Lợi tức thu được từ trái phiếu thành phố không phảichịu thuế thu nhập. Tại sao? Điều này sẽ là một đềtài lớn cần nghiên cứu. Tôi tin rằng nó
có liên quan tới mong muốn duy trì sự khác biệt giữa những mức chính quyền khác nhau(liên bang, bang, địa phương, v.v.) trong bất cứ
trường hợp nào, điều này cũng sẽ ảnh hưởng tới mức lợi tức cân bằng trong thị trường trái phiếu thành phố và thị trường trái phiếu tư nhân.
Mức cân bằng đối với trái phiếu thành phố bằng (1-t)nhân với tỷ lệ cân bằng cho trái phiếu tập thể đáng tin cậy tương tự.
Thuế kinh doanh và sự thi hành.
Một lý do dẫn tới thuế kinh doanh là nó làm cho sự thực thi của thuế thu nhập trở nên dễ dàng hơn. Nêubạn đánh thuế lợi nhuận của một công
ty, nó phải ghi lại tổng thu nhập và chi dùng của công ty, gồm chi phí lao động, và nói người lao độngở đó là những ai. Điều này giúp cho việc
nhận dạng kẻ gian lận thuế thu nhập dễ hơn. Bằng cách kiểm tra chi tiết về chi phí tiêu dùng của một công ty, người ta có thể hình dung ra
lượng thu nhập cho những người cung cấp của công ty.
Đánh thuế cả công việc kinh doanh và lao động ép họphải phạm tội trốn thuế thì mới thành công, gây ratính thế tiến thoái lưỡng nan cho các
tù nhân. Điều này có thể là một lý do rất tốt để chia 50-50 cho thuế Bảo hiểm xã hội. Cách duy nhất giúp cho cả chủ lao động và người lao động
tránh trả thuế Bảo hiểm xã hội là đồng ý không nói,và đưa một số lao động hay cằn nhằn (hoặc lao độngcũ) ra ngoài, nếu một hệ thống như
thế có thể được duy trì thì đó là điều đáng ngạc nhiên.
9 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1231 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Thuế, bài 4: Các phản ứng đối với thuế -- Sự thay thế, Tránh thuế, và Trốn thuế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ta sẽ mua sắm ở ngoài bang hoặc chuyển sang sử dụng loại khác. Bạn có thể tìm thấy một danh sách
các loại thuế của bang về bia, rượu và các loại khác ở trang trên.
Những người mua bia và thuốc lá ngoại bang làm nổi bật cuộc cạnh tranh về thuế giữa các bang.
Cạnh tranh về thuế là nguyên nhân giải thích việc các chính phủ trên toàn thế giới tìm kiếm những hoá đơn thuế ở mức cao hơn. Mặt khác, cạnh
tranh về thuế là một lực rất hiệu quả bảo về người ta khỏi các loại thuế cao hơn.
Ở mức địa phương hay bang, chính quyền phải cạnh tranh để đầu tư vào khu vực kinh tế tư nhân theo cách giống như là các công ty cạnh tranh
để thu hút khách hàng. Bang có thuế thấp có thể thu hút đầu tư tư nhân hơn những bang có thuế cao. Tương tự, nếu một bang đánh thuế hàng
hoá/môn bài về bia và thuốc lá thấp hơn nhưng bang bên cạnh thì bang có thuế thấp hơn đó sẽ thu hút được việc kinh doanh buôn bán của
những cư dân các bang xung quanh, những người sống gần biên giới.
Thuế bia và thuốc lá đã từng là công cụ làm tăng thu nhập yêu thích của nhiều chính trị gia trong nhiều năm, và không có năm nào là bằng
chứng về điều đó rõ hơn năm 1998. Không có bang nào tăng mức thuế bán, mức thuế thu nhập cá nhân hay mức thuế thu nhập tập thể, và
nhiều loại thuế môn bài được giảm xuống, nhưng ở một bang thuế bia tăng, và ở năm bang khác thuế thuốc lá tăng.
Đề nghị tăng các loại thuế hàng hoá này ít khi đề cập tới việc hầu hết những người phải trả loại thuế này đều có thu nhập thấp. Cũng không có
người ủng hộ những loại thuế "lỗi" này nói nhiều về giá cả càng ngày càng cao mà những người có thu nhập thấp phải trả. Thay vào đó, họ yêu
cầu ngăn cản việc hút thuốc và uống rượu. Cái sự gọi là ngăn chặn đó thường được xác nhận bởi các số liệu không liên quan gì tới việc mua bán
qua biên giới. Để nâng cao tầm hiểu biết của những vấn đề chính sách công cộng quan trọng này, những người lập pháp và xã hội cần phải hiểu
thị trường bia và thuốc lá phản ứng với thuế môn bài cao và thấp như thế nào.
Hai nghiên cứu gần đây của Hiệp hội thuế đã khám phá ra nhiều con đường khác nhau mà người tiêu dùng có thể tiết kiệm được tiền khi tiêu
vào những thứ bị đánh thuế cao này. Bằng cách sử dụng các mô hình kinh tế tinh vi về thị trường thuốc lá và thị trường bia, ta có thể theo các
khuynh hướng trong hệ thống thuế tới tận năm 1997, đồng thời kiểm tra thuế môn bài sau khi các bang đã thay đổi thói quen mua sắm của
những người uống bia và hút thuốc lá.
Mua bán bia qua biên giới.
Bán bia ở Mỹ trở thành một trường hợp nghiên cứu thú vị về hiện tượng mua sắm qua biên giới, và là đề tài của nhà kinh tế học Patrick Fleenor
ở Báo Kiến thức nền tảng gần đây, số 31 của Hiệp hội thuế trong loạt bài có tiều đề Những khác biệt về thuế môn bài ảnh hưởng thế nào tới
việc bán bia qua biên giới ở Mỹ.
Trong lúc bài nghiên cứu đo phạm vi mua sắm qua biên giới ở mỗi bang, kết quả rất tự nhiên, đó là phạm vi dọc theo các đường biên giới nơi có
sự khác biệt lớn về thuế. Chẳng hạn, Bang Washington, đánh thuế bán toàn bang là 6.5%, thuế bán địa phương thêm vào đó và thuế môn bài
bia là $7.172 mỗi thùng, có chung đường biên giới với Oregon, không đánh thuế bang và thuế bán địa phương và thuế bia chỉ có $2.60 mỗi
thùng.
Trong tình huống này, một số lượng bia lớn vượt qua biên giới, nhưng việc di chuyển của hoạt động kinh tế này ảnh hưởng nhiều hơn là tới việc
thu thuế hàng hoá và thuế bán cho một loại sản phẩm cụ thể. Việc mua sắm qua biên giới ảnh hưởng tới việc thu thuế bất động sản và thuế thu
nhập, chi phí môn bài, và những nguồn khác của thu nhập chính phủ.
Những người làm chính sách thường bị ngạc nhiên bởi quy mô ảnh hưởng thu nhập, và những sự ngạc nhiên như vậy có thể gây khó chịu khi
Chính phủ cần phải duy trì cân bằng ngân sách.
Tránh thuế thuốc lá.
Xuất bản cuối năm 1998, bài số 26 trong loạt Báo Kiến thức cơ sở của Hiệp hội thuế, Sự khác biệt của thuế hàng hoá ảnh hưởng tới việc bán
thuốc lá qua biên giới và buôn lậu giữa các bang của Mỹ, nhà kinh tế học lâu năm Patrick Fleenor, kiểm nghiệm tất cả các phương pháp mà
những người hút thuốc lá đã sử dụng nhiều năm để tránh thuế thuốc lá quá cao.
Page 7 of 9Thuế: Các phản ứng đối với thuế -- Sự thay thế, Tránh thuế, và Trốn thuế :: kinhtehoc.co...
3/15/2007
Bằng cách nào đó, tất cả đều có liên quan tới vượt biên, hoặc là biên giới giữa các bang, biên giới quốc tế hay ?những biên giới? của những
phạm vi thuế thấp như những căn cứ quân sự và vùng lãnh thổ dành riêng cho những bộ lạc người Mỹ bản xứ. Trong trường hợp thuốc lá,
không phải tất cả các hoạt động qua biên giới chỉ là những vụ mua bán kiếm lời vô hại. Buôn lậu thuốc lá có tổ chức trên quy mô rộng đã xảy ra
trên phạm vi thuế cao và thuế thấp là một điểm nhấn quan trọng trong nghiên cứu này, và gây sự chú ý của các cơ quan quyền lực về thuế của
các bang và liên bang cũng như những người làm chính sách.
Ảnh hưởng của mức thuế biên tới sai lệch.
Nên nhớ rằng chính mức thuế biên là nguyên nhân của sự sai lệch, không phải là mức thuế trung bình. Dĩ nhiên, nếu một người một quyết định
làm việc 40 tiếng một ngày trong một thời gian theo kiểu "được tất cả ngã về không", mức thuế trung bình khi đó chính là mức thuế biên tương
đương.
Mức thuế biên càng lớn thì sai lệch càng lớn.
Có thể tìm thông tin về rất nhiều loại thuế ở các bang khác nhau tại:
Mức thuế bắt buộc có hiệu quả.
Vấn đề về mức thuế cưỡng bức rất khó ước định được, thậm chí trên lý thuyết.
Đây là sơ đồ phân tích biên bắt buộc.
Có một vài yếu tố phức tạp.
Trước hết, bất cứ việc thu thêm nào từ việc tăng thuế bắt buộc về cơ bản là sự chuyển đổi từ người trả thuế sang cho Chính phủ và, nhìn từ
quan điểm xã hội, không sinh ra thêm được lợi nhuận gì.
Thứ hai, mức tăng bắt buộc cho phép Chính phủ đạt tới mức tổng thu giống như mức thuế thấp hơn, làm cho những sai lệch trong cơ cấu kinh
tế ít đi, và thu được lợi nhuận khó có thể đo được.
Tăng thuế bắt buộc còn gây thêm một ảnh hưởng nữa là gánh nặng lên những người chịu thuế vô tội tham gia vào mạng lưới. Thậm chí nếu vô
tội và trả hết các khoản thuế, chi phí để trải qua các cuộc kiểm tra trong danh sách là khá lớn, và nhà chức trách về thuế thường không thích
quan tâm tới phí tổn khi xem xét tới mức thuế bắt buộc.
Cuối cùng, sự bắt buộc này lại là vật bảo đảm trong hệ thống thuế. Như đã được nhắc tới từ trước, người ta thường sẵn sàng trả thuế nếu họ
biết hệ thống thuế là công bằng. Sự bắt buộc làm cho hệ thống thuế trở nên đáng tin cậy.
Những dự đoán theo kinh nghiệm về ảnh hưởng của thuế thu nhập tới nguồn cung ứng lao động.
Một số người thường hỏi về ảnh hưởng chính xác mà Thuế thu nhập của Mỹ đã tác động tới nguồn cung ứng lao động, và số lượng gánh nặng
Page 8 of 9Thuế: Các phản ứng đối với thuế -- Sự thay thế, Tránh thuế, và Trốn thuế :: kinhtehoc.co...
3/15/2007
quá tải sinh ra từ đó.
Bruce đưa ra một thảo luận khá hay về một số kết quả dự đoán theo kinh nghiệm (trang 434-36).
Hausman (Thuế và Nguồn cung ứng lao động (Taxes and the Labor Supply), trong cuốn Sổ tay về Kinh tế học) thấy rằng cả những ảnh hưởng
tới sự thay thế và thu nhập của những thay đổi về tiền lương sau thuế là rất lớn đối với những người đàn ông đã lập gia đình và về cơ bản
chúng tự xoá bỏ nhau, vì vậy độ co giãn của cung ứng lao động là tương đối thấp. Tuy nhiên, đối với phụ nữ đã lập gia đình, độ co giãn về
lương sau thuế của cung ứng lao động thì lớn hơn. Kết quả là, ông ta đã ước đoán rằng gánh nặng quá tải từ thuế thu nhập là gần 22% tổng
thuế thu được.
Tác phẩm tiếp theo đã cho thấy Hausman có lẽ đã đánh giá quá cao độ co giãn về lương sau thuế của cầu, ước đoán một gánh nặng thuế quá
lớn.
Theo kết quả trên ý kiến đồng tình chung là độ co giãn về lương sau thuế của phụ nữ đã lập gia đình có thể lớn hơn đàn ông. Có lẽ bạn đã hài
lòng với ý tưởng là ước đoán của Hausman là một giới hạn lớn hơn ảnh hưởng tới số lượng thiệt hại cụ thể.
Links
[1]
[2]
[3]
Page 9 of 9Thuế: Các phản ứng đối với thuế -- Sự thay thế, Tránh thuế, và Trốn thuế :: kinhtehoc.co...
3/15/2007
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bai 4 - Thue, Cac phan ung doi voi thue, Su thay the, Tranh thue, va Tron thue.pdf