Những năm gần đây, khi các trường đại học chuyển từ đào tạo theo niên chế
sang tín chỉ thì vấn đề người CVHT cho sinh viên trở thành đề tài nóng hổi bởi nó ảnh
hưởng trực tiếp đến sự thành công trong học tập, lựa chọn nghề nghiệp và cả tâm tư
tình cảm cho sinh viên (SV) trong suốt quá trình học tập tại trường. CVHT là một
nhân tố then chốt trong mối quan hệ nhà trường – sinh viên – thị trường lao động. Tuy
nhiên, để nâng cao vị thế, vai trò của người CVHT cần phải đánh giá đúng thực trạng
và đề xuất các giải pháp khả thi cho công tác này, trong đó, việc xác định đúng chức
năng, vai trò CVHT là cần thiết. Bài viết này, chúng tôi xin được chia sẻ một số vấn
đề cần quan tâm, tháo gỡ đưa đội ngũ CVHT xứng tầm với vị trí và vai trò của nó.
6 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 19/05/2022 | Lượt xem: 345 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Thực trạng đội ngũ cố vấn học tập trong các trường đại học, cao đẳng hiện nay ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
88
THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CỐ VẤN HỌC TẬP TRONG CÁC TRƢỜNG
ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
Nguyễn Ngọc Tài1
Trịnh Văn Anh2
1. Đặt vấn đề
Những năm gần đây, khi các trường đại học chuyển từ đào tạo theo niên chế
sang tín chỉ thì vấn đề người CVHT cho sinh viên trở thành đề tài nóng hổi bởi nó ảnh
hưởng trực tiếp đến sự thành công trong học tập, lựa chọn nghề nghiệp và cả tâm tư
tình cảm cho sinh viên (SV) trong suốt quá trình học tập tại trường. CVHT là một
nhân tố then chốt trong mối quan hệ nhà trường – sinh viên – thị trường lao động. Tuy
nhiên, để nâng cao vị thế, vai trò của người CVHT cần phải đánh giá đúng thực trạng
và đề xuất các giải pháp khả thi cho công tác này, trong đó, việc xác định đúng chức
năng, vai trò CVHT là cần thiết. Bài viết này, chúng tôi xin được chia sẻ một số vấn
đề cần quan tâm, tháo gỡ đưa đội ngũ CVHT xứng tầm với vị trí và vai trò của nó.
2. Vai trò, nhiệm vụ của đội ngũ cố vấn học tập
Cùng với việc áp dụng đào tạo theo học chế tín chỉ trong các trường đại học Việt
Nam vào năm 2010 thì cũng là ngần ấy năm xuất hiện một khái niệm mới ở nước ta
đó là CVHT. Để hiểu rõ về CVHT, trước hết chúng ta cần hiểu khái niệm cố vấn.
Theo Từ điển tiếng Việt của GS. Hoàng Phê (chủ biên, 1998) thì “Cố vấn là người
thường xuyên được hỏi ý kiến để tham khảo công việc”. Như vậy, cố vấn chính là
người định hướng, dẫn đường, tư vấn để người được hỏi nên theo đó mà hành động.
Trong giáo dục và đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng, cho đến nay có nhiều
quan niệm về CVHT, nhưng định nghĩa được nhiều người thừa nhận thì “CVHT là
người tư vấn cho SV về chọn khóa học, ngành học phù hợp với năng lực và sở thích,
tư vấn và xét duyệt kế hoạch học tập của SV từ khi bắt đầu nhập học, chuẩn bị vào
giai đoạn chuyên ngành hay khi sắp kết thúc chương trình học”. Có thể nói, CVHT là
người định hướng, tư vấn, giám sát hoạt động học tập của SV, giúp cho SV nhận thức
được tầm quan trọng của quy chế đào tạo, chương trình đào tạo, phương pháp học tập,
từ đó, thiết lập chương trình đào tạo phù hợp với điều kiện về trình độ, vật chất, hoàn
cảnh cá nhân và tự tìm ra biện pháp khắc phục các khó khăn đầu tiên khi bước chân
vào giảng đường đại học đến kết thúc chương trình đại học.
1
TS – Viện Nghiên cứu Giáo dục, trường Đại học Sư phạm TP. HCM
2
ThS – Viện Nghiên cứu Giáo dục, trường Đại học Sư phạm TP. HCM
89
Nếu như, hình thức đào tạo theo niên chế, giáo viên chủ nhiệm đóng vai trò là
cầu nối giữa SV, nhà trường, gia đình nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn trở ngại trong
học tập, cuộc sống SV thì trong đào tạo theo tín chỉ, người cố vấn có trách nhiệm, vai
trò, chức năng nặng nề hơn nhiều lần. Ở cương vị mới này, bên cạnh những cái cần có
của người giáo viên chủ nhiệm thì họ phải là một chuyên gia giỏi về lĩnh vực đào tạo
tư vấn, đưa ra lời khuyên và trách nhiệm với lời khuyên của mình.
Chúng ta cần phải khẳng định rằng, CVHT có vai trò đặc biệt quan trọng, không
thể thiếu trong đào tạo theo học chế tín chỉ. Mỗi CVHT là một nhân tố then chốt trong
mối quan hệ nhà trường – sinh viên – thị trường lao động, là một chuyên gia tư vấn về
học tập và việc làm cho SV, đồng hành cùng SV trong suốt quá trình học tập. CVHT
có nhiều vai trò, nhưng có thể thu gọn vào 4 vai trò chính là: 1) Tư vấn, định hướng
quá trình học tập của SV; 2) Giám sát quá trình học tập của SV; 3) Tham gia công tác
chủ nhiệm lớp; 4) Đóng góp ý kiến đề xuất với nhà trường về các vấn đề tổ chức,
quản lý đào tạo và quản lý SV.
Từ vai trò của CVHT có thể xác định năm nhiệm vụ chính của CVHT là:
1) Hướng dẫn SV quy chế đào tạo tín chỉ và các quy định của Nhà trường;
2) Tư vấn cho SV về chương trình - kế hoạch đào tạo;
3) Tư vấn cho SV về xây dựng kế hoạch học tập toàn khoá và từng học kỳ phù
hợp với năng lực và hoàn cảnh cá nhân của từng SV;
4) Tư vấn cho SV về phương pháp học tập tích cực và NCKH;
5) Làm công tác chủ nhiệm như đánh giá kết quả rèn luyện, khen thưởng, kỷ
luật, làm các chế độ báo cáo, giúp SV tìm ra biện pháp khắc phục các khó khăn
trong học tập và trong cuộc sống.
Hiện nay CVHT –giáo viên chủ nhiệm có hai mảng công tác khác nhau là cố vấn
học tập và giáo viên chủ nhiệm tuy vậy hai nhiệm vụ này sẽ bổ sung cho nhau làm
cho người CVHT nắm vững SV hơn. Một công việc đặc thù trong trường đại học, cho
nên nhiều người đã xem đó là một nghề chứ không phải nhiệm vụ kiêm môn. Ở nghề
tư vấn, định hướng và chia sẻ này, không phải giảng viên nào cũng phù hợp, đâu phải
giảng viên nào SV cũng trải lòng, cũng cần một lời khuyên, động viên, tư vấn. Điều
được nhiều người thừa nhận rằng, trong nghề chia sẻ tư vấn thì lắng nghe quan trọng
hơn nói, đây cũng là một trong những nhân tố của người thành công. Trong một cuốn
sách gần đây của tác giả Mark Goulston (Mỹ) có tựa đề rằng “Kẻ thành công phải biết
lắng nghe”, ở đây, ta bắt gặp quan điểm giao tiếp là “nói là bạc, im lặng là vàng, lắng
nghe là kim cương”. Khi SV cần đến mình, cần sự tư vấn thì có nghĩa là họ đặt trọn
90
niềm tin để mong có hướng giải quyết tốt nhất. Muốn tham vấn chính xác, cần càng
nhiều thông tin từ SV càng tốt, do vậy, CVHT cần có kĩ năng lắng nghe.
Nhiệm vụ mới, cần có tư duy mới, nhưng hiện nay vai trò của giáo viên chủ
nhiệm và CVHT vẫn tồn tại trong một con người giảng viên, để phát huy vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của nó, các cơ sở giáo dục đại học nhất thiết phải xây dựng quy trình
công tác CVHT một cách khoa học, đồng thời, cần tổ chức lại công tác chủ nhiệm
tách bạch với CVHT. Đặc biệt, tăng cường vai trò của Phòng Công tác Học sinh –
Sinh viên trong việc tư vấn SV về các thủ tục hành chính, các vấn đề đời sống học
đường, thông qua các hình thức tư vấn trực tiếp, gián tiếp nhằm giảm bớt nhiệm vụ
cho giảng viên chủ nhiệm lớp.
3. Những vấn đề cần quan tâm trong công tác cố vấn học tập cho sinh viên
Nhiều CVHT cho rằng, khó khăn lớn nhất là đối tượng tư vấn SV năm học
thứ nhất. Từ việc chuyển từ cách học phổ thông sang cách học đại học những tân SV
đã gặp nhiều khó khăn, trong khi đó đã có bao nhiêu thế hệ SV đã trải qua nếp học cũ
và với cách thức điều hành cũ của chương trình đào tạo theo niên chế, mọi thứ đều đã
thành thói quen trong cách nghĩ và cách làm của người học, người dạy và người quản
lý giáo dục. Vì thế, với SV năm thứ nhất , cần được tư vấn kĩ nhằm phát huy năng lực
bản thân để có m ột thói quen trong sinh hoạt và học tập, có kế hoạch và nỗ lực để
thực hiện thành công kế hoạch đó theo phương thức đào taọ theo hê ̣thống tín chỉ .
Quan trọng hơn là giúp SV làm quen được với môi trường học tập mới càng sớm càng
tốt để thành công trong những giai đoạn tiếp theo. Bản chất của quá trình dạy học đại
học là quá trình nhận thức có tính chất nghiên cứu của SV dưới sự điều khiển của
giảng viên. Điều này, có nghĩa rằng, lên đại học các em phải tự nghiên cứu, tự học
hơn thời phổ thông rất nhiều, ý thức học tập cao hơn, đào tạo theo tín chỉ thì lại càng
cao hơn một bậc. Nói như thế, để thấy được công tác định hướng SV năm nhất cực kì
quan trọng.
Nhiệm vụ của người cố vấn là cần giúp SV căn cứ vào khả năng của bản thân
SV, điều kiện kinh tế của gia đình để có một kế hoạch học tập và mục đích cụ thể và
lâu dài ngay từ đầu năm thứ nhất: Xác định học trong thời gian mấy năm, tập trung
vào thời gian nào? Ưu điểm, hạn chế của bản thân là gì? Cần phải làm gì để hát huy
thế mạnh và khắc phục thế yếu của bản thân? Chẳng hạn như: mạnh dạn gặp gỡ giáo
viên CVHT, người thân, bạn bè để nhận được sự giúp đỡ. Đối với SV năm thứ nhất,
chúng ta khuyên nên tập trung làm quen với môi trường đại học hơn là lập kế hoạch
cho việc học vượt thời gian, dành sức tăng tốc những năm tiếp theo.
91
Với SV năm thứ 2, CVHT luôn nhắc nhở các em thời gian học tập có thể kéo dài
hoặc rút ngắn tùy theo năng lực của các em. Trên cơ sở kết quả học tập của năm thứ
nhất, chúng ta nên phân tích, định hướng, vạch kế hoạch cho năm học thứ 2 tùy thuộc
vào từng SV nhằm phát huy tối đa năng lực của từng người. Với SV có học lực khá
giỏi, thì hướng dâñ các em đăng ký hoc̣ vư ợt, đăng ký hoc̣ chương trình hai . Đăng ký
đúng với năng lực của bản thân dẫn đến kết quả học tập tốt, làm cho SV phấn khởi
trong học tập. Đăng ký vượt quá năng lực có thể dẫn đến kết quả học tập kém làm SV
hoang mang, bối rối, ảnh hưởng trực tiếp đến học tập trong học kỳ sau và có những
quyết định sai lầm tiếp trong đăng ký các học phần tiếp theo. Tất nhiên, những điều
này được dựa trên căn cứ kế hoạch đào tạo của nhà trường trong năm học như đầu
mỗi năm học, trường sẽ thông báo lịch trình học dự kiến cho từng chương trình trong
từng học kỳ, danh sách các học phần bắt buộc và tự chọn dự kiến sẽ dạy, đề cương chi
tiết, điều kiện tiên quyết để được đăng ký học cho từng học phần, lịch kiểm tra và thi,
hình thức kiểm tra và thi đối với các học phần.
Ở SV năm thứ 3, 4 chúng ta nên tư vấn cho SV một số vấn đề năng lực bản thân,
vấn đề đào tạo của nhà trường và xu hướng thị trường lao động. Điều này, có nghĩa là
SV ngoài học trong nhà trường thì còn cần trang bị thêm những gì để đáp ứng yêu cầu
công việc sau này. Làm được điều này, CVHT luôn phải cập nhật thông tin và không
ngừng trao dồi kĩ năng, kinh nghiệm của mình mới đưa ra quyết định chính xác được.
Để nâng cao hiệu quả công tác CVHT trong các trường đại học cao đẳng hiện
nay, với vai trò của người nghiên cứu về giáo dục, chúng tôi xin đề xuất những vấn đề
sau:
- Về phía nhà trường
Về phía nhà trường, đầu mỗi năm học, trường phải thông báo lịch trình học dự
kiến cho từng chương trình trong từng học kỳ, danh sách các học phần bắt buộc và tự
chọn dự kiến sẽ dạy, đề cương chi tiết, điều kiện tiên quyết để được đăng ký học cho
từng học phần, lịch kiểm tra và thi, hình thức kiểm tra và thi đối với các học phần.
Nên xây dựng “học bạ” cho SV, học bạ đó bao gồm chương trình chi tiết các môn
trong 4 năm đại học và phát cho SV khi mới nhập học. Trong một môn có những
phần, chương, mục lục lớn, nhỏ, chi tiết cụ thể, tên những giảng viên phụ trách, thời
gian học, tài liệu tham khảo, môn nào bắt buộc và không bắt buộc, ý nghĩa thực tế của
từng môn học để người học hình dung ra tổng quan chương trình được đào tạo, từ đó
xây dựng kế hoạch học tập cho riêng mình. “Học bạ” cũng nên ghi hạnh kiểm, số
điểm thi lần 1, 2 từng môn học, từng kì thi, hội đồng thi và chữ kí của người chấm thi.
92
Đó là hồ sơ để giảng viên theo dõi sát sao và điều chỉnh kịp thời quá trình học tập của
SV cũng như làm cơ sở để cơ quan, doanh nghiệp, công ty tuyển chọn lao động.
Nhà trường và các Khoa cần tăng cường cơ sở vâṭ chất , để nếu phải tiết kiệm chi
phí buộc phải ghép lớp đông , thì phòng học, ánh sáng, giáo trình, tài liệu tham khảo ,
thư viêṇ, phương tiêṇ daỵ hoc̣, v.v, phải tương xứng với đào tạo tín chỉ . Khi cơ sở vâṭ
chất của Trường chưa thể đáp ứng cho viêc̣ daỵ theo hê ̣thống tín chỉ : Tất cả cá c
phòng học hầu hết không có máy chiếu , trang thiết bi ̣ sử duṇg máy tính xách tay , máy
tính cố định ; Hê ̣thống chiếu sáng và quaṭ hoăc̣ thiếu hoăc̣ luôn bi ̣ hỏng , gây khó
khăn rất lớn cho viêc̣ daỵ hoc̣ tín chỉ . Lớp quá đôn g, SV ngồi quá châṭ , tài liệu phục
vụ học tập quá thiếu , học đã khó , tổ chức cho SV thảo luận nhóm càng khó , thì làm
sao SV học có hiệu quả được . Hơn nữa, nếu thiếu thốn những điều này thì việc cho
SV cơ hội chọn lựa và thực hiện kế hoạch của họ là điều không thể.
Nhà trường cần nghiên cứu giảm bớt các nhiệm vụ có tính chất sự vụ đối với
CVHT. Ví dụ, CVHT chỉ cần duyệt kế hoạch học tập của SV trên mạng lần đầu trong
mỗi học kỳ, còn những lần điều chỉnh bổ sung để SV tự thực hiện và chịu trách
nhiệm.
Nhà trường phải tạo điều kiện hơn nữa cho việc tiếp xúc giữa giảng viên và SV.
Ngoài cung cấp địa chỉ email của CVHT cho SV, giảng viên còn phải thường xuyên
tham gia trên diễn đàn của trường vì đây là nơi SV tham gia giao lưu, chia sẻ kiến
thức và thông báo các tình hình chung của lớp. Việc tham gia diễn đàn sẽ gắn bó thêm
mối quan hệ giữa CVHT với SV, đồng thời diễn đàn là nơi để giảng viên trao đổi
thông tin với lớp và là công cụ để thực hiện vai trò CVHT của mình. Bên cạnh đó,
theo định kì, Ban Giám hiệu nên tổ chức gặp gỡ CVHT để nghe thông tin phản hồi
cũng như những khó khăn cần giải quyết và giải đáp thắc mắc cho giảng viên.
- Về phía các phòng, ban
Phòng Đào tạo cần tăng cường thông tin về việc đăng ký học phần để CVHT và
SV biết, nhằm chủ động hơn khi điều chỉnh kế hoạch học tập. Tránh tình trạng đến
thời gian đăng ký học phần, SV mới biết được học phần A hay học phần B bị xóa do
không đủ số lượng tối thiểu, đẩy SV vào tình trạng bị động, phải điều chỉnh kế hoạch
học tập một cách chấp vá, thiếu cơ sở khoa học.
Các bộ môn, các khoa xây dựng khung học phần cho từng học kỳ với một số
kịch bản khác nhau, để SV tham khảo nhằm xây dựng kế hoạch học tập phù hợp cho
bản thân. Việc lập kế hoạch học tập này, vừa phát huy ưu điểm của học chế tín chỉ,
vừa hạn chế đến mức thấp nhất yếu tố “tùy hứng” của SV, giúp cho công tác đào tạo
93
có tính định hướng và ổn định. Đồng thời, các khoa phải bố trí giảng viên có nhiều
kinh nghiệm CVHT thực hiện cố vấn cho SV năm nhất.
Cần có một số biện pháp hỗ trợ đối với những SV có hoàn cảnh khó khăn phải đi
làm thêm không có thời gian tự học nhiều: như tư vấn việc đăng ký khối lượng học
tập cho phù hợp, đề xuất nhà trường có biện pháp giúp đỡ, hỗ trợ cho những SV có
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
- Về phía CVHT
CVHT nên thông qua tình hình, kết quả học tập của SV để tư vấn, hướng dẫn
cho SV trong việc đăng ký, điều chỉnh kế hoạch học tập cho phù hợp với năng lực và
hoàn cảnh, tránh để tình trạng do không nắm rõ thông tin mà nhiều SV đã đăng ký
khối lượng học tập quá nhiều với sức học của mình đến khi không đảm bảo yêu cầu
kết quả học tập bị buộc thôi học lúc đó thì đã quá muộn.
CVHT có thể đưa ra những khoảng thời gian trống để SV có thể gặp ngoài giờ
khi có những thắc mắc hay việc cần hỏi ý kiến mà CVHT không có thời gian gặp trực
tiếp trên lớp.
CVHT cần xây dựng và công khai lịch tiếp SV, thời gian và địa điểm tiếp SV
định kỳ; cung cấp cho SV số điện thoại, email và các phương tiện liên lạc khác để SV
liên lạc trong trường hợp cần thiết.
Cần có quy điṇh cu ̣thể về chế đô ̣, chính sách đối với đội ngũ giáo viên CVHT
(dù chỉ là động viên ) để tăng cường vai trò của đội ngũ giáo viên CVHT giúp SV học
tâp̣ tốt theo hê ̣thống đào taọ tín chỉ.
4. Kết luận
Để nâng cao hiệu quả vai trò của CVHT thì cần xem CVHT là một “nghề”.
Giảng viên vốn dĩ hiện nay đang “quá tải” về công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa
học nay phải “gánh” thêm nhiệm vụ CVHT thì quả là một gánh nặng ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng dạy học. Muốn đạt được hiệu quả tốt trong công tác CVHT
cần phải có sự hợp tác và nỗ lực từ cả 3 phía: nhà trường, CVHT và sinh viên, đặc
biệt là mối quan hệ giữa sinh viên và CVHT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần văn Hùng (2012), “ Vai trò của giáo viên cố vấn học tập trong đào tạo
theo học chế tín chỉ”, Báo Giáo dục và thời đại online.
2. Nguyễn Thị Trang (2010), “Sử dụng kỹ năng tư vấn của cố vấn học tập”, Cố
vấn học tập trong các trường Đại học, Đại học Quốc Gia Hà Nội, HN.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_doi_ngu_co_van_hoc_tap_trong_cac_truong_dai_hoc_c.pdf