Việt Nam là một quốc gia có nền văn minh lúa nước lâu đời, vốn là 1 đất nước thuần nông, lao động chủ yếu là thủ công, kỹ thuật còn thô sơ lạc hậu nên trong một thời gian dài nền kinh tế còn phát triển chậm không theo kip với sự đi lên nhanh chóng của các nước trên thế giới. Trong thời đại ngày nay, muốn phát triển kinh tế nhanh thì trước hết phải xây dựng một nền tảng khoa học kỹ thuật vững chắc. Do đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam trong 10 năm tới là đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá (CNH-HĐH) theo định hướng XHCN, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản là một đất nước công nghiệp. Nước công nghiệp ở đây được hiểu là một đất nước có nền kinh tế mà trong đó lao động công nghiệp trở thành phổ biến trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
Để thực hiện muc tiêu tổng quát trên một cách thành công đòi hỏi phải có các tiền đề cần thiết, phát huy được nội lực vốn có như tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng kỹ thuật; huy động vốn và sử dụng vốn 1 cách có hiệu quả, mở rộng kinh tế đối ngoại để tranh thủ nguồn vốn từ bên ngoài, để hoc tập khoa học kỹ thuật của họ , tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước và đặc biệt không thể thiếu là việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả vì muốn thực hiện CNH-HĐH phải phát triển một cách tương xứng năng lực của người quản lý và sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại. Nguồn nhân lực đó bao gồm những người có đức có tài, ham học hỏi, được chuẩn bị tốt về kiến thức văn hoá và kỹ năng nghề nghiệp
22 trang |
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1262 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Thực trạng của việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là một quốc gia có nền văn minh lúa nước lâu đời, vốn là 1 đất nước thuần nông, lao động chủ yếu là thủ công, kỹ thuật còn thô sơ lạc hậu nên trong một thời gian dài nền kinh tế còn phát triển chậm không theo kip với sự đi lên nhanh chóng của các nước trên thế giới. Trong thời đại ngày nay, muốn phát triển kinh tế nhanh thì trước hết phải xây dựng một nền tảng khoa học kỹ thuật vững chắc. Do đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam trong 10 năm tới là đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá (CNH-HĐH) theo định hướng XHCN, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản là một đất nước công nghiệp. Nước công nghiệp ở đây được hiểu là một đất nước có nền kinh tế mà trong đó lao động công nghiệp trở thành phổ biến trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
Để thực hiện muc tiêu tổng quát trên một cách thành công đòi hỏi phải có các tiền đề cần thiết, phát huy được nội lực vốn có như tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng kỹ thuật; huy động vốn và sử dụng vốn 1 cách có hiệu quả, mở rộng kinh tế đối ngoại để tranh thủ nguồn vốn từ bên ngoài, để hoc tập khoa học kỹ thuật của họ …, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước và đặc biệt không thể thiếu là việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả vì muốn thực hiện CNH-HĐH phải phát triển một cách tương xứng năng lực của người quản lý và sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại. Nguồn nhân lực đó bao gồm những người có đức có tài, ham học hỏi, được chuẩn bị tốt về kiến thức văn hoá và kỹ năng nghề nghiệp…
Để có nguồn nhân lực phù hợp như vậy thì phải coi việc đầu tư cho giáo dục đào tạo là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, giáo dục và đào tạo phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, cần phải đào tạo ra một cơ cấu nhân lực đồng bộ, bao gồm mọi lĩnh vực và với quy mô tốc độ phù hợp với từng thời kỳ trong quá trình CNH-HĐH. Đi đôi với việc đào tạo phải bố trí và sử dụng tốt nguồn nhân lực đã được đào tạo ấy để họ phát huy được đầy đủ khả năng, sở trường và nhiệu tình lao động sáng tạo của họ.
Thực tế trong thời gian qua, nguồn nhân lực của ta tuy đã có sự nâng cao để đáp ứng cho quá trình CNH-HĐH của đất nước, tuy nhiên vãn còn chưa theo kịp với các quốc gia trong khu vực và trên toàn thế giới. Một trong những nguyên nhân là do kết quả của quá trình đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực chưa cao, chưa đáp ứng được đòi hỏi của nên CNH-HĐH. Do đó nền kinh tế của nước ta còn chưa thực sự phát triển mạnh.
Chính vì lý do trên mà em chon đề tài này để tìm những giải pháp để nâng cao hiệu quả của đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH ở Việt Nam.
Đây là một đề tài thuộc cấp vĩ mô, tuy nhiên trong bài viết này em chỉ xin tìm hiểu về thực trạng và giải pháp để nâng cao hiệu quả của đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực.
Nội dung của đề tài gồm 3 phần cơ bản:
* Phần 1: một số vấn đề lý luận cơ bản
- Nguồn nhân lực
- Công nghiệp hoá hiện đại hóa
- Yêu cầu của quá trình CNH-HĐH với nguồn nhân lực.
* Phần 2: thực trạng của việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
- Thực trạng nguồn nhân lực
- Thực trạng về công tác đào tạo
- Thực trạng về sử dụng nguồn nhân lực
* Phần 3: các giải pháp
NỘI DUNG ĐỀ ÁN
I. Một số vấn đề lý luận cơ bản
Trước khi đi vào tìm hiểu thực trạng và giải pháp để nâng cao hiệu quả đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH em xin đi vào tìm hiểu các khái niệm như nguồn nhân lực, CNH-HĐH, và yêu cầu của quá trình CNH-HĐH với nguồn nhân lực.
1. Nguồn nhân lực
Có thể hiểu nguông nhân lực là tổng số người trong độ tuổi lao động. Theo luật lao động Việt Nam thì người trong độ tuổi lao động gồm có: Nam từ 15 đến 60 tuổi và Nữ 15 đến 55 tuổi. Nguồn nhân lực là lực lượng chính tham gia vào quá trình lao động, tạo ra của cải cho xã hội và thúc đẩy sự đi lên của xã hội. Do đòi hỏi của quá trình CNH-HĐH nên nguồn lực này cũng phải có năng lực tương xứng: Có đức có tài, ham học hỏi thông minh sáng tạo, làm việc quên mình vì tổ quốc, được chuẩn bị tốt về kiến thức văn hoá, được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề nghiệp, về năng lực sản xuất kinh doanh điều hành vĩ mô nền kinh tế và toàn xã hội, có trình độ khoa học kỹ thuật vươn lên ngang tầm thế giới…
Như chúng ta đã biết, từ khi xuất hiện con người đã tiến hành các hoạt động khác nhau như hoạt động kinh tế-xã hội-văn hoá… trong đó hoạt động kinh tế luôn luôn giữ vị trí trung tâm và là cơ sở cho các hoạt động khác… để tiến hành các hoạt động đó, trước hết con người phải tồn tại, phải có thức ăn, đồ mặc, nhà ở, phương tiện và các thứ cần thiết khác. Do đó, con người phải tạo ra chúng, hay noi cách khác họ phải sản xuất không ngừng với quy mô ngày càng mở rộng. Sản xuất vật chất chính là sự tác động của con người vào tự nhiên nhằm biến đổi nó cho phù hợp với nhu cầu của mình. Đây là hoạt động cơ bản nhất trong tất cả các hoạt động của con người, là cơ sở tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người. Con người tác động vào tự nhiên, cải biến nó cho phù hợp với mình.
Ngay từ thời kỳ nguyên thuỷ họ đã biết sử dụng các công cụ lao động làm từ gỗ, đá… để tác động vào tự nhiên. Dần dần họ sử dụng thành thạo các công cụ này, cùng với việc phát hiện ra một số kim loại như săt, đồng… để tạo ra các dụng cụ lao đông mới… nên năng suất lao đông tăng, đời sống của con người cũng được nâng cao hơn và thúc đẩy xã hội phát triển một cách mạnh mẽ như ngày nay. Chính vì vậy có thể khẳng định rằng nguồn nhân lực chính là lực lượng chính tham gia vào quá trình sản xuất tạo của cải vật chất cho xã hội và thúc đẩy sự phát triển không ngừng của xã hội.
Để quá trình sản xuất ấy có hiệu quả thì yêu cầu được đặt ra cho nguồn nhân lực là không chỉ dồi dào về số lượng mà còn phải có chất lượng tốt. Đó là một yêu cầu tất yếu, nhất là trong thời kỳ CNH-HĐH hiện nay, khi mà nền khoa học kỹ thuật trên thế giới phát triển mạnh. Và muốn thực hiện có hiệu quả thì cũng cần phải hiểu rõ thê nào là CNH-HĐH.
2. Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
Ở thế kỷ XVII-XVIII, khi cách mạng công nghiệp được tiến hành ở tây âu, CNH được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Nhưng khái niệm này mang tính lịch sử, tức là luôn có sự thay đổi cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, của khoa học công nghệ. Kế thừa có chọn lọc tri thức văn minh của nhân loại và rút kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành CNH và từ thực tiễn ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, hội nghị BCH Trung Ương lần thứ 7 khoá VI và đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 7 Đảng cộng sản Việt Nam xác định: CNH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt đông sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế-xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng suất lao động cao.
Như vậy có thể thấy đây là một khái niệm được xác đinh theo tư tưởng mới, khong bó hẹp trong phạm vi trình độ lực lương sản xuất đơn thuần, kỹ thuật đơn thuần mà còn bao gồm cả hoạt động sản xuất kinh doanh, cả về dịch vụ, quản lý kinh tê-xã hội…
Có thể thấy CNH trước hết là phải gắn liền với hiện đại hoá. Hiện nay trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại nên phải tranh thủ ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng này, tiếp cận kinh tế tri thức để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các ngành,các khâu, các lĩnh vực sản xuất xã hội.
Mặt khác có thể thấy CNH nhằm mục tiêu độc lập và CNXH. Hoạt động này là tất yếu nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật tăng thêm sức mạnh bảo vệ dân tộc.
Hơn nữa, hiện nay nước ta phát triển CNH-HĐH trong điều kiện cơ chế thị trường có sự quản lý, điều tiết của nhà nước. Để thực hiện được mục tiêu này đòi hỏi phải có sự vận dụng khách quan các quy luật kinh tế, mà trước hết là quy luật thị trường. Bên cạnh đó, trong nền kinh tế mở hiện nay, thực hiện cũng có thuận lợi là nước ta có thể tận dụng, tranh thủ thành tựu của thế giới và sự giúp đữ quốc tế, nhưng cũng có nhiều khó khăn như tác động tiêu cực từ nền kinh tế thế giới… có thể thấy một trong những yêu cầu của CNH-HĐH là phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế độc lập tự chủ.
Từ những đặc điểm trên ta thấy việc tiến hành CNH-HĐH là một tất yếu khách quan.
Việt nam đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu cơ sở vật chất kỹ thuật thấp kém, trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát triển, quan hệ sản xuất XHCN mới đựơc thiết lập còn chưa hoàn thiện, hơn nữa còn bỏ qua thời kỳ quá độ lên CNXH nên gặp nhiều khó khăn. Mà CNXH muốn tồn tại, phát triển được cần phả có một nền kinh tế phát triển và ổn định, có nền tảng cơ sở vật chất vững chắc. Vì vậy quá trình CNH chính là quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân, để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất chủ nghĩa.
Chính vì tầm quan trọng đó nên từ thập niên 60 của thế kỷ XX Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối CNH và coi đó là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Thực hiện CNH là tạo ra điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết về con người và khoa học công nghệ, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế… để không ngừng tăng thêm năng suât lao động, tăng hiệu quả kinh tế, nâng cao được vai trò của con người-nhân tố trung tâm của nền kinh tế XHCN. CNH-HĐH tạo điều kiện vật chất để xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ vững mạnh, tạo tiền đề xây dựng nền quốc phòng an ninh… để xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam.
Chính vi vậy mà CNH-HĐH được coi là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Đảng ta đã đề ra các nội dung cơ bản, trước hêt là “phát triển lực lượng sản xuất-cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH trên cơ sở thực hiện cơ khí hoá nền sản xuất xã hội và áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại”; chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá, hợp lý và hiệu quả cao; thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng CNXH. Cụ thể, trong những năm trước mắt Đảng ta đặc biệt coi trọng CNH-HĐH nông nghiệp ở nông thôn, ưu tiên phát triển công nghiệp nhẹ và có chon lọc một số cơ sở công nghiệp nặng, cải tạo, mở rộng nâng cấp, xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng vật chất của nền kinh tê; phát triển nhanh dịch vụ, du lịch; phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ và mở rọng hoạt động đối ngoại.
Để hoàn thành các nhiệm vụ đã để ra đòi hỏi phải không ngừng tạo dựng nên các tiền đề như nguồn vốn, khoa học công nghệ, kinh tế đối ngoại và đặc biệt đầo tạo sử dụng nguồn nhân lực vì đây cũng là một yếu tố quan trọng quyết định thành công sự nghiệp CNH-HĐH.
3. Yêu cầu của quá trình CNH-HĐH đối với nguồn nhân lực
Như trên chung ta đã thấy được tầm quan trọng của CNH-HĐH và sự tác động to lớn của nó với sự phát triển nền kinh tế xã hội và trong bất kỳ lĩnh vực gì thì nhân tố con người cũng là một nhân tố quan trọng nhất.
CNH-HĐH không chỉ đòi hỏi phải có vốn, kỹ thuật, tài nguyên mà còn cần phải phát triển một cách tương xứng năng lực của người sử dụng những phương tiện đó. Vì để phát triển đất nước cần phải sản xuất và áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất. Muôn bắt kịp sự tiến bộ của thế giới thì cần phải đào tạo người lao động về năng lực chuyên môn, kỹ thuật… để có thể áp dụng một cách tối đa thàh tựu của khoa học vào sản xuất. Nguồn nhân lực cần phải qua đào tạo, được sử dụng một cách hợp lý. CNH-HĐH đòi hỏi người lao động phải có sưc khoẻ và thể lực tốt. Muốn vậy phải đảm bảo vấn đề dinh dưỡng, phát triển y tế, cải thiện môi trường sống… nhằm chăm sóc tốt sức khoẻ và nâng cao thể lực cho người lao động. Trong nguồn nhân lực mới này việc xây dựng giai cấp công nhân là 1 nhiệm vụ trọng tâm. Vì chỉ khi nào giai cấp công nhân trưởng thành về chính trị, có trình độ tổ chức, có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, có khả năng làm chủ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới… thì mới có thể làm nòng cốt của liên minh công-nông-tri, tập hợp và đoàn kết với các thành phần khác, phấn đấu xây dựng thành công sự nghiệp CNH-HĐH. Chúng ta cần phải có 1 nguồn nhân lực đồng bộ trong mọi lĩnh vực, phải được tiến hành với tốc độ và quy mô thích hợp với từng thời kỳ phát triển.
Vì vậy xác định nguồn nhân lực phải được qua đào tạo và được bố trí sử dụng tốt để họ có thể phát huy đầy đủ khả năng, sở trường và nhiệt tình lao động sáng tạo để tạo ra năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, đóng gop xứng đáng vào sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Đây là nhiệm vụ rất quan trọng và không kém phần khó khăn với Đảng và nhà nước.
II. Thực trạng của việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực của nước ta hiện nay
1. Thực trang của nguồn nhân lực
Như phần lý luận đã trình bày, việc đào tạo nguồn nhân lực cho phù hợp là một vấn đề không đơn giản, đòi hỏi phải có những biện pháp, đường lối chính sách cụ thể. Thực tế trong thời gian vừa qua nguồn lực này đã được Đảng và nhà nước quan tâm hơn, đã có nhiều bước chuyển biến đáng kể. Có thể thấy Việt Nam là một đất nước đang phát triển có dân số khá đông, lượng dân trong độ tuổi lao động cao. Nêu được đào tạo đúng hướng và sử dụng có hiệu quả thì chắc chắn sẽ góp phần thúc đẩy cho sự phát triển đi lên của CNH-HĐH đất nước.
Nhìn nhận một cách tổng thể khách quan, trong quá trình lao động sản xuất, người Việt Nam mạng nhiều ưu điểm và cũng có những nhược điểm cần phải khắc phục. Trước hết chúng ta được kế thừa truyền thống lâu đời của dân tộc. Đó là tính cách chịu thương chịu khó, là sự cần cù, chăm chỉ, ham học hỏi; không những thế, họ còn là những người rất khéo léo trong công việc, có đầu óc thông minh và sự sáng tạo… từ sưa đến nay ông cha ta luôn đề cao sự chăm chỉ cần cù trong lao động, chịu đựng vất vả để sản xuất. Khi khoa học kỹ thuật chưa phát triển, máy móc còn ít, lao động chủ yếu ở nước ta là lao động thủ công bằng tay chân và các công cụ thô sơ, họ đã biết lợi dụng tự nhiên, bắt tự nhiên phục vụ mình, nhìn nhân được một cách tổng quan về thiên nhiên để từ đó rút ra những kinh nghiêm quý báo cho lao động sản xuất, đã được thể hiện trong những câu ca dao, tục ngữ còn lưu truyền đến ngay nay. Đó chính là sự thông minh sáng tạo của người xưa, dựa trên đức tính chịu thương chịu khó vượt qua khó khăn vất vả để xây dựng nên một nền văn hóa truyền thống lâu đời… Cho đến nay, mỗi người dân trong đất nước Việt Nam đều được kế thừa các truyền thống ây nên có thể nói rằng nguồn nhân lực nước ta có một tiềm năng lớn, nếu được đào tạo và sử dụng đúng cách thì điều đó giúp cho việc sản xuất trở nên thuận lợi hơn rất nhiều và sẽ góp phần đẩy nhanh tiến trình thực hiện mục tiêu CNH-HĐH đất nước.
Tuy nhiên, không phải là hoàn toàn hoàn hảo mà nguông lực này cũng có một số nhược điểm nhất định mà nếu không được khắc phục kịp thời sẽ làm cho việc thực hiện mục tiêu CNH-HĐH gặp khó khăn không nhỏ.
Trước hết đó là trình độ chuyên môn kỹ thuật còn chưa cao. Do Việt Nam là một đất nước nông nghiệp lạc hậu, xuất phát điểm thấp, lại trải qua một thời gian dài sống trong chiến tranh, trong khi đó các nước trên thê giới đã có một nền kinh tế khá ổn định, đã thực hiện được các cuôc cách mạng công nghiệp nên họ co 1 trình độ kỹ thuật cao, có cơ sở, nền tảng để phát triển công nghiệp… Điều đó tạo nên một khoản cách về trình độ giữa người lao động Việt Nam và của các nước tiến bộ khac trên thê giới. Khi nước ngoài sử sử dụng chủ yếu máy móc hiện đại, công nghệ kỹ thuật cao thì nước ta mới bắt đầu xây dựng cơ khí hoá với tay nghề còn non kém, vẫn mang tính chất thủ công thô sơ, năng xuất lao động còn chưa cao nên không bắt kip với sự phát triển ngay một nhanh của nên khoa học kỹ thuật ở các nước phát triển. Đây cũng là nhược điểm lớn nhất của nguồn nhân lực Việt Nam.
Không những thế, do nước ta mới chuyển từ cơ chế quản lý tập chung bao câp sang cơ chế mới nên chất lượng quản lý chưa cao, chưa tổ chức được thành một hệ thống quản lý xuyên xuốt, còn thiếu những nhà tổ chức có đầu óc… mà muốn xây dựng thành công sự nghiệp CNH-HĐH thì cần phải có một bộ máy nhà nước làm nhiệm vụ quản lý tốt và đưa ra các định hướng cho sự phát triển… Chính vì vậy việc thiếu người có trình độ quản lý dẫn đến chất lượng quản lý chưa cao cũng gây cho ta nhiều khó khăn.
Một thực trạng của nguồn nhân lực nước ta cũng cần được khắc phục đó là việc sử dụng và phân công lao động không đồng đều, Một số đông người lao động có những tác phong không phù hợp như thụ động, tư tưởng làm ăn nhỏ… Tất cả những điều trên đều là khuyết điểm không nhỏ, gây nhiều khó khăn cho việc đào tạo cũng như sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp xây dựng tổ quốc.
2. Thực trạng của công tác đào tạo
Từ sau đổi mới và xuất phát từ đặc điểm của nguồn nhân lực Đảng và nhà nước đề cào tới vấn đền giáo dục đào tạo nhằm đáp ứng nguồn nhân lực cho thời kỳ mở cửa. Tuy nhiên trong công tác đào tạo vẫn còn biểu hiện nhiều bất cập.
Thứ nhất, đó là tỉ lệ lao động qua đào tạo còn thấp. Lao động phổ thông là chủ yếu. Năm 1997 tỉ lệ được qua đào tạo là 12,2%, năm 1998 là 13,3%. Tuy tỉ lệ này vẫn tăng sau các năm nhưng tốc độ còn chậm. Ở nước ta tuy dân số có đông, số người trong độ tuổi lao động khá cao nhưng chủ yếu vẫn là lao động phổ thông đơn giản. Số người được đào tạo qua các trường dạy nghề, các trường cao đẳng, đại học sau đại học là chưa cao, chiến tỷ lệ nhỏ trong phần đông dân số. Chính vì thế mà chất lượng của người lao động Việt Nam còn thấp.
Thứ hai là chất lượng của công tác đào tạo chưa cao. Hiện nay trên 61 tỉnh thành của đất nước các trường dạy nghề, cao đẳng, đại học mở ra khá nhiều, cũng đào tạo được một số khá đông các công nhân, cử nhân, kỹ sư để phục vụ cho đất nước. Tuy nhiên việc đào tạo này còn chưa thật tốt. Phương pháp giảng dạy và học tập chủ yếu thiên về lý thuyết, việc học còn thụ động, không kích thích được sự sáng tạo của học sinh, sinh viên. ở đây họ chỉ được nghiên cứu một cách may móc, học trên sách vở là chủ yếu vì cơ sở trang thiết bị còn ít và lạc hậu. ậ các trường dạy nghề ít được đầu tư trang thiết bị vật chất kỹ thuật, máy móc thường không đủ công nghệ thường không tiên tiến…, còn các trường đại học tuy có được quan tâm đầu tư hơn nhưng cũng chưa đủ đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu và chưa theo kịp được sự phát triển ngày một mạnh mẽ của nền khoa học kỹ thuật trên thế giới. Vì thế mà chất lượng đào tạo của nước ta còn chưa cao, mặt khác những người sau khi ra trường được trang bị nhiều kiến thức về khoa học kỹ thuật, quản lý… nhưng cũng không tránh khỏi những bỡ ngỡ trước một nền khoa học phát triển của các nước khác trên thế giới, làm chậm tiến trình tiến hanh CNH-HĐH ở nước ta.
Thứ ba là đào tạo còn chưa gắn liền với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Yêu cầu đặt ra là việc đào tạo cần phải được định hướng đúng với những ngành nghê mà CNH-HĐH đòi hỏi. Quá trình đào tạo ở nước ta hiện nay đang ở trong tình trạng thừa thầy thiếu thợ. Tâm lý chung của học sinh cũng như phụ huynh là muốn vào các trường đại học chứ không phải trong các trường dạy nghề. Do đó xảy ra tình trạng cử nhân kỹ sư ra trường vẫn thất nghiệp mà trong xã hội lại thiếu công nhân lành nghề. Sự thiếu hụt cụ thể năm 1999 cho thấy, trong tổng số lao động có bằng cấp thì: Công nhân kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ chiếm 30,3%. Lao động có trình độ cao đẳng và đại học chiếm 31,6%. Lao động có trình độ trên đại học chiếm 1,3%. Cơ cấu của nó như sau cứ một lao động có trình độ cao đẳng, đại học có0,95 công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ; có 1,16 lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp (tỷ lệ 1:0,95:1,16), trong đó tỷ lệ này ở các nước phát triển là 1:4:10. Đây là vấn đề bất cập mà nhà nước cần phải giải quyết kịp thời để có thể điều chỉnh hợp lý cơ cấu lao động.
Bên cạnh đó có thể thấy, một số ngành có số lựng người tăng vọt như các ngành kỹ thuật về điện tử, tin học, năng lượng… trong đó một số ngành lại ít thu hút người học như nông, lâm, ngư nghiệp. Đây cũng là một điều bất hợp lý. Vì Việt Nam là một đất nước nông nghiệp (80% dân số sống bằng nghề nông), đi lên từ nông nghiệp, hơn nữa lại được thiên nhiên ưu đãi cho rừng vàng biển bạc. Nếu không biết khai thác thế lợi đó thì chúng ta đã bỏ qua một cơ hội để phát triển một số ngành nghề như đánh bắt nuôi trồng thuỷ sản, khai thác rừng, và xuất khẩu lương thực, thực phẩm… Biết rằng đạo tạo các ngành nghề kỹ thuật là cần thiết để bắt kịp với tốc độ phát triển của thời đại song cũng cần phải có cơ cấu hợp lý hơn nữa để tránh tình trạng một số ngành thì thiếu các lao động lành nghề còn một số không nhỏ cử nhân, kỹ sư ra trường thì lại rơi vào tình trạng thất nghiệp.
Đó là những khó khăn, bất cập trước mắt trong công tác đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH ở Việt Nam và đòi hỏi phải được nhà nước giải quyết một cách triệt để. Tuy nhiên cũng không thể không đề cập đến những cố gắng của nhà nước đã làm để nâng cao chất lượng cho nguồn lực này.
Từ sau khi xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, mở cửa nền kinh tế cùng với mô hình kinh tế thị trường đinh hướng XHCN được đưa ra thì nhà nước cũng đã rất chú trọng đi vào công tác đào tạo nguồn nhân lực để có thể bắt kịp với tốc độ phát triển của khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới. Hiện nay, không chỉ đào tạo ở trong nước mà nước ta con gửi những người có trình độ cao, những người có khả năng ra nước ngoài học tập, muc đích chính là để họ có điều kiện cọ xát với nền khoa học của các nước phát triển, học tập họ và đưa về áp dụng ở Việt Nam.
Ngoài ra nhà nước còn mở nhiều trung tâm dạy nghề ở các tỉnh thành, ưu tiên giúp đỡ các gia đình thương binh liệt sỹ, những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, ở diện chính sách… tạo điều kiện cho con em họ học tập, nghiên cứu. Những chính sách như miễn giảm học phí, trợ cấp, bố chí việc làm cho những người thuộc diện đặc biệt này không chỉ giúp họ có công ăn việc làm giải quyết được vấn đề thất nghiệp mà còn góp phần nhỏ vào công cuộc xây dựng CNH-HĐH đất nước vì lao động không ít thì nhiều cũng sẽ góp phần thúc đẩy xã hội phát triển không ngừng.
3. Thực trạng về sử dụng nguồn nhân lực
Việc sử dụng nguồn nhân lực đạt hiệu quả một cách tối đa và hợp lý luôn là thách thức, khó khăn với mọi quốc gia chứ không riêng ở Việt Nam. Sử dụng nguồn nhân lực một cách hợp lý không phải là một điều đơn giản, song nếu làm được điều đó thì sẽ thúc đẩy việc sản xuất có hiệu quả hơn rất nhiều, năn xuất lao động sẽ tăng, phuc lợi xã hội tăng cùng với sự tiến bộ của khoa học công nghệ ở nước ta và làm cho sự nghiệp lớn là xây dựng CNXH thành công nhanh chóng.
Hiện nay việc sử dụng nguồn nhân lực vẫn là một đề tài bất cập và còn mang lai nhiều thách thức với các nhà quản lý. Trước tiên dễ thấy nhất đó là tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta hiện nay là khá cao.
Năm 1997 tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 6,1%
Năm 1998 là 6,9%
Năm 1999 là 7,4%
Nguyên nhân là do ở thành thị luôn tập trung đông các nhà máy xí nghiệp, các công ty sản xuất kinh doanh… được đầu tư nhiều. Đời sống của người dân ở thành thị luôn cao hơn ở các vùng khác. Hơn nữa nhiều trường cao đẳng, đại học được đặt tại đây, một phần đông số sinh viên sau khi ra trường không muốn về quê hương mà ở lại thành phố để tìm việc. Vì thế mà lao động ở các nơi khác luôn có xu hướng dồn về các thị xã thành phố với mong muốn tìm được công việc phù hợp có đông lương cao. Điều này đẩy các thành thị đứng trước một hiện thực là số lượng người quá đông mà công việc ở đây cũng chỉ có hạn, hơn nữa có thể còn đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nên thất nghiệp là một điều tất yếu sẽ xảy ra.
Nếu như ở các thành phô, trung tâm kinh tế xảy ra nan thất nghiệp thì ở nhiều nơi lại thiếu ngươi lao động. Ví dụ như ở các vùng miền núi, hải đảo, vùng sâu vùng xa thì tỷ lệ dân cư lại quá ít. Hiện nay ở nhiều nơi đất đai còn chưa được khai thác hết hoặc chưa được quan tâm sử dụng có hiệu quả triệt để gây khó khăn cho việc sản xuât.
Cũng căn cứ vào các ngành nghề, vị trí khác nhau mà người lao động trong từng ngành nghề ấy có đặc điểm riêng có những lao động quá nhàn rỗi nhưng cũng có những lao động làm việc quá sức mình. Ví dụ như ở nông thôn thì thời gian lao động chưa được sử dụng là khá nhiều còn ở các trung tâm công nghiệp, kinh tế…, ở một số công ty, đặc biệt là các công ty liên doanh với nước ngoài thì người lao động luôn phai làm việc với cường độ và công suât lớn, thời gian làm việc kéo dài (có khi lên đến trên 10 tiếng một ngày) Số liệu cho thất ở nông thôn tỷ lệ thời gian lao động chưa được sử dụng là 26,6% năm 1996
25,5% năm 1997
28,3% năm 1998
30% năm 1999
Một phần là do ở nông thôn lao động chủ yếu là trồng lúa nước, trồng hoa màu, chăn nuôi nhỏ (lợn, gà…) khi đến thời vụ thì công việc của họ tương đối bận rộn nhưng sau đó, sau khi thu hoạch, thời gian của họ còn dư ra là rất nhiều, trừ một số vùng nông thôn ngoài làm nông nghiệp họ còn có một số nghề gia truyền như nghề dát vàng (Hà Tây), đóng đồ gỗ, làm gốm (Bát Tràng), dệt lụa (Hà Tây)… Thời gian hao phí như vậy là rất lớn, chưa được sử dụng một cách hợp lý và có hiệu quả cao. Nhà nước cần phải quan tâm phát triển thêm một s
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KTCT (3).doc