dân sự cho phép tác giả, chủ sở hữu các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học được quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận quyền của mình, buộc người có hành vi xâm phạm quyền tác giả chấm dứt hành vi xâm phạm, và phải bồi thường thiệt hại. Phương thức hành chính: Thẩm quyền thực thi quyền tác giả thuộc về một hệ thống các cơ quan hành chính sau đây: + Chính phủ; + Bộ văn hóa – thông tin; + Cục bản quyền tác giả - văn học nghệ thuật; + Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; + Sở văn hóa – thông tin; + Thanh tra chuyên ngành văn hóa thông tin; + Cơ quan hải quan; + Cơ quan quản lý thị trường; + Cảnh sát kinh tế; + Bộ đội biên phòng; Đối với phương thức hành chính, các biện pháp bảo vệ quyền của chủ thể bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ rất phong phú. Cụ thể bao gồm: phạt tiền, tước quyền sử dụng giấy phép kinh doanh; tịch thu tang vật, phương tiện xâm phạm hành chính; buộc loại bỏ các yếu tố xâm phạm trên sản phẩm   hàng hóa , phương tiện kinh doanh; buộc bồi thường do thiệt hại xâm phạm hành chính gây ra… Trong đó, hình thức xử phạt chính là phạt tiền. Phương thức hình sự: Khi hành vi xâm phạm quyền tác giả của cá nhân, tổ chức là hành vi nguy hiểm cho xã hội thì cá nhân, tổ chức đó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Thông thường, hành vi xâm phạm quyền tác giả bị xử lý hình sự nếu trước đó đã bị xử lý hành chính. Bộ luật hình sự năm 1985, sau đó là Bộ luật hình sự năm 1999 đều quy định các tội danh và hình phạt tương ứng nhằm bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Khi bị xử lý hình sự, các cá nhân, tổ chức xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có thể bị phạt tiền, cảnh cáo, cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định hoặc bị cấm hành nghề nhất định trong một thời gian và hình phạt cao nhất có thể phải gánh chịu là phạt tù. Thực trạng và đánh giá pháp luật hiện hành của Viêt Nam về thực thi quyền tác giả: - Những kết quả đạt được: Trước hết phải khẳng đinh rằng các quy định pháp luật hiện hành của nước ta đã bắt đầu tạo được cơ sở pháp lý cho việc đảm bảo thực thi quyển tác giả ở Việt Nam. Pháp luật quyền tác giả bao gồm những nội dung cơ bản và thiết yếu cho việc thực thi quyền tác giả, cụ thể là: các quy định về hành vi vi phạm quyền tác giả; các biện pháp thực thi quyền tác giả; hệ thống các cơ quan bảo đảm thực thi quyền tác giả. Chính những quy định này đã góp phần hình thành một cơ chế bảo đảm thực thi quyền tác giả ở Việt Nam.. Hơn nữa, về cơ bản, các quy định về thực thi quyền tác giả của pháp luật Việt Nam tương thích với các Công ước quốc tế quan trọng về quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả mà chúng ta đã và sẽ thành viên như: Công ước Berne, Hiệp định TRIPS. - Những hạn chế còn tồn tại: Bên cạnh những kết quả đã được trên đây, quy định pháp luật Việt Nam về thực thi quyền tác giả còn bộc lộ một số hạn chế. Thứ nhất. Các quy định về thực thi quyền tác giả còn rất tản mạn, chưa có tính hệ thống, thống nhất. Hiện nay, vấn đề thực thi quyền tác giả được quy định rải rác trong rất nhiều văn bản có hiệu lực khác nhau, do các cơ quan khác nhau ban hành, một vấn đề được quy định ở nhiều văn bản khác nhau như Bộ luật dân sự, Nghị định 76/CP, Công văn số 97/KHXX, Thông tư liên tịch, Pháp lệnh sửa đổi, … Những quy định tản mạn, không mang tính hệ thống này gây nhiều khó khăn cho việc thực hiện pháp luật về quyền tác giả. Xin nêu ra đây một ví dụ: khi muốn xác định một tranh chấp cụ thể về quyền tác giả có thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân không, cá nhân, tổ chức không thể tìm được ở một vài văn bản pháp luật mà phải nghiên cứu qua nhiều văn bản khác nhau như: Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Thông tư tòa án,… Thứ hai. Pháp luật chưa phân định rạch ròi thẩm quyền của từng cơ quan trong thực thi quyền tác giả. Ở nước ta hiện nay, thẩm quyền thực thi quyền tác giả thuộc về nhiều cơ quan khác nhau có thể chia làm hai loại: Một là Tòa án nhân dân; Hai là các cơ quan khác bao gồm: Ủy ban nhân dân, thanh tra chuyên ngành văn hóa – thông tin, cảnh sát kinh tế, quản lý thị trường, hải quan, an ninh văn hóa và bộ đội biên phòng,… Trong thực tế, có vụ việc nhiều cơ quan cùng giải quyết, có vụ việc không rõ thẩm quyển của cơ quan nào. Sự kết hợp hoạt động của các cơ quan này cũng chưa đồng bộ, nhuần nhuyễn, đôi khi còn mâu thuẫn. Thứ ba. Các văn bản pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể các hành vi xâm phạm quyền tác giả. Chính những điều này gây khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền. Có những hành vi xâm phạm quyền tác giả một cách rõ ràng, nhưng có những hành vi phải phân tích, xem xét kỹ lưỡng rồi mới kết luận được có phải hành vi vi phạm hay không. Điều đó dẫn đến hai hệ quả là: bỏ sót người vi phạm hoặc xử lý nhầm người không vi phạm. Thứ tư. Về biện pháp khẩn cấp tạm thời. Biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định tr

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docthương mại quyền sở hữu trí tuệ.doc
Tài liệu liên quan