Nghiên cứu này thực hiện thủy phân phế liệu đầu tôm sú lần lượt bằng protease và lipase kết hợp
nhằm nâng cao hiệu suất thu hồi protein và astaxanthin. Đã xác định được chế độ thủy phân thích
hợp gồm 2 giai đoạn: Đầu tiên thuỷ phân bằng Alcalase ở 600C, trong 2 giờ, với nồng độ enzyme
0,5%, tiếp đó phần bã thu được sau khi thủy phân bằng Alcalase sẽ thủy phân với Lipase nồng độ
0,3%, trong 3 giờ ở 400C. Bột đạm giàu astaxanthin thu nhận sau thuỷ phân được đông khô có
các thành phần và tính chất phù hợp cho mục đích thực phẩm.
8 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 20/05/2022 | Lượt xem: 283 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Thu nhận bột đạm giàu Astaxanthin từ phế liệu đầu tôm sú Penaeus monodon bằng protease và lipase kết hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hội nghị Khoa học An toàn dinh dưỡng và An ninh lương thực lần 2 năm 2018
383
THU NHẬN BỘT ĐẠM GIÀU ASTAXANTHIN TỪ PHẾ LIỆU ĐẦU
TÔM SÚ PENAEUS MONODON BẰNG PROTEASE VÀ LIPASE KẾT HỢP
*Nguyễn Lệ Hà; Huỳnh Hoa Nhi; Nguyễn Đăng Khôi; Hồ Thị Kim Thu;
Nguyễn Ngọc Thảo My; Nguyễn Ngọc Linh; Nguyễn Hùng Nam
Trường Đại học Công nghệ TP.HCM
Email: *nl.ha@hutech.edu.vn
TÓM TẮT
Nghiên cứu này thực hiện thủy phân phế liệu đầu tôm sú lần lượt bằng protease và lipase kết hợp
nhằm nâng cao hiệu suất thu hồi protein và astaxanthin. Đã xác định được chế độ thủy phân thích
hợp gồm 2 giai đoạn: Đầu tiên thuỷ phân bằng Alcalase ở 600C, trong 2 giờ, với nồng độ enzyme
0,5%, tiếp đó phần bã thu được sau khi thủy phân bằng Alcalase sẽ thủy phân với Lipase nồng độ
0,3%, trong 3 giờ ở 400C. Bột đạm giàu astaxanthin thu nhận sau thuỷ phân được đông khô có
các thành phần và tính chất phù hợp cho mục đích thực phẩm.
Từ khóa: đầu tôm, astaxanthin, thủy phân, bột đạm thuỷ phân.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong phế liệu đầu tôm có một lượng lớn protein, chitin đặc biệt là chất màu astaxanthin
(Klomklao, 2008), hợp chất sinh học đang ngày càng thu hút sự chú ý từ các nhà sản xuất và
chuyên gia sức khỏe. Tính đến hiện tại, astaxanthin thương mại chủ yếu được thu nhận từ tảo
Haematococcus pluvialis và nấm men Phaffia. Đã có một số nghiên cứu thực hiện chiếc rút
astaxanthin từ phế liệu đầu tôm bằng dung môi hóa học hay hữu cơ, một số khác thuỷ phân bằng
protease. Tuy vậy, việc sử dụng các tác nhân hóa học hay hữu cơ đều có các một số nhược điểm
nhất định, do vậy, hạn chế ứng dụng của sản phẩm thu được. Nghiên cứu này hướng đến quá
trình thuỷ phân đầu tôm bằng enzyme nhằm mục đích thu nhận bột đạm giàu astaxanthin với hiệu
suất thu hồi cao, phù hợp mục đích thực phẩm và góp phần bảo vệ môi trường.
NGUYÊN VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nguyên liệu
Đầu tôm nuôi tại Cà Mau được thu tại bàn chế biến của nhà máy thủy sản xuất khẩu Ngọc Sinh.
Đầu tôm rửa sạch và cấp đông ở -400C, sau đó bảo quản ở -180C cho đến khi tiến hành thí
nghiệm.
Các enzyme sử dụng trong đề tài gồm Alcalase LFG 2.4 1128 của Novozyme và Lipase L 3126
của Sigma. Hoá chất sử dụng thuộc nhóm hoá chất phân tích.
Hội nghị Khoa học An toàn dinh dưỡng và An ninh lương thực lần 2 năm 2018
384
Thu nhận bột đạm giàu astaxanthin
Đầu tôm đông lạnh được làm nhỏ 2-3 mm, sau đó gia nhiệt ở 95oC trong 10 phút rồi bổ sung
nước với tỉ lệ đầu tôm: nước là 1:3 (w/v). Hỗn hợp được bổ sung Alcalase với nồng độ cần thiết
(0; 0,1; 0,2; 0,3; 0,4; 0,5 và 0,6%) và thực hiện thủy phân ở các nhiệt độ 45, 55, 60, 650C, khuấy
trộn mỗi nửa giờ. Vào các thời điểm định trước, mẫu được lấy ra, lọc qua nhiều lớp vải thô, dịch
lọc được kết tủa bằng HCl 10% đến khi đạt pH thích hợp cho kết tủa carotenoprotein, thêm dung
dịch chitosan đến nồng độ 100ppm, sau đó để lắng ở 4oC trong 2 giờ. Bột nhão protein-
astaxanthin thu nhận bằng cách ly tâm 40 phút ở 4.000 vòng/ph. Sau đó, bã đầu tôm sau lọc được
gia nhiệt đến 85oC để bất hoạt Alcalase rồi tiếp tục thuỷ phân bằng Lipase ở các nhiệt độ 30; 35;
40; 450C, với nồng độ enzyme lipase lần lượt là 0; 0,1; 0,2; 0,3; 0,4; 0,5% và thu bột nhão tương
tự trên. Cả hai bột nhão được đông khô ở -40oC để thu thành phẩm.
Xác định pH thích hợp cho kết tủa bột đạm-astaxanthin từ dịch thủy phân phế liệu tôm
Việc xác định pH thích hợp cho kết tủa carotenoprotein được thực hiện theo phương pháp của
Klomklao (2009) và Chakrabarti (2002) có đôi chút chỉnh sửa như sau: Hỗn hợp đầu tôm chuẩn
bị như trên được thủy phân bằng Alcalase với nồng độ 0,1%, thời gian thủy phân 30 phút ở nhiệt
độ 45oC, dịch carotenoprotein thu nhận sau lọc được bổ sung HCl 10% đến khi đạt pH 4; 4,5; 5;
5,5; 6 rồi thêm chitosan để đạt nồng độ 100ppm, sau đó lắng ở 4oC trong 2 giờ. Quá trình ly tâm
được thực hiện 40 phút,4.000 vòng/ph để thu dịch trong và bột nhão. Hàm lượng protein hòa tan
của dịch trong được xác định bằng phương pháp Bradford (1976), hàm lượng astaxanthin của bột
nhão được xác định bằng phương pháp Tolasa (2005). pH thích hợp để kết tủa thu bột đạm
astaxanthin là giá trị pH cho độ hòa tan protein của dịch trong thấp nhất và hàm lượng
astaxanthin trong bột nhão cao nhất.
Phương pháp phân tích
Hàm lượng astaxanthin được xác định bằng phương pháp Tolasa (2005) với chất chuẩn
astaxanthin (Sigma). Hàm lượng tro xác định bằng phương pháp trọng lượng, nung ở 600oC. Xác
định hàm lượng protein hòa tan bằng phương pháp Bradford. (Bradford, 1976). Xác định hàm
lượng protein tổng bằng phương pháp Kjeldahl (Rao, MS và cộng sự, 2007). Xác định hoạt tính
enzyme protease theo phương pháp Anson cải tiến (Anson, M.L 1938), hoạt tính Lipase theo
phương pháp Titrimetric ( Sigma - Aldrich Mỹ). Xác định độ ẩm bằng phương pháp trọng lượng ,
sấy đến độ ẩm không đổi ở 1050C (Phạm Văn Sổ và Bùi Thị Như Thuận, 1991). Hiệu suất thu hồi
của chế phẩm đươc tính theo phương pháp Dauphin (Dauphin, 1991).
Phương pháp xử lý số liệu
Các thí nghiệm được thực hiện song song ba lần, mỗi lần ba mẫu. Toàn bộ số liệu được phân tích
ANOVA để kiểm tra sự khác biệt giữa các lần lặp lại và tính giá trị trung bình. Phân tích thống kê
được thực hiện với phần mềm JMP 10 và đồ thị được vẽ trên phần mềm Excel.
Hội nghị Khoa học An toàn dinh dưỡng và An ninh lương thực lần 2 năm 2018
385
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Xác định pH thích hợp cho kết tủa dịch thủy phân sau lọc nhằm thu protein và
astaxanthin cao nhất
Số liệu thực nghiệm cho thấy hàm lượng protein hòa tan trong dịch trong sau lọc thấp nhất,
astaxanthin trong bột nhão cao nhất đều tại pH =4,5. Astaxanthin trong các loài giáp xác thường
không tồn tại tự do mà nằm trong phức chất cùng với protein, vì thế, khi thu nhận protein có thể
đồng thời thu được astaxanthin. Nếu điều chỉnh pH cao hơn cần thiết có thể protein chưa bị kết
tủa hoàn toàn, làm giảm hiệu suất thu nhận. Nếu điều chỉnh pH thấp hơn thì mức độ keo tụ có thể
giảm xuống, lúc này có thể nồng độ H+ dư nên một số protein tích điện dương yếu, đẩy nhau, liên
kết giữa các phân tử protein yếu đi, tăng khả năng hydrat hóa, độ hòa tan của protein tăng lên và
khó kết tụ.
Hình 1: Hàm lượng protein(mg/g) trong dịch trong và astaxanthin (μg/g) trong bột nhão khi kết tủa
dịch thủy phân ở các giá trị pH khác nhau
Giá trị pH 4,5 cho hiệu quả kết tủa protein và astaxanthin tốt ở nghiên cứu này cao hơn so với giá
trị 5,78 của dịch nghiền phế liệu tôm hồng Metapenaeus monoceros (Chakrabarti, 2002), cũng
cao hơn so với pH kết tủa protein từ dung dịch máu cá trong qui trình chế biến cá tra đông lạnh
(Trang Sĩ Trung, 2008). Nguyên nhân của điều này có lẽ là thành phần protein trong các nguyên
liệu khác nhau, cũng có thể do dịch phế liệu tôm sau thủy phân có nhiều axit amin và peptid
mạch ngắn, thành phần của các phần tử mang điện đã thay đổi nhiều so với nguyên liệu chưa thủy
phân.
Như vậy, pH 4,5 được chọn để tủa dịch thuỷ phân đầu tôm sau lọc và thu nhận bột đạm-
astaxanthin.
Hội nghị Khoa học An toàn dinh dưỡng và An ninh lương thực lần 2 năm 2018
386
Quá trình thủy phân đầu tôm sú bằng Alcalase LFG 2.4 1128
Ảnh hưởng của nhiệt độ đến quá trình thủy phân bằng Alcalase theo thời gian
Nghiên cứu tiến hành khảo sát qúa trình thủy phân với nồng độ enzyme là 0.1% ở các nhiệt độ
45; 55; 60 và 650C. Đồ thị biểu diễn hiệu suất thu hồi protein và astaxanthin theo thời gian thủy
phân ở các nhiệt độ khác nhau được trình bày ở hình 2 cho thấy hiệu suất này tăng dần khi nhiệt
độ thuỷ phân tăng, đạt cực đại tại 60oC, sau đó giảm xuống. Điều này dễ hiểu, bởi vì hoạt độ
enzyme tăng khi tăng nhiệt độ, nhưng nếu vượt qúa nhiệt độ biến tính protein thì enzyme (bản
chất chính là protein) cũng bị vô hoạt.
Đồ thị cũng cho thấy xu hướng tăng nhanh hàm lượng protein và astaxanthin theo thời gian thủy
phân, đạt cực đại sau 2 giờ và sau đó giảm xuống ở tất cả các nhiệt độ. Có lẽ, Alcalase giữ hoạt
tính tốt trong 2 giờ, sau đó không còn khả năng tốt như trước, các acid amin tạo thành bị vi sinh
vật phân huỷ dần nên lượng protein giảm, astaxanthin cũng thóai hoá dần nên hàm lượng trong
bột nhão giảm xuống.
Hình 2: Hiệu suất thu hồi protein và astaxanthin theo thời gian thuỷ phân ở các nhiệt độ khác nhau
Ảnh hưởng của nồng độ Alcalase đến quá trình thủy phân
Thí nghiệm tiến hành khảo sát nồng độ enyme cho từ 0.1 đến 0.6% với nhiệt độ thủy phân là
600C thời gian từ 0 giờ đến 5 giờ.
Hình 3: Hiệu suất thu hồi protein và astxanthin theo thời gian ở các nồng độ khác nhau
Hội nghị Khoa học An toàn dinh dưỡng và An ninh lương thực lần 2 năm 2018
387
Đồ thị biểu diễn ảnh hưởng của nồng độ Alcalase đến hiệu suất thu nhận protein và astaxanthin
khi thủy phân đầu tôm trên hình 3 cho thấy, nồng độ enzyme sử dụng cho thủy phân càng cao thì
hiệu suất thu protein và astaxathin cũng tăng tương ứng, đạt cực đại khi sử dụng nồng độ 0,5%,
sau đó giảm nhẹ (p<0,05). Xu hướng này cũng được Klomklao (2009) ghi nhận khi thực hiện
thuỷ phân vỏ tôm bằng tripsin cá xanh Pomatomus.
Ảnh hưởng của nhiệt độ đến quá trình thủy phân bằng Lipase
Bã đầu tôm sau khi thủy phân bằng Alcalase được gia nhiệt vô hoạt enzyme rồi tiếp tục thủy phân
bằng Lipase với nồng độ 0.1% ở các nhiệt độ từ 30 đến 450C, kết quả thể hiện trong hình 4.
Hình 4: Hiệu suất thu hồi protein theo thời gian ở các nhiệt độ khác nhau
Các số liệu thực nghiệm cho thấy, quá trình thuỷ phân bằng Lipase cho hiệu suất tốt hơn nhiều so
với Alcalase (gần gấp đôi). Đây là điều ngạc nhiên thú vị vì trong các nghiên cứu đã thực hiện
trước kia đều chỉ chú ý đến việc dùng protease để thuỷ phân phế liệu tôm. Astaxanthin ở động vật
giáp xác tồn tại trong phức chất với protein và nhóm lipid hay giả lipid (Nguyễn Lệ Hà, 2018) có
lẽ là giải thích phù hợp cho điều này.
Ngoài ra, cũng dễ thấy rằng, hiệu suất thu protein và astaxanthin có xu hướng tăng dần từ 0 giờ
đến 3 giờ tại tất cả các nhiệt độ, sau đó giảm đáng kể, nhiệt độ thích hợp nhất giúp thuỷ phân đạt
hiệu quả cao là 40oC.
Nếu so sánh với quá trình thuỷ phân phế liệu tôm sú bằng chế phẩm protease của chính nó có thời
gian tối ưu là 9h (Nguyễn Lệ Hà, 2013) thì việc sử dụng enzyme thương phẩm trong nghiên cứu
này đã giúp rút ngắn đáng kể quá trình thuỷ phân.
Ảnh hưởng của nồng độ Lipase đến quá trình thủy phân
Việc thuỷ phân bã đầu tôm được thực hiện với nồng độ Lipase từ 0.1 đến 0.5% với nhiệt độ thủy
phân 400C, thời gian từ 0 giờ đến 5 giờ. Xu hướng quan sát được từ đồ thị là khi tăng nồng độ
Lipase lên thì hiệu suất thu nhận protein và astaxanthin cũng tăng lên, đạt cực đại tại nồng độ sử
dụng 0.3% và sau đó không tăng nữa, thậm chí giảm nhẹ (không khác biệt, p<0,05). Tại nồng độ
0,3%, hiệu suất thu hồi protein và astaxanthin lần lượt đạt 37,01% và 51,67%, cao hơn đáng kể so
với khi thủy phân đầu tôm bằng Alcalase. Việc này mở ra triển vọng sử dụng enzyme protease và
Hội nghị Khoa học An toàn dinh dưỡng và An ninh lương thực lần 2 năm 2018
388
lipase kết hợp để nâng cao hiệu suất thuỷ phân và đặc biệt giúp thu nhận astaxanthin tự nhiên từ
phế liệu giáp xác.
Hình 5: Hiệu suất thu hồi protein và astaxanthin theo thời gian ở các nồng độ Lipase khác nhau
Như vậy, quá trình thủy phân bằng Lipase để thu được hiệu quả cao nhất có thể chấp nhận là ở
nồng độ enzyme 0.3% trong thời gian 3 giờ tại nhiệt độ 400C.
Hiệu suất thu hồi protein và astaxanthin cho thủy phân khi sử dụng kết hợp Alcalase
và Lipase
Khi sử dụng kết hợp Alcalase và Lipase, hiệu quả thuỷ phân nâng lên thật sự rõ rệt và được thể
hiện trong biểu đồ ở hình 10. Điều đặc biệt trong nghiên cứu này là hiệu suất thu astaxanthin cao
đáng kể, và có thể coi như mục tiêu chính cần đạt. Với nguyên liệu đầu tôm sú, Pham Thi Dan
Phuong (2017) thu nhận dịch đạm thuỷ phân giàu astaxanthin (36% chất khô) bằng acid formic
và Alcalase, sản phẩm thu được là dịch thủy phân có hàm lượng protein và astaxanthin lần lượt là
52,1% (d.b) và 192ppm, nếu so với số liệu của bột thu được khi dùng Alcalase và Lipase kết hợp
trong nghiên cứu này (86,7% chất khô) là 67% và 865 ppm thì quá trình thuỷ phân bằng Alcalase
và Lipase kết hợp tỏ ra cho hiệu quả thu nhận astaxanthin tốt hơn.
Hình 6: Hiệu suất thu protein và astaxanthin khi sử dụng kết hợp Alcalase và Lipase
Hội nghị Khoa học An toàn dinh dưỡng và An ninh lương thực lần 2 năm 2018
389
KẾT LUẬN
Enzyme thương phẩm Alcalase và Lipase có thể sử dụng hữu hiệu để thủy phân phế liệu đầu tôm
thu bột đạm giàu astaxanthin bằng cách thực hiện thuỷ phân theo hai giai đoạn: đầu tiên bằng
Alcalase 0.5% ở nhiệt độ 600C trong 2 giờ, sau đó tiếp tục thuỷ phân bã đã qua lọc bằng Lipase
với nồng độ 0.3% nhiệt độ 400C trong 3 giờ. Dịch thuỷ phân được kết tủa bằng HCl 10% đến
pH 4,5 để thu bột nhão rồi tiếp tục đông khô ở -60oC. Bột đạm thành phẩm có nồng độ
astaxanthin cao, giàu protein, phù hợp sử dụng làm thức ăn chăn nuôi hay thực phẩm chức năng
cho con người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Alim. Nutr (2011). Total carotenoid content off shrimp commercialized in florianopolis and
evaluation of color preference for consumers, Araraquara, Vol.22, pp 17-20.
[2] Bradford, M. M. (1976). A rapid and sensitive method for the quantitation of microgram
quantities of protein utilizing the principle of protein-dye binding. Analyt. Biochem,
Vol.72, pp 248–254.
[3] Chakrabarti (2002). Carotenoprotein from tropical brown shrimp shell waste by enzymatic
process, Food Biotechnol, Vol.16, pp 81-90
[4] Chakrabarti R. (2002). Carotenoprotein from tropical brown shrimp shell waste by
enzymatic process, Food Biotechnology 16 (1): 81-90.
[5] Klomklao S., Benjakul S., Viessanguan W., Kishimura H., and Simpson B.K., (2009),
“Extraction of carotenoprotein from black tiger shrimp shells with the aid of bluefish
trysin” J.Food Biochem.33: 201 – 217.
[6] Nguyễn Lệ Hà (2013). Thu nhận carotenoprotein từ phế liệu tôm sú bằng chế phẩm
protease đầu tôm Penaeus monodon. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Số 50, trang 222-228
[7] Nguyễn Lệ Hà (2018). Carotenoprotein trong động vật thuỷ sản. Tạp chí Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn. Số 2, 109-116.
[8] Pham Thi Dan Phuong, Nguyen Cong Minh, Hoang Ngoc Cuong et al., (2017). Recovery
of protein hydrolysate and chitisan from black tiger shrimp (Penaeus monodon) heads:
approching a zero waste process. J. Food Sci. Technol., 54(7): 1850-1856.
[9] Tolasa S., Cakli S., Ostermeyer U., (2005) .Determination of astaxanthin and canthaxanthin
in salmonid, Eur. Food Res. Technol 221: 787-791
[10] Trang Sĩ Trung (2008). Nghiên cứu ứng dụng chitosan trong việc thu hồi protein từ nước
rửa surimi, Tạp chí Khoa học và Công nghệ thủy sản 2, 23-28
Hội nghị Khoa học An toàn dinh dưỡng và An ninh lương thực lần 2 năm 2018
390
RECOVERY OF ASTAXANTHIN-RICH PROTEIN POWDER FROM
SHRIMP HEADS PENAEUS MONODON USING PROTEASE
AND LIPASE COMBINED
*Nguyen Le Ha; Huynh Hoa Nhi; Nguyen Dang Khoi; Ho Thi Kim Thu;
Nguyen Ngoc Thao My; Nguyen Ngoc Linh; Nguyen Hung Nam
Hochiminh University of Technology HUTECH
Email: *nl.ha@hutech.edu.vn
ABSTRACT
The hydrolysis of black tiger shrimp heads was carried out using protease and then lipase to
improve protein and astaxanthin recovery. Optimal hydrolysis parameters with Alcalase were
600C, 2 hours, and Alcalase concentration of 0.5%, the residue obtained from the hydrolysis with
Alcalase was then hydrolyzed with Lipase at concentration of 0.3% for 3 hours at 400C. The
astaxanthin-rich protein powder obtained from freeze drying was suitable for food applications.
Keyword: shrimp head, astaxanthin, protein hydrolysis, protein powder.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thu_nhan_bot_dam_giau_astaxanthin_tu_phe_lieu_dau_tom_su_pen.pdf