Thực trạng nền nông nghiệp nông thôn nước ta

Từ đại hội Đảng toàn quốc lần thư VI (1986), công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta đẫ được triển khai mạnh mẽ, từng bước đưa nghị quyết đại hội vào cuộc sống đặc biệt là ở vùng nông thôn. Trong quá trình đổi mới nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến lớn thể hiện ở những mặt sau:

- Chuyển nền kinh tế thuần nhất về thành phần kinh tế và chế độ sở hữu (quốc doanh và tập thể) sang nền kinh tế nhiều thành phần và sở hữu đa dạng

- Chuyển nền kinh tế hiện vật sang nền kinh tế hàng hoá

- Chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN

- Chuyển từ nên kinh tể cơ bản là kép kín sang nền kinh tế mở chủ động hội nhập

Nền kinh tế nông nghiềp trong giai đoạn này đã có những chuyển biến, mặc dù tốc độ tăng trưởng còn chậm nhưng về cơ bản người dân đã “ăn no mặc ấm” chứ không như thời kỳ bao cấp cuộc sống vô cùng thiếu thốn lương thực chỉ được phân phát. Nền kinh tế nông nghiệp trong những năm sau đổi mới đã phát triển. Tuy nhiên tốc độ vẫn chưa cao và còn có một số hạn chế, một số thiếu sót khi nền kinh tế mới bước vào thời kỳ chuyển đổi.

 

doc36 trang | Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1348 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Thực trạng nền nông nghiệp nông thôn nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển trong thời kỳ đổi mới giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, đường lối kinh tế của Đảng được xác định với mục tiêu phát triển nông nghiệp năm 2001-2010: “Giá trị gia tăng nông nghiệp (kể cả thuỷ sản, lâm nghiệp) tăng bình quân hàng năm 4,0-4,5%. Đến năm 2010, tổng sản lượng lương thực có hạt khoảng 40 triệu tấn. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP khảng 16-17%, tỷ trọng nghành chăn nuôi trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng lên khoảng 25%. Thuỷ sản đạt sản lượng 3,0-3,5 triệu tấn (trong đó 1/3 là sản lượng nuôi trồng. Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ, sản đạt 9-10 tỷ USD, trong đó thuỷ sản khoảng 3,5 tỷ USD.” Đứng trước tình hình đó hiện nay Việt nam là 1 nước đang phát triển với nền nông nghiệp lúa nước lâu đời. Để thực hiện tốt những yêu cầu cũng như những định hướng trên, Đảng và Nhà nước đã đề ra kế hoạch thực hiện cho việc phát triển ngành nông nghiệp là tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên 1 trìmh độ mới bằng việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học đổi mới cây trông vật nuôi, tăng giá trị thu đước trên đơn vị diện tích, quy hoạch sử dụng đất hợp lý đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá điện khí hoá giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản phẩm, phát triển kết cấu hạ tầng công nghiệp dịch vụ chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo nhiều việc làm mới và cải thiện đới sống nông dân và dân cư nông thôn. Vì thế vai trò của thương mại nông nghiệp nông thôn rất quan trọng. Đây là tiền đề tạo cơ sở cho kinh tế nông nghiệp nông thôn phát triển NỘI DUNG I. THỰC TRẠNG NỀN NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN NƯỚC TA 1. Nền nông nghiệp ở nước ta trong giai đoạn sau 1986 đến 2000 Từ đại hội Đảng toàn quốc lần thư VI (1986), công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta đẫ được triển khai mạnh mẽ, từng bước đưa nghị quyết đại hội vào cuộc sống đặc biệt là ở vùng nông thôn. Trong quá trình đổi mới nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến lớn thể hiện ở những mặt sau: - Chuyển nền kinh tế thuần nhất về thành phần kinh tế và chế độ sở hữu (quốc doanh và tập thể) sang nền kinh tế nhiều thành phần và sở hữu đa dạng - Chuyển nền kinh tế hiện vật sang nền kinh tế hàng hoá - Chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN - Chuyển từ nên kinh tể cơ bản là kép kín sang nền kinh tế mở chủ động hội nhập Nền kinh tế nông nghiềp trong giai đoạn này đã có những chuyển biến, mặc dù tốc độ tăng trưởng còn chậm nhưng về cơ bản người dân đã “ăn no mặc ấm” chứ không như thời kỳ bao cấp cuộc sống vô cùng thiếu thốn lương thực chỉ được phân phát. Nền kinh tế nông nghiệp trong những năm sau đổi mới đã phát triển. Tuy nhiên tốc độ vẫn chưa cao và còn có một số hạn chế, một số thiếu sót khi nền kinh tế mới bước vào thời kỳ chuyển đổi. Tuy bước vào thời kỳ đổi mới nhưng thị trường nông thôn nước ta vẫn kém phát triển, đặc biệt là thị trường miền núi, thị trường vùng sâu vùng xa Dan cư nông thôn tuy nhiều nhưng thu nhập thấp, không ổn định. Vì thế sức mua thấp dung lượng thị trường nhỏ sản xuất hàng hoá nông nghiệp và nông thôn hiện nay còn kém phát triển: quy mô sản xuất nhỏ, phân tán, công nghệ sản xuất lạc hậu vì vậy khối lượng sản xuất chưa lớn, chất lương thấp giá thành cao, sức cạnh tranh của hàng hoá nông sản Việt Nam trên thị trường còn rất hạn chế Cở sở hạ tầng chung và kết cấu hạ tầng phục vụ hoạt động thương mại ở nông thôn còn rất lạc hậu, Mạng lưới kinh doanh thương mại ở noong thôn mỏng và yếu, quy mô nhỏ, phát triển tự phát Chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần cùng với kinh tế hộ gia đình và kinh tế trang trại ở nông thôn trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là cơ sở hình thành mạng lưới thương nhân đa dạng về thành phần kinh tế trên thị trường nông thôn Thị trường nông thôn có địa bàn rất rộng lớn nhưng phát triển không đồng đều giữa các vùng. Một số vùng nông thôn đồng bằng, các vùng lận cận các thành phố lớn, khu công nghiệp tập trung có thị trường tương đối phát triển, ngược lại miền núi vùng sâu vùng xa thị trường còn rất lạc hậu do sản xuất mang năng tính tự cung tự cấp Sau đây là tốc độ tăng trưởng và cơ cấu của nền kinh tế nước ta sau đổi mới TỐC ĐỘ VÀ CƠ CẤU GDP(%) Năm tốc độ tăng cơ cấu tổng số chia ra tổng số chia ra nông lâm nghiệp thuỷ sản công nghiệp xây dựng dịch vụ nông lâm nghiệp thuỷ sản công nghiệp xây dựng dịch vụ 1986 2,84 2,99 10,84 -2,27 100 38,06 28,88 33,06 1987 3,63 -1,14 8,46 4,57 100 40,56 28,36 31,08 1988 6,01 3,65 5,00 8,77 100 46,30 23,96 29.74 1989 4,68 7,00 -2,59 7,86 100 42,07 22,94 34,99 1990 5,09 1,00 2,27 10,19 100 38,74 22,67 38,59 1991 5,81 2,18 7,71 7,38 100 40,49 23,79 35,72 1992 8,70 6,88 12,79 7,58 100 33,94 27,26 38,80 1993 8,08 3,28 12,62 8,64 100 29,87 28,90 41,23 1994 8,83 3,37 13,39 9,56 100 27,43 28,87 43,70 1995 9,54 4,80 13,60 9,38 100 27,18 28,76 44,06 1996 9,34 4,40 14,46 8,80 100 27,76 29,73 42,51 1997 8,15 4,33 12,62 7,14 100 25,77 32,08 42,15 1998 5,76 3,53 8,33 5,08 100 25,87 23,49 41,79 1999 4,77 5,23 7,68 2,25 100 25,43 34,49 40,08 2000 6,75 4,04 10,07 5,57 100 24,30 36,61 39,09 2001 6,84 2,75 10,36 6,13 100 23,30 37,75 38,95 Nhìn vào bảng số liệu trên ta nhận thấy nền nông nghiệp nước ta tốc dộ tăng trưởng không đồng đều luôn thay đổi . Cơ cấu nông nghiệp trong nền kinh tế chiếm tỷ trọng cao trong GDP. Từ sau kế hoặch 5 năm 1991-1996 nền kinh tế nước ta đã dần thoát khỏi tình trạng trì trệ suy thoái và đạt được mức tăng trưởng cao liên tục và tương đối toàn diện. GDP bình quân tăng 8,2% năm, trong đó nông nghiệp 4,4% kim ngạch xuất khẩu 20% 2. Nền nông nghiệp ở nước ta trong những năm gần đây Theo tổng cục thống kê diện tích gieo trồng lúa năm 2001 đạt 7484,4 nghìn hecta bằng 97,6% năm 2000.Có trên 166 nghìn hecta đất lúa vùng ven biển sản xuất bấp bênh, hiệu quả thấp đã chuyển đổi sang nuôi trồng thuỷ sản chủ yếu là nuôi tôm. Diện tích lúa đông xuân tăng 42,7 nghìn hecta so với năm trước. Diện tích lúa hè thu giảm 95,7 nghìn hecta chủ yếu là do giảm lúa vụ 3 ở đồng bằng sông Cửu Long. Diện tích lúa mùa giảm 114 nghìn hecta. Đây là sự thay đổi cơ cấu mùa vụ sản xuất hợp lý. Cũng bắt đầu có những thay đổi tích cực trong cơ cấu giống theo chiều hướng tăng diện tích các loại giống. Tuy năng suất không cao nhưng có chất lượng tốt, được đánh giá hơn, giảm diện tích các loại giống năng suất cao nhưng có chất lượng thấp. Bước đầu hình thành nên một số vùng sản xuất lúa đặc sản tại 2 vùng lúa lớn nhất nước. Những thay đổi này trong sản xuất lúa không làm giảm sút lượng xuất gạo trong năm. An ninh lương thực vẫn được giữ vững. Diện tích cây công nghiệp đạt 2266,4 nghìn hecta, tăng 1,7% so với năm trước, trong đó cây công nghiệp lâu năm tăng 1,8%, cây công nghiệp ngắn ngày tăng 1,5%. Sản lượng nhiều loại cây công nghiệp tăng khá do tăng được cả về cả về năng suất và diện tích như bông tăng 45,7%, đay tăng 31%, đậu tương tăng 18%, thuốc lá tăng 13,7%, chè 18%, hạt tiêu 12%, dừa 10%... Tuy vậy có một số cây giảm cả về năng suất và diện tích như mía, lạc... Chăn nuôi cũng có những chuyển biến tích cực: trâu, bò tăng 63 nghìn con, gia cầm tăng 13,6 triệu con. Diện tích trồng rừng bằng mức năm trước đạt trên nửa triệu hecta. Trồng được 240 triệu cây phân tán. Sản lượng khai thác gỗ và nguyên liệu giấy đạt 2,4 triệu m3, bằng 94% của năm trước. Tuy nhiên tình trạng vi phạm lâm luật, chặt phá rừng, cháy rừng vẫn là vấn đề nhức nhối. Tính đến tháng 9 đã có trên 1,2 nghìn hécta rừng bị cháy, 2,3 nghìn hecta rừng bị chặt phá. Ngành thuỷ sản có bước tăng trưởng mạnh cả về nuôi trồng lẫn đánh bắt ,ước tính cả năm đạt 2,4 triệu tấn, tăng 7,7% so với cùng kỳ trong đó đáng chú ý nhất là tôm. Sản lượng tôm đạt 250 nghìn tấn, tăng trên 30% so với năm trước. Tôm nuôi tăng mạnh ở những vùng nước mặn, lợ. Cũng xuất hiện những mô hình mới là nuôi tôm trên cát và ruộng lúa. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản tăng 11,6%, trong đó diện tích nuôi tôm tăng 20,4% so với nămtrước. Cũng theo tính toán của tổng cục thống kê, theo giá so sánh năm 1994, giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp năm 2001 tăng 4,1% so với năm 2000, trong đó nông nghiệp tăng 2,2%, thuỷ sản tăng tới 14,8% Tuy nhiên sóng gió trên thị trường thế giớí đã làm lu mờ đi một phần nỗ lực trên đây Những năm gần đây, tỷ suất hàng hoá trong nông nghiệp của nước ta có chiều hướng ngày càng nâng cao. Nông nghiệp Việt Nam ngày càng có nhiều mặt hàng tham gia vào thị trường thế giới, trong đó có một số mặt hàng có thứ hạng cao trong thị phần như cà phê, gạo, hạt tiêu, hạt điều... Có thể thấy tăng trưởng của nông nghiệp nước ta ngày càng tuỳ thuộc vào kinh tế và thị trường thế giới. Thế nhưng kinh tế thế giới và khu vực trong những năm qua vẫn đang ở trong chu kỳ suy thoái, thậm chí nằm ở đáy chu kỳ này. Do vậy những nỗ lực gia tăng sản lượng đã không bù đắp lại thiệt hại về giá cả trên thị trường thế giới những con số gần đây một mặt thể hiện những nỗ lực không kém trong lĩnh vực này. Một số mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng như cà phê, gạo, hạt điều... Phải thực hiện bù lỗ xuất khẩu dưới nhiều hình thức. Không ít hộ nông dân lâm vào tình trạng điêu đứng. Tình trạng ‘bí đầu ra’ thị trường thế giới đã tác động ngay đến thị trường nông sản trong nước, một thị trường mà như nhiều năm gần đây người nông dân luôn trong tình thế bất lợi. Năm nay hàng bán ra thị trường thế giới lỗ lã, tồn đọng ở thị trường trong nước nhiều. Độ co giãn về cầu trong nước của những mặt hàng này lại thấp. Những tín hiệu trên đây của thị trường mách bảo điều gì? Ít nhất cũng có 2 điều có thể nhận thấy từ động thái của thị rường trong những năm gần đây, nhất là năm 2001. Một là cần phải đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn cho thích ứng với thị trường. Hai là tổ chức lại nền nông nghiệp, kinh tế nông thôn nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và nắm bắt thông tin thị trường thế giới cũng như trong nước. Những tranh luận dai dẳng trong nhiều năm về an ninh lương thực của nước dưòng như được ngã ngũ bằng thực tế của nhiều năm 2001. Sau 10 năm có mức tăng hàng năm 1 triệu tấn lương thực (chủ yếu là lúa) lần đầu tiên sản lượng lúa đã giảm còn 98,3%, sản lượng lương thực có hạt còn 98,7% so với năm 2000. Diện tích lúa còn 97,6% so với năm 2000. Phần diện tích lúa giảm đi được chuyển sang nuôi tôm, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp. Khảo sát mô hình trồng lúa kết hợp nuôi tôm ở đồng bằng sông Cửu Long cho thấy thu nhập thuần của mô hình trồng lúa + tôm sú (nuôi quảng canh) cao gấp 3 lần mô hình ba vụ lúa. Theo tín hiệu của thị trường thế giới con tôm đang lên ngôi trong cơ cấu nông nghiệp đồng bằng ven biển nước ta. Tại một số tỉnh đồng bằng sông Hồng như Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Tây... tuy chưa mạnh mẽ bằng đồng bằng sông Cửu Long, cũng bước đầu chuyển thể độc canh lúa, chuyển một số diện tích lúa sang trồng rau màu, cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày.Ngay trong ngàng trồng lúa, một xu thế mới đã hình thành: không còn chạy theo sản lượng mà đã bắt đầu chú ý đến hiệu quả kinh tế. Nhiều địa phương đã đưa vào gieo trồng các giống lúa có phẩm chất cao, bán được giá. Đã hình thàh dự án 1 triệu hecta lúa xuất khẩu có phẩm chất cao. Năm 2001 là cái mốc khẳng định nông nghiệp Việt Nam đã vượt qua “của ải lương thực”, đảm bảo được an ninh lương thực trên phạm vi toàn quốc. Từ nay nông nghiệp nông thôn có thể rãnh tay để phát triển những ngành khác có hiệu quả hơn. Nuôi trồng thuỷ sản là động thái nổi bật khác trong nông nghiệp năm qua. Tỷ trọng sản lượng nuôi trồng trong tổng sản lượng ngành thuỷ sản trong năm 2001 đã tăng từ 36% trong năm 2000 lên 42% năm 2001. Tỷ trọng sản lượng tôm tằng từ 8,6% năm 2000 lên 10,6% năm 2001. Giá trị sản xuất trong khai thác thuỷ sản tăng 4,6% trong khi đó giá trị sản xuất trong nuôi trồng ttăng từ 32,6% so với năm 2000. Kết quả này làm cho giá trị sản xuất chung toàn ngành năm qua tăng tới 14,8%, một bước nhảy lớn của ngành thuỷ sản. Điều quan trọng hơn là đây mới chỉ là bước khởi đầu trong nuôi trồng thuỷ hải sản. Triển vọng của nó còn lớn lao hơn rất nhiều và đang ở trong tầm tay của nông nghiệp Việt Nam. Cũng đã có những biến động tích cực trong phát triển công nghiệp nông thôn, nhất là chế biến nông thuỷ sản .Có 2 nguyên nhân, một là sự hình thành và phát triển của những vùng nguyên liệu nông sản tập trung, trong đó đáng chú ý nhất là nuôi trồng thuỷ sản, một số cây công nghiệp như dứa, chè... Riêng chế biến thuỷ sản năm qua đã tăng tới 24,2%. Hai là do tác động của luật doanh nghiệp sau 2 năm đi vào cuộc sống và chủ trương khuyến khích của chính phủ về phát triển các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ trong năm qua đã kích thích việc thành lập mới hàng nghìn doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hàng vạn cơ sở cá thể. Năm qua, khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh có mức tăng trưởng 20,3% mức tăng trưởng cao nhất trong các khu vực kinh tế. Đây là sự tạo đà tốt cho phát triển công nghiệp nông thôn.Nếu như những năm tới, chính phủ đã có những chính sách khuyến khích đưa công nghiệp về nông thôn nhất là công nghiệp vừa và nhỏ, thì chắc chắn bộ mặt của kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta sẽ có những thay đổi căn bản. Tuy nhiên nhìn chung Việt Nam còn có một số khó khăn khi một số mặt hàng còn thiếu để phục vụ sản xuất nông nghiệp. Vì vậy chúng ta còn phải nhập khẩu, sau đây là một số mặt hàng cơ bản mà Việt Nam còn phải nhập khẩu Các mặt hàng Việt Nam phải nhập khẩu Stt Mặt hàng Năm 2000 Năm 2001 1 Phân bón (nghìn tấn) 3973 3242 2 Thuốc trừ sâu (Triệu USD) 137 109 3 Hoá chất (Triệu USD) 307 343 4 Bông (nghìn tấn) 84 114 II. VAI TRÒ CỦA THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN Ở NƯỚC TA GIAI ĐOẠN 2001-2010 1. Thương mại nông thôn với vấn đề thúc đẩy sự phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá quy mô lớn gắn với công nghiệp chế biến và gắn với thị trường Việt Nam cơ bản là một nước nông nghiệp và có những tiềm năng to lớn cho sự phát triển sản xuất nông nghiệp như: diện tích đất nông nghiệp lớn, đất đai màu mỡ lực lưỡng lao động dồi dào ,trình độ học vấn cao những yếu tố trên là ưu thế cho một nền nông nghiệp thâm canh cao và đa dạng hoá, cơ cấu xã hội nông thôn tương đối bình đẳng làm cho tổ chức nông thôn gắn bó chặt chẽ .Vì vậy dù có một số bất lợi như :hệ thống hạ tầng cơ sở nông thôn yếu kém, hệ thống về nông thôn chưa được trang bị đầy đủ, thị trường tuơng đối kém cạnh tranh .. nhưng về cơ bản Việt Nam có những khả năng to lớn cho sự phát triển của sản xuất nông nghiệp Trước năm 1986 trong bối cảnh cơ chế kinh tế cũ vai trò thị trường không được chú trọng, nông dân là lực lưỡng sản xuất chủ yếu trong nền kinh tế nhưng sản xuất cái gì?sản xuất như thế nào phân phối cho ai đều theo mệnh lệnh của cơ quan quản lý nhà nước trong một nền kinh tế kế hoặch hoá tập trung quan liêu và chế độ phân phối bao cấp. Sản phẩm làm ra không tự do buôn bán thị trường cả nước nói chung và thị trường nông thôn nói riêng đều ỏ trong tình trạng kém phát triển, có thể nói là điều tiết Không có thị trường thì sản xuất hàng hoá không phát triển, cơ cấu sản xuất nghèo nàn. Sản xuất kém phát triển thì không có cái để trao đổi và do vậy thiếu sức mua. Thiêú khả năng thanh toán thì thị trường tiêu điều các vòng luẩn quẩn đó đã kìm hãm sự phát triển của nông nghiệp và nông thôn qua nhiều thập kỷ Cải cách kinh tế 1986 đến nay đã dỡ bỏ cơ chế cũ chuyển dần sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã giải phóng năng lực và tiềm năng to lớn cho sự phát triển sản xuất nông nghiệp tạo điều kiện cho thương mại và thị trường thể hiện vài trò lớn của nó đối với sự phát triển của sản xuất nông nghiệp Trong vòng 10 năm (1990-2000) giá trị sản xuất nông gnghiệp tăng bình quân 5,4%. Từ một nước thiếu lương thức trầm trọng, Việt nam đã xuất khẩu gạo hàng năm 3,5-4,5 triệu tấn đứng thứ hai về xuất khẩu trên thế giới. Sản lượng cà phê năm 2000 tăng gấp 4,5 lần, cao su mủ khô tăng 4,5 lâng, chè gấp 2 lần, mía gấp3 lân. Sản lượng thuỷ sản đạt gần 2 triệu tấn tăng gấp 2,1 lần sản lượng năm 1990. Đó là những minh chứng có tính thuyết phục cao về vai trò của thường mại và thị trường với sự phát triển sản xuất nông nghịêp chuyển nông nghiệp từ một nền sản xuất lạc hậu tự túc tự cấp sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá quy mô lớn gắn với công nghiệp chế biến và gắn với thị trường. Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng trưởng đáng kể. Sau đây là bảng đáng giá tốc độ tăng qua các năm Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản và tốc độ tăng qua các năm năm giá trị sản xuất giá so sánh 1994 (tỷ đồng) tốc độ tăng (%) tổng số chia ra tổng số chia ra nông nghiệp lâm nghiệp thuỷ sản nông nghiệp lâm nghiệp thuỷ sản 1991 77977,9 63512,1 5157,4 9308,4 4,1 2,7 3,8 14,4 1992 83712,4 68820,3 5093,4 9798,7 7,4 8,4 -1,2 5,3 1993 89129,0 73380,5 5041,5 10707,0 6,5 6,6 -1,0 9,3 1994 95233,2 76998,3 5206,9 13028,0 6,8 4,8 3,3 21,7 1995 100864,7 82307,1 5033,7 13523,9 5,9 6,9 -3,3 3,8 1996 107488,9 86489,3 5630,0 15369,6 5,7 5,1 11,8 13,6 1997 114322,2 92530,2 5447,8 16344,2 6,4 7,0 -3,2 6,3 1998 118280,4 96102,7 5257,4 16920,3 3,5 3,9 -3,5 3,5 1999 126809,8 102932,9 5624,2 18252,7 7,2 7,1 7,0 7,9 2000 139717,7 112111,8 6067,6 21538,3 5,6 5,0 0,5 10,7 2001 145406,7 114616,6 6069,1 24721,0 4,1 2,2 0 14,8 Vai trò đầu tiên của thương mại thể hiện ở chỗ muốn phát triển sản xuất nông nghiệp theo hương quy mô lớn thì phải giải quyết tốt vấn đề thị trường. Trong đó thị trường đầu ra cho nông sản có ý nghĩa quyết định. Thị trường có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của nông nghiệp nông thôn. Các mặt hàng xuất khẩu cảu Việt Nam chủ yếu hiện nay bao gồm mặt hàng xuất khẩu chủ yếu Stt mặt hàng năm 2000 năm 2001 1 hải sản (Triệu USD) 1479 1800 2 gạo (nghìn tấn) 3500 3550 3 cà phê (nghìn tấn) 733 910 4 hạt tiêu nghìn tấn) 37 56,1 5 hạt điều (nghìn tấn) 34 40,9 6 cao su (nghìn tấn) 273 300 7 rau quả (Triệu USD) 213 305 8 chè (nghìn tấn) 56 58 9 lạc (nghìn tấn) 76 80 Thương mại có vai trò tích cực trong việc cung cấp các thông tin cho sản xuất, không ngừng mở rộng, đa dạng hoá các kênh lưu thông, sử dụng các biện pháp kích cầu ..để tạo thị trường tiêu thụ nông sản ổn định trong nước Cùng với việc mở rộng thị trường trong nước, thương mại tích cực tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu cho nông sản việt nam, vì dù thị trường nội địa có được mở rộng nhưng vấn không thể tiêu thụ hết số lượng nông sản “dư thừa” ngày càng nhiều Thương mại còn cung cấp những yếu tố đầu vào cho sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả và sức canh tranh của nông sản việt nam trên thị trương trong nước và quốc tế 2. Thương mại nông thôn với vấn đề thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn Trước năm 1986 cơ cấu kinh tế nông nghiệp vào nông thôn nước ta rất lạc hậu Kinh tế nông nghiệp chủ yếu dựa vào trồng trọt. Trong trồng trọt chủ yếu là trồng lúa và các cây lương thực. Chăn nuôi kém phát triển, trong chăn nuôi chủ yếu là nuôi lợn, trâu bò, gia cầm. Phần lớn các cây trồng vật nuôi đều có năng suất, chất lượng thấp, quy mô nhỏ mang nặng tính tự cấp tự cấp , tỷ suất hàng hoá rất thấp. Kinh tế nông thôn nặng về nông nghiệp, công nghiệp nông thôn phát triền chậm nhất là nông nghiệp chế biến nông sản, lâm sản, thuỷ sản vừa thiếu vừa lạc hậu. Nghành nghề nông thôn ngày càng bị mai một, dịch vụ nông thôn kém phát triến Cải cách kinh tế và mở cữa hội nhập kinh tế thế giới đã đưa đến sự thay đổi to lớn đối với thị trường và sự phát triển thương mại nông thôn Trong những năm gần đây sức mua trên thị trường nội địa tăng do thu nhập dân cư không ngừng tăng lên thị trường nứơc ngoài ngày càng được mở rộng nhờ mở của hội nhập. Thương mại trong nước phát triển và các hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng được tăng cường làm cho sản xuất nông nghiệp đã có thay đổi to lớn nhiều vùng sản xuất nông nghiệp tập trung gắn với công nghiệp chế biến như: lúa gạo ỏ đồng bằng Sông Cửu Long, đồng bằng Sông Hồng, mía đường ở miền trung, Đông Nam Bộ, chè ở trung du miền núi phía bắc, cao su ở Đông Nam Bộ, cà phê, hạt điều ,hạt tiêu ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, nuôi trồng thuỷ sản ở nhiều tỉnh ven biển ..Sản xuất đã hướng vào và ngày càng gắn với thị trường làm cho cơ cấu sản xuất nông nghiệp trở nên đa dạng và quy mô sản xuất ngày càng tập trung Ngành công nghiệp chế biến được chú trọng phát triển, các ngành chế biến và bảo quản lương thực, chế biến mía đường, chế biến cà phê, chè ,cao su, các loại đồ uống, chế biến thịt sữa và thức ăn chăn nuôi ,chế biến và bảo quản rau quả ,gỗ, lâm sản, chế biến thuỷ hải sản ..tạo ra một mạng lưới công nghiệp chế biến rộng khắp nông thôn. Công nghiệp chế biến nông, lâm sản gắn vùng nguyên liệu với công nghệ tiến bộ ra đời và ngày càng phát triển để đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu Các nghành công nghiệp khắc phục nông nghiệp như :cơ khí chế tạo và sữa cộng cụ lao động phân bón thuốc bảo vệ thực vật ..vật tư phục vụ nông nghiệp cũng có điều kiện phát triển Các làng nghề truyền thống ngành nghề ở nông thôn được khôi phục và phát triển Các nghành dịch vụ ở nông thôn được củng cố những dịch vụ mới như dịch vụ cung ứng vật tư ,dịch vụ kỹ thuật cây trồng vật nuôi ,dịch vụ cơ khí nông thôn, dịch vụ tà chính, tín dụng nông thôn bước đầu được phục hồi và phát triển đã góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng cho sản xuất nông nghiệp, tăng tỷ trọng các nghành công nghiệp dịch vụ ở nông thôn Mặc dù có nhiều biến đổi to lớn so với trước đến nay cơ cấu kinh tế nông nghiệp vẫn còn lạc hậu tỷ trọng trồng trọt sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn (80%) chăn nuôi còn kém phát triển sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp vẫn xảy ra hết sức chậm chạp ví dụ tỷ lệ chăn nuôi tron sản xuất nông nghiệp 1990 là 17,9% đến năm 1995 chỉ tăng được 1% là 18,9% Xuất khẩu thời kỳ 1996-2000 mặc dù tăng gấp 3 xong cơ cấu sản phẩm xuất khẩu rất ít thay đổi, tỷ lệ xuất khẩu thô còn rất cao năm 2000 tỷ lệ này là 50% Công nông nghiệp phảttiển chậm,ngành nghề dịch vụ nông thôn chưa có sự thay đổi cơ bản. Điều đó đòi hỏi thương mại cần phải bám sát thị trường trong nước và thị trương nước ngoài, cung cấp những thông tin cần thiết cho sản xuất, có biện pháp thiết thực thúc đẩy kinh tế nông nghiệp và nông thôn phát triển có hiệu quả, gắn với kinh tế thị trường cho nền kinh tể nông nghiệp nông thôn có những biến đổi cơ bản nhằm đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn 3. Thương mại nông thôn với vấn đề thúc đẩy phân công lao động tạo công ăn việc làm trong nông nghiệp và nông thôn Phân công lao động là điều kiện tiền đề cho sự tồn tại và phát triển thương mại nông thôn, ngược lại sự phát triển của thương mại góp phần mạnh mẽ thúc đẩy quá trình này. Theo số liệu thống kê năm 2000 thì tổng số lao động cả nước là 38,6 triệu người trong đó có khoảng 30 triệu làm việc ở vùng nông thôn chiếm tỷ trọng 70% tổng số lao động chung. Tổng số lao động nông nghiệp và nông thôn khoảng 30 triệu, có khoảng 22 triệu lao động nông nghiệp, 8 triệu lao động phi nông nghiệp, nghĩa là lao động nông nghiệp chiếm đại bộ phận lao động trong cơ cấu lao động nông thôn. Hiện nay lao động trong nông nghiệp chủ yếu là lao động thủ công làm theo kinh nghiệm truyền thống, số lao động qua đào tạo rất thấp khoảng 8%. Đát đai ít, dân số nông thôn đông và ngày càng tăng làm cho lực lưỡng lao động dư thừa gia tăng này gây áp lực rất lớn ở nông thôn, đặc biệt là các đồng bằng đông dân. Theo số liệu điều tra thì có khoảng 30% thời gian lao động chưa được sử dụng ở nông thôn, tỷ lệ này tương đương với 7-8 triệu lao động ở nông thôn hiện nay còn thiếu việc làm Phát triển thương mại mạnh mẽ sẽ tạo điều kiện mở rộng thị trường trong nước và quốc tế cho việc mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp, tạo ra nhiều công ăn việc làm trong các ngành trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản .. Đẩy mạnh xuất khẩu kéo theo sự phát triển nhiều nghành công nghiệp chế biến, công nghiệp phục vụ nông nghiệp .. làm gia tăng đáng kể số lượng công ăn việc làm trong những nghành này. Phát triển thương mại cũng góp phần củng cố và phát triển các làng nghề truyền thống, nghành nghề và dịch vụ nông thôn, trong đó cần nhấn mạnh tới việc phát triển du lịch sinh thái, du lịch nông thôn và các nghành dịch vụ khác thu hút nhiều lao động đó là hướng rất quan trọng trong việc giải quyết công ăn việc làm và lao động dư thừa trong nông nghiệp và nông thôn ngày nay Tất cả những điều đó đưa đến việc thúc đẩy phân công lao động trong nông nghiệp và nông thôn theo hướng tăng tỷ lệ lao động công nghiệp, n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKTCT (221).doc