Thực trạng về dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng thương mại Việt Nam

Lịch sử hình thành và phát triển của NHTM gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ vàng, của những kẻ cho vay nặng lãi. Các ngân hàng này cho vay với cá nhân, chủ yếu là những người giaù như quan lại, địa chủ, vua chúa nhằm mục đích phục vụ tiêu dùng, tài trợ một phần nhu cầu chi tiêu cho chiến tranh. Hình thức cho vay chủ yếu là thấu chi. Do lợi nhuận từ cho vay rất cao, nhiều chủ ngân hàng đã lạm dụng ưu thế của chứng chỉ tiền gửi, phát hành chứng chỉ tiền gửi khống để cho vay. Thực trạng này đã đẩy nhiều ngân hàng đến chỗ mất khả năng thanh toán và phá sản.

doc32 trang | Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1475 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Thực trạng về dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng là một quan hệ gắn bó mật thiết, có tác động qua lại và hỗ trợ cho nhau trong quá trình phát triển. Hoạt động ngân hàng với rất nhiều dịch vụ đã phần nào đáp ứng được nhu cầu của xã hội cũng như của khách hàng. Tuy nhiên, còn rất nhiều dịch vụ chưa được ngân hàng khai thác hết. Mặt khác, các ngân hàng thương mại ở nước ta hiện nay đang trong quá trình thực hiện chiến lược nâng cao khả năng cạnh tranh trước yêu cầu mở của thị trường dịch vụ tài chính, hội nhập quốc tế, chuẩn bị thực hiện các cam kết trong khuôn khổ WTO. Trọng tâm của chiến lược này là hiện đại hoá công nghệ, phát triển dịch vụ, nâng cao trình độ quản trị điều hành theo chuẩn mực quốc tế… Bởi vậy, phát triển và đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng trở thành vấn đề tất yếu khách quan, là vấn đề cấp bách đối với tất cả các ngân hàng thương mại trong nước. Trong các dịch vụ đó thì bảo lãnh ngân hàng là một dạng dịch vụ ngân hàng hiện đại. Bảo lãnh xuất hiện vào giữa những năm 60 ở một thị trường nội địa nước Mỹ. Sau đó, vào đầu những năm 70, bảo lãnh bắt đầu được sử dụng trong các giao dịch thương mại quốc tế. Và kể từ đó đến nay, với khả năng ứng dụng rộng rãi trong các loại giao dịch (tài chính lẫn phi tài chính, thương mại lẫn phi thương mại), vị trí của bảo lãnh ngân hàng ngày càng được củng cố một cách chắc chắn. Bảo lãnh ngân hàng là một trong các hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng. Nhưng khác các hình thức cấp tín dụng khác như cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính; khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, tổ chức tín dụng không phải cung ứng vốn cho khách hàng mà chỉ dùng uy tín và khả năng tài chính của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cho khách hàng. Như vậy, về bản chất thì bảo lãnh ngân hàng là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, nó mang tính phái sinh (phát sinh từ nghĩa vụ chính được giao kết giữa khách hàng với bên thứ ba). Nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng đem lại rất nhiều tiện ích cho khách hàng. Do được bảo lãnh mà trong nhiều trường hợp, khách hàng không phải xuất quỹ, được thu hồi vốn nhanh, được kéo dài thời gian thanh toán hàng hoá, dịch vụ, nghĩa vụ nộp thuế… Chính vì vậy, bảo lãnh ngân hàng ngày càng phát triển và đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế. Hoạt động này không chỉ đem lại nguồn thu ngày càng lớn cho các tổ chức tín dụng, mà quan trọng hơn nó đem lại sự tin tưởng của các chủ thể khi giao kết hợp đồng. Nó chính là chất xúc tác thúc đẩy các hoạt động thương mại, dân sự trong nước và quốc tế ngày càng phát triển. Như vậy, thông qua nghiên cứu hoạt động bảo lãnh ngân hàng, chúng ta có thể tìm ra những yếu kém còn tồn tại, từ đó đưa ra các giải pháp phát triển và hoàn thiện hơn nữa các hoạt động của ngân hàng, tạo tiền đề quan trọng, vững chắc trong việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Ngoài lời nói đầu và kết luận, đề tài được kết cấu thành hai phần: Phần 1: Một số vấn đề cơ bản về dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng thương mại Phần 2: Thực trạng về dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng thương mại Việt Nam DANH MỤC CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT Thuật ngữ đầy đủ Thuật ngữ viết tắt 1. Ngân hàng thương mại NHTM 2. Ngân hàng Trung ương NHTW 3. Ngân hàng Nhà nước NHNN 4. Bảo lãnh ngân hàng BLNH 5. Dịch vụ ngân hàng DVNH 6. Tổ chức tín dụng TCTD 7. D ịch vụ bảo lãnh DVBL PHẦN 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại Lịch sử hình thành và phát triển của NHTM gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ vàng, của những kẻ cho vay nặng lãi. Các ngân hàng này cho vay với cá nhân, chủ yếu là những người giaù như quan lại, địa chủ, vua chúa… nhằm mục đích phục vụ tiêu dùng, tài trợ một phần nhu cầu chi tiêu cho chiến tranh. Hình thức cho vay chủ yếu là thấu chi. Do lợi nhuận từ cho vay rất cao, nhiều chủ ngân hàng đã lạm dụng ưu thế của chứng chỉ tiền gửi, phát hành chứng chỉ tiền gửi khống để cho vay. Thực trạng này đã đẩy nhiều ngân hàng đến chỗ mất khả năng thanh toán và phá sản. Sự sụp đổ của ngân hàng gây khó khăn cho hoạt động thanh toán, ảnh hưởng xấu tới hoạt động buôn bán. Hơn nữa, lãi suất cao nên những nhà buôn không thể sử dụng nguồn này. Trước tình hình đó, nhiều nhà buôn tự thành lập ngân hàng, gọi là NHTM. Như vậy, NHTM được hình thành xuất phát từ vận động của tư bản thương nghiệp, và gắn liền với quá trình luân chuyển của tư bản thương nghiệp. NHTM cũng thực hiện các nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng như huy động tiền gửi, thanh toán hộ, cất giữ hộ và cho vay. Để đảm bảo an toàn, NHTM ban đầu không cho vay đối với người tiêu dùng, không cho vay trung và dài hạn, không cho vay đối với Nhà nước. Cùng với sự phát triển kinh tế và công nghệ, hoạt động ngân hàng đã có những bước tiến rất nhanh. Trước hết là sự đa dạng hoá các loại hình ngân hàng và các hoạt động ngân hàng. NHTM từ chỗ chỉ cho vay ngắn hạn đã mở rộng cho vay trung và dài hạn, cho vay để đầu tư vào bất động sản. Bên cạnh các hình thức huy động tiền gửi, các ngân hàng đã mở rộng hình thức vay như vay NHTW, vay các ngân hàng khác. Công nghệ ngân hàng đang góp phần làm thay đổi các hoạt động cơ bản của ngân hàng. Thanh toán điện tử đang thay thế dần thanh toán thủ công, các loại thẻ đang thay thế dần tiền giấy và dịch vụ ngân hàng 24h, dịch vụ ngân hàng tại nhà tạo ra các tiện ích ngày càng lớn cho dân chúng. Như vậy, ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Có nhiều cách định nghĩa về ngân hàng. Nhưng khi xem xét trên phương diện các loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp thì Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán, và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. 1.1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại 1.1.2.1. Trung gian tài chính Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại các nhân và tổ chức trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn; và (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại của hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ (1) sang nhóm thứ (2) nếu cả hai cùng có lợi. Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm. Quan hệ tín dụng trực tiếp đã có từ rất lâu và tồn tại cho đến ngày nay. Tuy nhiên, sự không phù hợp về quy mô, thời gian, không gian… đã cản trở quan hệ trực tiếp phát triển và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Do chuyên môn hoá, trung gian tài chính có thể làm giảm chi phí giao dịch, làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó mà khuyến khích tiết kiệm; đồng thời giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư (tăng thu nhập cho người đầu tư), từ đó mà khuyến khích đầu tư. Trung gian tài chính đã tập hợp các người tiết kiệm và đầu tư, vì vậy mà giải quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp. Cơ chế hoạt động của trung gian sẽ có hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng các kĩ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch. 1.1.2.2. Tạo phương tiện thanh toán Tiền – vàng có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán. Các ngân hàng đã không tạo được tiền kim loại. Các ngân hàng thợ vàng tạo phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Giấy nhận nợ do ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ; nó trở thành tiền giấy. Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, đồng thời với nhu cầu có đồng tiền quốc gia duy nhất đã dẫn đến việc Nhà nước tập trung quyền lực phát hành (in) tiền giấy vào một tổ chức hoặc là Bộ tài chính hoặc là NHTW. Từ đó chấm dứt việc các NHTM tạo ra các giấy bạc của riêng mình. Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy nếu họ có số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông (MO), thứ hai là số dư tài khoản tiền gửi giao dịch của các khách hàng tại các ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kì hạn… Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng hoá và dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay (hay tạo ra tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán (tham gia tạo ra M1). Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo ra phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu (tức làm tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác, từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra lượng tiền gửi mà hệ thống ngân hàng tạo ra chịu tác động trực tiếp của các nhân tố như: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt qua ngân hàng, tỷ lệ tiền gửi không phải là tiền gửi thanh toán… 1.1.2.3. Trung gian thanh toán Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí; ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như: thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, các loại thẻ… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bừ trừ với nhau thông qua NHTW hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiêụ quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lý tìm cách áp dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu. 1.1.3. Các dịch vụ của ngân hàng thương mại Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dich vụ cho công chúng và doanh nghiệp. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả. Các dịch vụ của ngân hàng bao gồm: 1.1.3.1. Mua bán ngoại tệ Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi (mua bán) ngoại tệ - một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao. 1.1.3.2. Nhận tiền gửi Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm mọi cách để huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi (thanh toán và tiết kiệm của khách hàng). Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh. 1.1.3.3. Cho vay Gồm có: cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng, tài trợ cho dự án. Thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu, cho vay đối với những người bán. Sau đó là bước chuyển tiếp từ thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh. Trong giai đoạn đầu, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng. Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao. Mặc dù rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là cao song lãi lại lớn. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào đất. 1.1.3.4. Bảo quản vật có giá Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản, đồng thời giao cho khách hàng tờ biên nhận. Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho giấy chứng nhận, nên giấy chứng nhận đã được sử dụng như tiền – dùng để thanh toán các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành. Đây là hình thức đầu tiên của giấy bạc ngân hàng. Ngày nay, vật có giá được tách khỏi tiền gửi và khách hàng phải trả phí bảo quản. 1.1.3.5. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán Khi các doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng, họ nhận thấy ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách (còn được gọi là séc), khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều thể thức thanh toán được phát triển như: uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh toán bằng điện, thẻ… 1.1.3.6. Quản lý ngân quỹ Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền cho các doanh nghiệp và cá nhân nên ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ. 1.1.3.7. Tài trợ các hoạt động của Chính phủ Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong khi thu không đủ, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân hàng. Trong điều kiện các ngân hàng tư nhân không muốn tài trợ cho Chính phủ vì rủi ro cao, Chính phủ thường dùng một số đặc quyền trao đổi lấy các khoản vay của những ngân hàng lớn. Ngày nay, Chính phủ giành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. 1.1.3.8. Bảo lãnh Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của TCTD khác. 1.1.3.9. Cho thuê thiết bị trung và dài hạn (Leasing) Nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Hợp đồng cho thuê thường phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phải trả tới hơn 2/3 giá trị của tài sản cho thuê. Do vậy, cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay, được xếp vào tín dụng trung và dài hạn. 1.1.3.10. Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư… Thậm chí, các ngân hàng còn đóng vai trò là người được uỷ thác trong di chúc. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp cho khách hàng. 1.1.3.11. Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán. 1.1.3.12. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán. 1.1.3.13. Cung cấp các dịch vụ đại lý Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng (thường ngân hàng lớn) cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như: thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ… 1.2. DỊCH VỤ BẢO LÃNH CỦA NHTM (BLNH) 1.2.1. Khái niệm, bản chất và vai trò của BLNH 1.2.1.1. Khái niệm Quy chế BLNH ban hành kèm theo Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/6/2006 của Ngân hàng Nhà nước (gọi là quy chế mới) quy định việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh của các TCTD đối với khách hàng. Khoản 1 trong Điều 2 của Quy chế mới quy định: BLNH là cam kết bằng văn bản của TCTD (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghiã vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả nợ cho TCTD số tiền đã được trả thay. Như vậy, quan hệ BLNH ít nhất bao gồm 3 chủ thể: bên bảo lãnh, bên được bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh. TCTD thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh (hay bên bảo lãnh) là các TCTD được thành lập, hoạt động theo Luật các TCTD; trong trường hợp bên nhận bảo lãnh là các tổ chức và cá nhân nước ngoài thì chỉ các ngân hàng được NHNN cho phép hoạt động thanh toán quốc tế mới được thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. Khách hàng được TCTD bảo lãnh (hay bên được bảo lãnh) là các tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài, trừ những người quản lý, điều hành của TCTD, những người thân thích của những người này và các cán bộ, nhân viên thực hiện thẩm định, quyết định bảo lãnh. Người thụ hưởng bảo lãnh (hay bên nhận bảo lãnh) là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có quyền thụ hưởng bảo lãnh của TCTD. Vai trò của BLNH: - BLNH thúc đẩy quá trình chu chuyển vốn, hàng hoá trong cũng như ngoài nước, khuyến khích tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhập nguyên liệu, máy móc… từ đó sẽ duy trì và mở rộng sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm, tạo công ăn việc làm… góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. - BLNH tạo điều kiện thúc đẩy và là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn và các ngành kinh tế kém phát triển. Ngân hàng có thể khuyến khích các ngành kinh tế mũi nhọn bằng việc tăng cường ưu tiên bảo lãnh để cho họ có vốn để tăng cường sản xuất. Đối với các ngành kinh tế mũi nhọn, ngân hàng có thể dùng chính sách ưu đãi về giảm tỷ lệ phí bảo lãnh để tạo điều kiện cho các ngành này thực hiện các hợp đồng mua bán hàng hoá, vay nợ… để phát triển sản xuất kinh doanh. - BLNH giúp cho các doanh nghiệp tăng cường sự tin cậy khi ký kết các hợp đồng, hạn chế được các rủi ro. - BLNH tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thu hút vốn thông qua việc phát hành chứng khoán có sự bảo lãnh của ngân hàng. Đồng thời tạo ra công cụ hoạt động và phát triển thị truờng chứng khoán, các doanh nghiệp có được một khoản vay thuận lợi cho việc sử dụng với chi phí thấp hơn so với việc vay vốn của các NHTM nước ngoài. 1.2.1.2. Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng Bảo lãnh ngân hàng có các đặc điểm sau: - Là mối quan hệ nhiều bên phụ thuộc lẫn nhau: Trong một nghiệp vụ BLNH thường có sự kết hợp giữa 3 hợp đồng độc lập: Hợp đồng giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh, hợp đồng giữa bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh, hợp đồng giữa bên nhận bảo lãnh và bên bảo lãnh. + Bên bảo lãnh: là người phát hành bảo lãnh như các NHTM, ngân hàng đầu tư phát triển, ngân hàng chính sách, các TCTD khác thành lập và hoạt động theo Luật các TCTD. + Bên được bảo lãnh: là các khách hàng phải thực hiện các nghĩa vụ chi trả, gồm: Doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại một nước, doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể. + Bên nhận bảo lãnh: là các tổ chức, cá nhân, trong và ngoài nước có quyền hưởng thụ các cam kết bảo lãnh của TCTD. - BLNH có tính độc lập tương đối so với hợp đồng: Mặc dù mục đích của BLNH là bồi hoàn cho nguời thụ hưởng những thiệt hại từ việc không thực hiện hợp đồng của người được bảo lãnh trong quan hệ hợp đồng, nhưng việc thanh toán một bảo lãnh chỉ hoàn toàn căn cứ vào các điều khoản và điêù kiện được quy định trong bảo lãnh. - Tính phù hợp của bảo lãnh: Khi người thụ hưởng bảo lãnh đến yêu cầu TCTD thanh toán thì TCTD có trách nhiệm kiểm tra các chứng từ do ngưòi thụ hưởng xuất trình. TCTD bảo lãnh có quyền từ chối thanh toán nếu như chứng từ có dấu hiệu không hợp lệ hay những điều kiện của bảo lãnh không được đáp ứng. 1.2.1.3. Bản chất và ý nghĩa của BLNH - BLNH được dùng như một công cụ bảo đảm Chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh là cung cấp một sự đảm bảo cho người hưởng bảo lãnh vì nó cung cấp cho họ một khoản bồi hoàn tài chính cho những thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng của người yêu cầu bảo lãnh gây ra. - BLNH được dùng như một công cụ tài trợ Hầu hết các hợp đồng thi công và thậm chí một số hợp đồng buôn bán lớn đòi hỏi phải có một khoảng thời gian dài mới thực hiện xong. Điều này đặt ra nhu cầu tài trợ cho dự án. Người thi công sẽ rất gặp khó khăn về tài chính và chịu nhiều rủi ro nếu như phải hoàn tất công trình hay từng hạn mục công trình thì mới nhận được thanh toán của chủ công trình. Vì vậy, công ty xây dựng sẽ thương lượng với chủ công trình về một khoản tiền tài trợ cho mình. Ngân hàng của công ty xây dựng sẽ phát hành bảo lãnh hoàn trả tiến ứng trước như một công cụ tài trợ để công ty nhận được khoản tiền ứng trước từ phía nhà đầu tư. Như vậy, bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân hàng không phải xuất tiền ngay khi bảo lãnh, và bảo lãnh được coi như tài sản ngoại bảng. Tuy nhiên khi khách hàng không thực hiện được cam kết, ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ chi trả cho bên thứ ba. Khoản chi trả này được xếp vào loại tài sản “xấu” trong nội bảng, cấu thành nợ quá hạn. Vì vậy, bảo lãnh cũng chứa đựng các rủi ro như một khoản cho vay và đòi hỏi ngân hàng phải phân tích khách hàng như khi cho vay. - BLNH được dùng như công cụ đôn đốc hoàn thành hợp đồng Việc thanh toán bảo lãnh dựa trên vi phạm hợp đồng của người yêu cầu bảo lãnh. Trong suốt thời hạn hiệu lực của bảo lãnh phát hành, người hưởng bảo lãnh có quyền yêu cầu ngân hàng phát hành thanh toán bảo lãnh khi người yêu cầu bảo lãnh vi phạm hợp đồng (bất kể ở mức độ nào và gây thiệt hại cho người hưởng bảo lãnh bao nhiêu). Như vậy, người yêu cầu bảo lãnh luôn phải chịu một áp lực của việc bồi hoàn bảo lãnh nên hết sức cố gắng hoàn thành tốt hợp đồng mà hai bên đã ký. Như vậy, BLNH tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro. Trách nhiệm tài chính trước hết thuộc về khách hàng, trách nhiệm của ngân hàng là thứ cấp khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba. Do mối liên hệ giữa ngân hàng với khách hàng có khả năng ràng buộc khách hàng phải thực hiện các cam kết. Bảo lãnh góp phần giảm bớt thiệt hại tài chính cho bên thứ ba khi tổn thất xảy ra. Đồng thời cũng góp phần mở rộng các dịch vụ khác như: kinh doanh ngoại tệ, tư vấn,… 1.2.2. Phân loại bảo lãnh ngân hàng Có nhiều tiêu thức để phân loại bảo lãnh, sau đây là một số tiêu thức cơ bản: 1.2.2.1. Căn cứ vào bản chất của bảo lãnh 1.2.2.1.1. Bảo lãnh đồng nghĩa vụ (hay bảo lãn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docthuc_trang_ve_dich_vu_bao_lanh_cua_ngan_hang_thuong_mai_viet_nam_.doc