Thưc trạng phát triển kinh tế tư nhân và các giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay

Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN vấn đề phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được đặt ra như một yêu cầu tất yếu đối với nền kinh tế Việt Nam. Kinh tế tư bản tư nhân là một bộ phận trong cơ cấu ấy đã có một thời kỳ bị coi là đối lập với kinh tế XHCN, vì vậy phải nằm trong diện cải tạo xoá bỏ. Song thực tiễn đã cho thấy quan niệm như vậy là cực đoan và sự xuất hiện trở lại của kinh tế tư bản tư nhân đã góp phần không nhỏ vào sự thay đổi bộ mặt của nền kinh tế theo hướng tích cực. Cùng với chủ trương chuyển nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường , Đảng và nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư bản tư nhân. Tuy nhiên, kinh tế tư bản tư nhân, thành phần kinh tế non trẻ của nước ta đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Nhiều vấn đề bất cập trong xã hôi, trong chủ trương chính sách và tổ chức quản lý đang là trở ngại cho sự phát triển của thành phần kinh tế này.

Nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới. Cơ hội phát triển rút ngắn, thực hiện thành công CNH, HĐH phấn đấu đưa Việt Nam về cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 là hiện thực. Tuy nhiên, để thực hiện được mục tiêu này đòi hỏi phải có vốn đầu tư lớn với sự giải phóng tối đa lực lượng sản xuất xã hội. Trong bối cảnh các nguồn lực kinh tế của Việt Nam còn đang hạn chế, xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần, còn kinh tế tư bản tư nhân như một động lực phát triển cơ bản là một hướng đi hoàn toàn đúng đắn. Trong những năm vừa qua mặc dù đã có bước phát triển tốt, kinh tế tư bản tư nhân Việt Nam vẫn chưa thực sự có được một vai trò tương xứng với tiềm năng của nó. Bài viết này sẽ tập trung làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản sau đây :

"Thưc trạng phát triển kinh tế tư nhân và các giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân ở việt nam hiện nay"

 

doc23 trang | Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1367 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Thưc trạng phát triển kinh tế tư nhân và các giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN vấn đề phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được đặt ra như một yêu cầu tất yếu đối với nền kinh tế Việt Nam. Kinh tế tư bản tư nhân là một bộ phận trong cơ cấu ấy đã có một thời kỳ bị coi là đối lập với kinh tế XHCN, vì vậy phải nằm trong diện cải tạo xoá bỏ. Song thực tiễn đã cho thấy quan niệm như vậy là cực đoan và sự xuất hiện trở lại của kinh tế tư bản tư nhân đã góp phần không nhỏ vào sự thay đổi bộ mặt của nền kinh tế theo hướng tích cực. Cùng với chủ trương chuyển nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường , Đảng và nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư bản tư nhân. Tuy nhiên, kinh tế tư bản tư nhân, thành phần kinh tế non trẻ của nước ta đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Nhiều vấn đề bất cập trong xã hôi, trong chủ trương chính sách và tổ chức quản lý đang là trở ngại cho sự phát triển của thành phần kinh tế này. Nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới. Cơ hội phát triển rút ngắn, thực hiện thành công CNH, HĐH phấn đấu đưa Việt Nam về cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 là hiện thực. Tuy nhiên, để thực hiện được mục tiêu này đòi hỏi phải có vốn đầu tư lớn với sự giải phóng tối đa lực lượng sản xuất xã hội. Trong bối cảnh các nguồn lực kinh tế của Việt Nam còn đang hạn chế, xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần, còn kinh tế tư bản tư nhân như một động lực phát triển cơ bản là một hướng đi hoàn toàn đúng đắn. Trong những năm vừa qua mặc dù đã có bước phát triển tốt, kinh tế tư bản tư nhân Việt Nam vẫn chưa thực sự có được một vai trò tương xứng với tiềm năng của nó. Bài viết này sẽ tập trung làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản sau đây : "Thưc trạng phát triển kinh tế tư nhân và các giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân ở việt nam hiện nay" Đây là bài đề án đầu tiên của tôi nên không tránh khỏi nhưng thiếu sót rất mong nhận được sự góp ý của cô giáo và các bạn để bài đề án sau của tôi đươc hoàn thiện hơn. Sinh viên: Hà Văn Đạt MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN 1. Tính tất yếu tồn tại Kinh Tế Tư Nhân : Mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta theo chủ nghĩa Mac Lênin và tư tưởng hồ chí minh . Một trong những nhiệm vụ là xác lập quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất , nhằm phát triển kinh tế xã hội . Trong đó nội dung cốt lõi là xác lập cơ cấu về sở hữu tư liệu sản xuất và cơ cấu các thành phần kinh tế một cách phù hợp với yêu cầu của quy luật thực tế khách qua của trong thời kỳ quá độ của nước ta . Bước khởi đầu đổi mới trong đó có việc mở đường phát triển kinh tế tư nhân đã diễn ra từ năm 1979 , khi đó nghị quyết hội nghị lần thứ IV , BCHTƯ Đảng khoá IV . Đó là bước đầu chấp nhận kinh tế tư nhân và kinh tế hàng hoá , dù còn nhiều hạn chế về quy mô và lĩnh vực hoạt động , nhưng đã lập tức nẩy sinh vứơng mắc về lý luận vì đụng đến nguyên lý cơ bản của nền kinh tế công hữu và kế hoạch hoá tập trung , nay lại mở đường cho kinh tế tư nhân và kinh tế thị trường có thể lợi trước mắt , nhưng lâu dài liệu còn chủ nghĩa xã hội ?” . Hầu như mọi vấn đề lý luận nảy sinh từ bước mở đầu phát triển kinh tế tư nhân cho đến nay đều xoay quanh câu hỏi đó . Dẫu còn ý kiến băn khoăn , cuộc mở đường và phát triển vẫn diễn ra trước hết do áp lực mạnh mẽ từ thực tế , đông đảo nhân dân và đảng viên , cán bộ đã rất năng động tìm tòi sáng tạo nhiều nhân tố mới , không thụ động chấp hành theo “ cơ chế không phù hợp thực tế ” , đòi hỏi “cơỉ trói ” , “tháo gỡ ” để sản xuất phát triển nâng cao đời sống nhân dân đang quá khó khăn thiếu thốn. Khó khăn đó có nguyên nhân khách quan , nhưng nguyên nhân chủ quan, chủ yếu và trực tiếp là do một số sai lầm trong cải tạo, tập thể hóa và sự duy trì cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, ngăn cấm kinh tế tư nhân và quan hệ thị trường. Và thời gian đó, nguồn vật tư hàng hoá và tài chính trong tay Nhà nước đã cạn kiệt, trong khi nguồn khả năng trong dân còn nhiều thiếu thốn. Thưc tế đó đưa tới đòi hỏi phải “tháo gỡ” từng bước cho kinh tế tư nhân và tư do trao đổi hàng hoá .Sự tháo gỡ nhanh chóng đưa lại hiệu quả nổi bật ,càng giúp khẳng định quyết tâm tháo gỡ. Cùng với áp lực đổi mơí từ thực tế cuộc sống, về mặt tư tưởng lý luận, ngay từ buổi đầu đã gặp nhiều thuận lợi do những nước xã hội chủ nghĩa lúc đang có trào lưu trở lại những tư tưởng của Lênin trong chính sách kinh tế mới ,nổi bật nhất là sự tất yếu phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Việt Nam là nước vừa mới phát triển kinh tế sau chiến tranh ,tự biết mình còn thiếu vốn lý luận và kinh nghiệm, nên đã rất coi trọng tổ chức nghiên cứu học tập và khai thác kiến thức và kinh nghiệm quốc tế. Tuy nhiên, đặc điểm nổi bật của bước mở đường đổi mới trên thực tế của nhân dân. Trên đất nước ta, các năm từ 1979 đến đại hội VI (1986 )Đảng và nhà nước đã liên tục cổ vũ và tạo phong trào tìm tòi sáng tạo và phát huy nhân tố mới trên thực tế. Qua đó, từng bước tổng kết , ban hành chính sách và thể chế mới. Bước đổi mới chính sách kinh tế của đại hội VI ( 1986 ) kế đó là hội nghị lần thứ 6 (1989 ) BCHTƯ Đảng khoá VI , chính là kết quả tổng kết thực tế , tự chủ vận dụng sáng tạo tư tưởng Lênin về phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và quan hệ thị trường để xúc tiến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với Việt Nam . Chính sách mới của đại hội VI , do phù hợp với thực tế và ý nguyện của nhân dân , đã đi vào cuộc sống rất nhanh , tạo cơ sở lý luận và niềm tin mạnh mẽ trong toàn đảng, toàn dân trong sự nghiệp đổi mới, trong đó phát triển kinh tế tư nhân và kinh tế thị trường đã trở thành xu hướng không thể đảo ngược dù gặp khó khăn vướng mắc thăng trầm . Kế tục chính sách của Đại hội VI về phát triển kinh tế tư nhân và kinh tế thị trường 2. Vai trò và vị trí của thành phần kinh tế tư nhân . 2.1. Về cơ cấu nghành nghề kinh doanh. Đặc trưng bao quát là đầu tư tập trung vào các nghành thương nghiệp, dịch vụ, công nghiệp chế biến, đánh bắt và nuôi trồng thuỷ hải sản ,xây dựng ,vận tải kho bãi và thông tin liên lạc ,khách sạn nhà hàng, kinh doanh bất động sản và dịch vụ tư vấn, tài chính tín dụng… Tình hình trên là điều bình thường trong quá trình chuyển đổi kinh tế kế hoạch hoá tập tập trung cao độ ( với nền kinh tế thiếu hụt triền miên –làm không đủ ăn…), sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Bởi lẽ, các doanh nghiệp hoặc các nhà kinh doanh chỉ đầu tư khi khả năng sinh lợi hấp dẫn.Số lượng các loại hình doanh nghiệp từng bước đã được thống kê cập nhật nhằm phục vụ công tác quản lý nhà nước về kinh tế đối với khu vực kinh tế này. Qua các số liệu thống kê tổng quát cho thấy, ngoài sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế cá thể (với 1879402 cơ sở kinh tế ,thu hút 3241129 lao động ) thì doanh nghiệp tư nhân gấp 2,57 lần số lượng công ty trách nhiệm hữu hạn và gấp 2,95 lần số lượng công ty cổ phần .Tuy nhiên, số lao động thu hút của các công ty trách nhiệm hữu hạn lại nhiều hơn doanh nghiệp tư nhân 1,15 lần. Như vậy loại hình doanh nghiệp tư nhân vẫn là hình thức hấp dẫn các nhà đầu tư trong nước. Điều này có thể cắt nghĩa bởi các nguyên nhân về quyền lợi, uy tín trách nhiệm, các yêu tố tâm lý, tập quán kinh doanh và giới hạn bởi trình độ xã hội hóa sản xuất môi trường kinh doanh.Chính vì vậy nghị định của Đại hội X của Đảng đã khẳng định : ‘‘ Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh. Các thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo pháp luật, đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bình đẳng trươc pháp luật, cùng tồn tại và phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh lành mạnh’’ 2.2 Tạo việc làm và xoá đói gảm nghèo. 2.2.1Tạo việc làm. Từ năm 1996 đến nay , số lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư bản tư nhân chỉ giảm trong năm 1997 , còn lại đều tăng .Thời điểm 31-12-2000 số lượng lao động trong khu vực kinh tế tư bản tư nhân là 4.643.844 người , chiếm 12%tổng số lao động xã hội ,bằng 1,3 lần tổng số việc làm trong khu vực kinh tế nhà nước .Lao động của hộ kinh doanh cá thể là 3.802.057 người, của các doanh nghiệp tư nhân là 841.787 người .Sự gia tăng của các doanh nghiệp tỷ lệ thuận với sự gia tăng về số lượng lao động phù hợp với trình độ kỹ thuật của lao động , việc sử dụng lao động tại chỗ của khu vực kinh tế tư bản tư nhân đã giảm bớt khâu giải quyết nơi ăn ở , các điều kiện cơ sở hạ tầng khác như phương tiện giao thông , trường học trạm xá…. , tình trạng thất nghiệp đã giảm dần . Trong 5 năm 1996-2000 lao động trong khu vực kinh tế tư nhân tăng thêm 778.681 người (tăng 20,4%). Trong đó số lao động trong các doang nghiệp tư nhân tăng thêm 487.459 người (tăng 237,57%); số lao động ở hộ kinh doanh cá thể tăng thêm 292.222 người (tăng 8,29%). Số lao động qua thực tế khảo sát ở hộ kinh doanh cá thể lớn hơn nhiều so với số đăng ký vì nhiều hộ gia đình chủ yếu sử dụng số lao động trong dòng họ , lao động mang tính thời vụ và lao động nông nhàn không thể hiện trong báo cáo thống kê. Tình hình thu hút lao động trong những năm qua thể hiện rất rõ rệt qua bảng : Tình hình thu hút lao động trongkhu vực kinh tế tư nhân trong những năm qua. (tính đến thời điểm 31-12 hàng năm) 1996 1997 1998 1999 2000 Lao động (người) 3.865.163 3.666.942 3.816.942 4.097.455 4.643.844 Tốc độ phát triển liên hoàn(%) 100 94,87 104,09 107,35 113,33 Tốc độ tăng liên hoàn(%) -5,13 4,09 7,35 13,33 % trong tổng lao động xã hội 11,2 10,3 10,3 10,9 12,0 Công nghệ kỹ thuật sản xuất ngày càng được cải thiên và nâng cao , dây truyền sản xuât ngày càng hiện đại , đòi hỏi ở công nhân một trình độ tay nghề phù hợp với điều kiện làm việc, chính vì thế quá trình đào tạo tay nghề được đưa lên vị trí hàng đầu .Hiện nay ,trình độ tay nghề của công nhân được nâng cao rõ rệt , bên cạnh đó việc xây dựng chiến lược và chương trình phát triển đào tạo nghề được hình thành ,như việc xây dựng chiến lược và chương trình phát triển đào tạo nghề đến năm 2005và 2010.Trong đó cần chú trọng đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề và công nhân trình độ cao cho khu vực KTTN. Mặt khác điều kiện để đào tạo tay nghề cho người lao động thuận lợi hơn so với cáckhu vực kinh tế khác, hầu hết được đào tạo tại chỗ, thông qua kèm cặp của người nhà đã có tay nghề. Chi phí cho đào tạo không đáng kể, đồng thời qua truyền nghề như vậy sẽ duy trì được những làng nghề truyền thống, góp phần cùng xã hội dạy nghề mà chi phí chung của xã hội (kể cả chi phí của tư nhân và nhà nước ) không đáng kể . Việc tạo ra hiều chỗ làm việc mới đã góp phần thu hút nhiều lao động trong xã hội, nhất là số người trẻ tuổi hàng năm đến tuổi lao động chưa có việc làm, giải quyết số dôi dư từ cơ quan, doanh nghiệp nhà nước do tinh giảm biên chế và giải thể. 2.2.2Xoá đói giảm nghèo. Khu vực kinh tế tư bản tư nhân đã góp phần đáng kể vào việc xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân ở khu vực thành thị và nông thôn . Theo thực tế khảo sát, thu nhập của người lao động trong khu vực kinh tế tư bản tư nhân thường có mức tương hoặc cao hơn thu nhập của lao động trồng lúa ở nông thôn cùng địa bàn. Phát triển khu vực kinh tế tư bản tư nhân góp phần rất quan trọng để tạo ra việc làm tại chỗ cho gia đình và địa phương , đem lại thu nhập cho người lao động. Theo kết quả điều tra doanh nghiệp năm 2000 của Tổng cục Thống Kê , mức thu nhập trung bình 1tháng/ 1 lao động (1000 đ)của các doanh nghiệp nói chung là: 1041,1; DNNN là 1048,2; DNtư nhân là 651,1; Cty cổ phần là 993,0; Tập thể là 529,3; CtyTNHHlà 801,8; DN có vốn dầu tư nước ngoài là 1754,5.Mức thu nhập của khu vực kinh tế tư bản tư nhân tuy thấp hơn các DNNN nhưng cao hơn khu vực kinh tế tập thể . Thu nhập trung bình của 1 lao động trong khu vực kinh tế tư bản tư nhân cao gấp 2đến 3 lần so với mức lương cơ bản của Nhà nước quy định . 3. Đóng góp và huy động các nguồn vốn trong xã hội nộp ngân sách nhà nước 3.1. Huy động các nguồn vốn trong xã hội sử dụng vào sản xuất kinh doanh . Trong 10 năm gần đây, vốn đầu tư của khu vực tư nhân tăng nhanh, chiếm tỷ lệ cao trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Năm 1999 tổng vốn đầu tư khu vực kinh tế tư nhân đạt 31.542 tỷ đồng chiếm 24,05%; năm 2000 đạt 35.894 tỷ đồng, tăng 13,8% so với năm 1999, chiếm 24,31% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Năm 2000 vốn đầu tư của hộ kinh doanh cá thể đạt 29.267 tỷ đồng, chiếm 19,82% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp tư nhân đạt 6.627 tỷ đồng, chiếm 4,49% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Tổng vốn sử dụng thực tế của khu vực kinh tế tư nhân tăng nhanh. Đối với các doanh nghiệp tư nhân năm 1999 là 79.493 tỷ đồng, năm 2000là 110.071 tỷ đồng, tăng 38,5%. Các địa phương tăng mạnh vốn sử dụng thực tế của doanh nghiệp là Hà Nội từ 10.164 tỷ đồng (năm1999) tăng lên 16.573 tỷ đồng (năm2000), tăng 63,05%; tương ứng ở thành phố Hồ Chí Minh từ 36.954 tỷ đồng tăng lên 52.353 tỷ đồng, tăng 41,67%… Trong hai năm 2001-2002, sau khi có luật doanh nghiệp ra đời, số doanh nghiệp tư nhân ra đời 35.440,với số vốn đăng ký đạt 40.455 tỷ đồng, nhiều hơn số doanh nghiệp tư nhân được thành lập trong 5 năm trước cộng lại . Năm 2003 , khu vực kinh tế tư bản tư nhân có bước phát triển mạnh mẽ. Khu vực kinh tế tư bản tư nhân chiếm 26,7% tổng vốn đầu tư phát triển, hầu hết giá trị nông nghiệp, chiếm 25,5% giá trị công nghiệp, phần lớn giá trị dịch vụ, 48% kim ngạch xuất khẩu. Chỉ tính trong 4 năm gần đây với 72.601 doanh nghiệp có vốn đăng ký đạt 145.000 tỷ đồng (tương đương với 9 tỷ USD), tỷ trọng đầu tư của các loại doanh nghiệp tư nhân trong tổng đầu tư xã hội đạt từ 23% đến 25%. 3.2. Đóng góp phần lớn vào ngân sách nhà nước. Với sự phát triển nhanh chóng của khu vực kinh tế tư bản tư nhân đã đóng góp rất lớn vào sự phát triển của đát nước, với số vốn huy động lớn trong toàn xã hội, khu vực kinh tế tư bản tư nhân đã đóng góp ngày càng tăng vào ngân sách nhà nước Năm 2000 nộp được 5.900 tỷ đồng, ước tính chiếm 7,3%tổng thu ngân sách tăng 12,5% so vơí năm 1999. Đến năm 2001, khu vực doanh nghiệp tư nhân Nộp ngân sách nhà nước đạt trên 11.075 tỷ đồng, chiếm 14,8%tổng thu ngân sách. Năm 2007 kinh tế tư nhân đóng góp khỏang hơn 38% GDP. Qua số liệu cho chúng ta thấy kinh tế tư nhân có vai trò rất lớn trong nguồn thu ngân sách của nhà nước . với tốc độ phát triển nhanh chóng thì chỉ trong một vài năm gần đây kinh tế tư nhân sẽ thể hiện một vị thế quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế và là chỗ dựa vững chắc trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước trở thành một nước công nghiệp hoá hiện đại hoá. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN HIỆN NAY KINH TẾ TƯ NHÂN TĂNG VỀ MẶT SỐ LƯỢNG. 1.Thời kỳ trước năm 1986. Đất nước thống nhất, công cuộc phát triển kinh tế và cải tạo quan hệ sản xuất được thực hiện trên phạm vi cả nước. Kế hoạch 5 năm 1976-1980 ngoài nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, tiến hành cải tạo kinh tế miền Nam theo mô hình kinh tế miền Bắc. Tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với những người sản xuất nhỏ ở miền Bắc, đồng thời triển khai mạnh mẽ ở miền Nam. Số lượng lao động hoạt động trong kinh tế tư nhân vẫn chiếm trên 20%tổng số lao động ngành công nghiệp; năm1980: 22,3%;năm1984: 26%; năm 1985:23%;năm 1986: 23,2%.Giá trị sản lượng công nghiệp do khu vực kinh tế tư bản tư nhân tạo ra hàng năm chiếm trên dưới 15% giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp.Những người kinh doanh thương nghiệp những năm 1980cũng ở mức 60 vạn. Năm 1980:63,7 vạn; năm 1985: 63,7 vạn; năm 1986: 56,8 vạn.Những số liệu trên cho thấy sức sống của kinh tế cá thể rất bền bỉ, sự hiện diện của thành phần kinh tế này trong suốt thời gian dài như một tất yếu khách quan, cần phải biết sử dụng mặt tích cực của nó làm cho dân giàu, nước mạnh. 2.Thời kỳ sau năm 1986. Từ đường lối đổi mới (đại hội VI của Đảng 12-1986) khẳng định xây dựng, phát triển nền kinh tế nước ta với cơ cấu nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế tồn tại lâu dài. Nghị quyết trung ương khoá VI ghi rõ:”Chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHXN và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế”, “Tư nhân được kinh doanh không hạn chế về quy mô địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Nhờ có chính sách đổi mới kinh tế tư bản tư nhân được thừa nhận và tạo điều kiện phát triển, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế của đất nước.Năm 1999 Luật doanh nghiệp được quốc hội thông qua và năm 2000 ban hành Luật doanh nghiệp (thay cho Luật Công ty và Luật doanh nghiệăyt nhân trước đây). Đạo luật này đi vào cuộc sống rất nhanh, tạo ra bước phát triển đột biến của kinh tế tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân từ năm 2000 đến nay. Bộ luật này đã thể chế hóa quyền tự do kinh doanh của các cá nhân trong tất cả các ngành nghề mà pháp luật không cấm, dỡ bỏ những rào cản về hành chính đang làm trở ngại đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp như cấp giấy phép, thủ tục, các loại phí… Tính trong giai đoạn 2000-2004, đã có 73.000 doanh nghiệp tư nhân đăng ký mới, tăng 3,75 lần so với giai đoạn 1991-1999. Cho đến năm 2004, đã có 150.000 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động theo Luật doanh nghiệp, với tổng số vốn điều lệ là 182.000 tỷ đồng. Từ năm 1991 đến năm 2003, tỷ trọng của khu vực kinh tế tư nhân trong GDP đã tăng từ 3,1% lên 4,1%, kinh tế ngoài quốc doanh khác từ 4,4% lên 4,5%, kinh tế cá thể giảm từ 35,9% xuống 31,2%, và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 6,4% lên 14%. Từ 1/7/2006, Luật Doanh nghiệp 2005 (áp dụng chung cho cả doanh nghiệp trong nước và đầu tư nước ngoài) đã có hiệu lực, hứa hẹn sự lớn mạnh của các doanh nghiệp bởi sự bình đẳng trong quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu. II. PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN THEO NGÀNH NGHỀ TỔ CHỨC KINH DOANH. Trong lĩnh vực nông nghiệp. Cùng với sự đổi mới trong kinh tế hợp tác, các Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Đầu tư trong nước, Luật Thương mại thông qua vào đầu những năm 90 đã tác động rất mạnh vào khu vực nông nghiệp, tới hàng triệu nông dân Việt Nam. Kinh tế hộ gia đình nông dân, kinh tế trang trại, các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động có tính chất công nghiệp ở nông thôn (ngành nghề truyền thống, các doanh nghiệp xây dựng, dịch vụ…) phát triển rất mạnh, tạo nên sự thay đổi to lớn bộ mặt của nhièu vùng nông thôn. Trong lĩnh vực nông nghiệp số hộ tư nhân, cá thể chiếm tỷ trọng lớn 81,65%. Đây thực sự là lực lượng kinh tế mạnh thể hiện trên các mặt sau đây: Chỉ trong thời gian ngắn, các hộ nông dân đã mua sắm rất nhiều trang thiết bị hiện đại, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp lên một bước: các hộ nông dân sắm thêm được 109.483 máy phát điện, 9.088 động cơ điện, 36.011 động cơ chạy xăng, 97.808 máy tuốt lúa, 28.643 máy kéo lớn , 75.286 máy kéo nhỏ, 537.809 máy bơm, 106.305 máy xay, 15.157 máy nghiền thức ăn gia súc, 11.392 máy cưa. Nếu kể thêm những đóng góp của nông dân vào xây dựng đường điện, đường, trường trạm thì rất lớn. Cũng chỉ trong thời gian không lâu, theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì nông dân nước ta đã bỏ vốn lập trên 110.000 trang trại với số vốn cao, trong đó riêng các tỉnh phía bắc 67.000 trang traị Các trang trại đã tạo ra một lượng hàng hoá lớn; trung bình một trang trại cung cấp một lượng giá trị hàng hoá là 107,449 triệu đồng, trong đó tỷ trọng hàng hoá là 86,74%. Số hàng hoá này chủ yếu là nông sản, hải sản, một số nhỏ là sản phẩm chăn nuôi. Kinh tế trang trại đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam lên kinh tế hàng hoá, giải quyết nhiều công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động . Có thể nói, khu vực kinh tế tư nhân trong nông nghiệp thời gian qua đã góp phần xứng đáng vào thành tích của ngành nông nghiệp nói chung tạo ra tổng sản lượng của Việt Nam, và 32% kim ngạch hàng xuất khẩu bao gồm cả thuỷ sản). Trong lĩnh vực công nghiệp . Với cơ chế mới, khu vực kinh tế tư nhân cũng thâm nhập mạnh mẽ vào lĩnh vực công nghiệp. Toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân trong công nghiệp (bao gồm các doanh nghiệp hộ gia đình, các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) đã đua phần đóng góp vào sản lượng công nghiệp cả nước từ 375 năm 1990 lên 58% năm 2006, trong đó đóng góp quan trọng nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dầu khí và lĩnh vực công nghiệp chế tạo (khu vực tư nhân trong nước năm 2006chiếm 23,7%, khu vực đầu tư nước ngoài chiếm 35,25). Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong công nghiệp sẽ còn tăng hơn nữa vì những đổi mới trong thể chế rất mạnh với những bộ luật mới ra đời từ năm 1998 đến nay, nhất là Luật Doanh nghiệp mới được phê chuẩn năm 1999 và có hiệu lực thực hiện từ năm 2000, kèm theo việc bãi bỏ hơn 100 loại giấy phép kinh doanh gây phiền hà, cản trở; Luật Đầu tư nước ngoài cũng được sửa đổi với những thuận lợi mới cho các nhà đầu tư … Riêng trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân trong hoạt động công nghiệp (bao gồm cả tiểu, thủ công nghiệp) cũng phát triển rất mạnh và đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế nói chung, kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê và của một số cơ quan chức năng, trong những năm gần đây, trong nông thôn cả nước có khoảng từ 18% đến 20% số hộ nông dân tham gia hoạt động phi nông nghiệp, trong đó một nửa là hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng thuộc kinh tế tư bản tư nhân, cá thể và hộ gia đình (mà về cơ bản chúng ta có thể xếp vào khu vực kinh tế tư bản tư nhân. 3. Trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ . Đây là lĩnh vực kinh tế tư nhân hoạt động sôi nổi, ngày càng lấn át khu vực quốc doanh. Số lượng tăng lên nhanh chóng: năm 1986 có56,8 vạn hộ, năm 1987 đã là 64 vạn hộ , năm 1988 là 71,9 vạn hộ, năm 1989 là 81,1 vạn hộ và 16 vạn hộ kinh doanh không chuyên nghiệp, năm 1995 là 94 vạn hộ. Tư thương và hộ cá thể ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ : năm 1987, khu vực này đảm nhận tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng xã hội là 59%, năm 1988 là 59.6%, năm 1989là 66,9%, năm 1990 là 69,6%, năm 1991là74,9%..... Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ , còn phải kể đến vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong xuất nhập khẩu. Tỷ trọng của khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước trong giá trị xuất khẩu không kể dầu lửa đã tăng từ 12,5% trong năm 1997 lên 24% vào giữa năm 2005 và tỷ trọng trong giá trị nhập khẩu đã tăng từ 4% lên tới 16%. Nếu tính cả doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thì khu vực doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp trong xuất khẩu là 35% năm 1997 và 54%giữa năm 2005. Trong xấy dựng kết cấu hạ tầng. Với chiến lược phat triển kinh tế – xã hội đưa nước ta trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, Chính phủ đã đề ra chương trình với rất nhiều kì vọng về xây dựng kết cấu hạ tầng, bao gồm những chương trình lớn về phát triển đường sắt, đường bộ với hệ thống cầu qua sông, đường hàng không với hệ thống các sân bay quốc tế và nội địa. Kết cấu hạ tầng có vị trí quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội nhưng để có hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển như kế hoạch của Chính phủ thì cần có nguồn vốn rất lớn mà nếu chỉ Nhà nước thì không đủ sức thực hiện. Trong thập kỷ tới, nhu cầu vốn sẽ rất lớn, ước tính khoảng 6-7%GDP, tương đương với toàn bộ chương trình đầu tư công trước đây. Vì thế việc thu hút sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân là hết sức quan trọng. Trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng, phải kể đến hệ thống đường nông thôn mà những năm qua khu vực kinh tế hộ nông dân- thực chất là khu vực kinh tế tư bản tư nhân đã đóng vai trò rất lớn. III. PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ BẢN TƯ NHÂN THEO VÙNG, LÃNH THỔ. Kinh tế tư bản tư nhân phân bố không đều giữa đồng bằng và miền núi, giữa thành thị và nông thôn. Năm 1995, con số thống kê cho thấy : 55% doanh nghiệp tư nhân ở đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ; 18,1% ở đồng bằng sông Hồng và 10,1% ở vùng Duyên hải miền Trung. Trong đó các tỉnh phía Nam thì chỉ riêng thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương, tỉnh Đồng Nai đã chiếm 63%. Năm 1996 trong tổng số 1.439.683 cơ sở KTTN(bao gồm 1.412.166 cơ sở của cá nhân và nhóm kinh doanh, 17.535 DNTN và 6.883 CTTNHH) thì 24% tập trung ở đồng bằng sông Cửu Long; 21% ở vùng đồng bằng sông Hồng; 19% ở vùng Đông Nam Bộ; 13%ở vùng kh Bốn cũ; 10% ở vùng Duyên hải miền T rung; 9% ở vùng núi và trung du Bắc bộ và 4% ở vùng Tây Nguyên. Năm 2000 trong tổng số 25.002 cơ sở KTTN( phần lớn là DNTN) thì 18.728 cơ sở tập trung ở miền Nam, chiếm 75% trong khi ở miền Bắc chỉ có 4.178DN, chiếm 17% và miền Trung có 2087 cơ sở, chiếm 8,3%. Riêng thành phố Hồ Chí Minh có số lượng 6304 DN, chiếm 25%, băng toàn bộ số DN của miền Bắc và miền Trung cộng lại. Năm 1998 các con số tương ứng là: miền Nam chiếm 73%, gấp 3 lần số lượng ở miền Bắc và miền Trung cộng lại 27%, thành phố Hồ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTh432c tr7841ng pht tri7875n kinh t7871 t432 nhn v cc giamp.doc
Tài liệu liên quan