Mục tiêu: Đánh giá kết quả của phẫu thuật cắt bè củng mạc kết hợp Ologen trên bệnh nhân Glaucoma.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu, không so sánh 20 trường hợp góc đóng cấp (AAC) và
glaucoma góc đóng nguyên phát (PACG) có chỉ định phẫu thuật cắt bè củng mạc (CBCM) kết hợp ologen của
khoa glaucoma bệnh viện mắt TP HCM từ 9/2012. Bệnh nhân được theo dõi về nhãn áp (đo bằng Goldmann),
hình thái bọng (theo phân loại Moorfields) và các biến chứng của phẫu thuật tại các thời điểm 1 ngày, 1 tuần, 1
tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng và 1 năm sau mổ.
Kết quả: Trong số 20 mắt được phẫu thuật CBCM có 14 ca AAC và 6 ca PACG. Tại thời điểm 1 năm sau
mổ: nhãn áp trung bình là 13,9 ±2,9 mmHg, tỉ lệ mắt có nhãn áp ≤ 17 mmHg là 90%, các chỉ số về hình thái bọng
theo Moorfileds trong giới hạn bình thường. Không ghi nhận các biến chứng như tiền phòng nông, bong hắc mạc,
nhãn áp thấp, đào thải ologen, loét kết mạc, viêm mủ nội nhãn. Không có ca nào cần phẫu thuật lần 2. Ghi nhận 2
trường hợp cần dùng thêm thuốc hạ nhãn áp.
Kết luận: Dựa vào kết quả nghiên cứu bước đầu của chúng tôi cho thấy rằng CBCM kết hợp với Ologen cho
kết quả hạ nhãn áp tốt, hình thái bọng kết mạc bình thường và không có biến chứng xảy ra
5 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 472 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Thử nghiệm lâm sàng cắt bè củng mạc kết hợp với ologen trên bệnh nhân glôcôm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 52
THỬ NGHIỆM LÂM SÀNG CẮT BÈ CỦNG MẠC KẾT HỢP
VỚI OLOGEN TRÊN BỆNH NHÂN GLÔCÔM
Trần Anh Tuấn*, Trịnh Bạch Tuyết*, Bùi Thị Thu Hương*, Tô Kỳ Anh*, Nguyễn Hoàng Phúc**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả của phẫu thuật cắt bè củng mạc kết hợp Ologen trên bệnh nhân Glaucoma.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu, không so sánh 20 trường hợp góc đóng cấp (AAC) và
glaucoma góc đóng nguyên phát (PACG) có chỉ định phẫu thuật cắt bè củng mạc (CBCM) kết hợp ologen của
khoa glaucoma bệnh viện mắt TP HCM từ 9/2012. Bệnh nhân được theo dõi về nhãn áp (đo bằng Goldmann),
hình thái bọng (theo phân loại Moorfields) và các biến chứng của phẫu thuật tại các thời điểm 1 ngày, 1 tuần, 1
tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng và 1 năm sau mổ.
Kết quả: Trong số 20 mắt được phẫu thuật CBCM có 14 ca AAC và 6 ca PACG. Tại thời điểm 1 năm sau
mổ: nhãn áp trung bình là 13,9 ±2,9 mmHg, tỉ lệ mắt có nhãn áp ≤ 17 mmHg là 90%, các chỉ số về hình thái bọng
theo Moorfileds trong giới hạn bình thường. Không ghi nhận các biến chứng như tiền phòng nông, bong hắc mạc,
nhãn áp thấp, đào thải ologen, loét kết mạc, viêm mủ nội nhãn. Không có ca nào cần phẫu thuật lần 2. Ghi nhận 2
trường hợp cần dùng thêm thuốc hạ nhãn áp.
Kết luận: Dựa vào kết quả nghiên cứu bước đầu của chúng tôi cho thấy rằng CBCM kết hợp với Ologen cho
kết quả hạ nhãn áp tốt, hình thái bọng kết mạc bình thường và không có biến chứng xảy ra.
Từ khóa: Ologen, cắt bè củng mạc, bọng kết mạc, nhãn áp, Moorfileds
ABSTRACT
TRABECULECTOMY WITH OLOGEN IN THE TREATMENT OF GLAUCOMA:
A CLINICAL TRIAL
Tran Anh Tuan, Trinh Bach Tuyet, Bui Thi Thu Huong, To Ky Anh, Nguyen Hoang Phuc
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 1 - 2014: 52 - 56
Purpose: Evaluate the outcome of trabeculectomy with ologen implant at glaucoma department of Ho Chi
Minh city eye hospital.
Methods: Prospective, non comparable study of 20 cases of acute angle-closure (AAC) and primary angle-
closure glaucoma (PACG) which had the indication for trabeculectomy from 9/2012. Pre-operative, 1 week, 1, 3, 6,
9 and 12 month post-operative date was collected, including: IOP (Goldmann), bleb evaluation - according to
Moorfields Bleb Grading System (MBGS) and complications of the operation.
Results: there were 14 cases of AAC and 6 cases of PACG. One year after surgery, the mean IOP of whole
study group was 13.9 ± 2.9 mmHg, from that 90% of patients had IOP ≤ 17 mmHg, MBGS scores were in
normal. There were no intraoperative and postoperative complications such as: bleb leakage, hypotony, choroidal
detachment, avascular bleb, adverse reaction, matrix extrusion or conjunctival erosion. Two cases (10%) needed to
use antiglaucoma medications throughout the 12-month follow-up.
Conclusions: trabeculectomy with ologen implant had highly significant and stable IOP reduction, no
operative complications and normal MBGS scores.
Keywords: Ologen, trabeculectomy, bleb, IOP, Moorfileds.
* BV Mắt TP.HCM ** Bộ môn Mắt, ĐHYD TP.HCM
Tác giả liên lạc: Nguyễn Hoàng Phúc ĐT: 0983826797 Email: dr.nguyenhoangphuc@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Mắt 53
ĐẶT VẤN ĐỀ
Glaucoma là bệnh lý thị thần kinh:
- Tiến triển chậm.
- Gây mất thị trường do liên quan đến cấu
trúc đầu thị thần kinh và lớp sợi thần kinh
võng mạc.
- Gây mất thị lực do mất tế bào hạch và
sợi trục.
Glaucoma là nguyên nhân thứ hai gây mù
lòa trên thế giới. Phẫu thuật cắt bè củng mạc
từ lâu đã là một trong những lựa chọn quan
trọng trong điều trị bệnh nhân glaucoma trên
thế giới, đặc biệt ở các nước châu Á như Việt
Nam. Yếu tố quan trọng nhất quyết định nhãn
áp (IOP) sau phẫu thuật CBCM là quá trình
lành vết thương. Nếu quá trình này được kiểm
sốt tốt, bệnh nhân sẽ đạt được mức hạ IOP
mong muốn. Tuy nhiên sự hình thành sẹo lại
là nguyên nhân thường gặp nhất gây mất chức
năng bọng kết mạc. Sự hình thành những bao
nang Tenon (Tenon capsule cysts) với dày đặc
những tấm collagen không được lót bởi tế bào
biểu mô ngăn cản sự hấp thu thủy dịch. Để cải
thiện kết quả của phẫu thuật CBCM cần tạo ra
một bọng sinh lý, có thể dẫn lưu một cách
động học thủy dịch từ tiền phòng ra khoang
dưới kết mạc. Phẫu thuật CBCM áp
Mitomycin C (MMC) hay 5-FU hiện nay vẫn là
“tiêu chuẩn vàng” trong các phẫu thuật điều
trị Glaucoma. Những chất chống tăng sinh mô
sợi như MMC, 5-FU đã cải thiện một cách
đáng kể tỷ lệ thành công của phẫu thuật
CBCM. Tuy nhiên những chất này gây ra
những bất thường ở biểu mô kết mạc, phá vỡ
màng đáy, làm mất cấu trúc tế bào
(hypocellularity) của kết mạc và mô dưới kết
mạc dẫn đến tăng nguy cơ rò bọng, nhãn áp
thấp (hypotony), mất hàng rào bảo vệ tế bào
gây dễ nhiễm trùng bọng (bleb infection) và
viêm mủ nội nhãn.
Ologen, một chất liệu sinh học tự phân hủy,
giúp hạn chế các tác dụng phụ của 5-FU, MMC
đã được tiến hành nghiên cứu ở nhiều nước và
đã được FDA chấp thuận năm 2009.
Giới thiệu về ologen
Ologen (OLO) là mô sinh học dạng chất nền
collagen có khả năng tự tan biến (biodegradable
collagen matrix implant). Ologen có cấu trúc
khung (scafford) dạng khối 3 chiều, 95% thể tích
của Ologen có dạng hang rỗng với đường kính
lỗ khoảng 20~200µm. Nó là sản phẩm đồng
trùng hợp collagen-glycosaminoglycan và 10%
chondroitin 6-sulfate, hình trụ kích thước 12x1
mm hoặc 6x2 mm, dễ dàng thao tác trong phẫu
thuật CBCM. Ologen hoạt động qua 2 cơ chế: cơ
chế vật lý (Physical effect): kiểm soát sự thoát
lưu thủy dịch và cơ chế sinh lý học (Physiology
effect): kiểm soát tiến trình lành vết thương.
Cơ chế vật lý
Ologen một vật liệu có cấu trúc dạng lỗ
(porous structured material) có khả năng hấp
thu nước tối ưu (superior water-absorbing
ability) và rất mềm dẻo (excellent pliable
strength).
Khi thủy dịch thoát ra vùng bè nó sẽ hấp
thu vào Ologen làm tăng trọng lượng OLO, từ
đó tạo một áp lực lên vạt củng mạc tạo một
kháng lực thích hợp đối với áp lực nội nhãn
phía dưới hạn chế xẹp tiền phòng trong
những ngày đầu sau mổ do tăng thoát thủy
dịch (overfiltration).
Chính việc di động liên tục của vạt củng
mạc, được điều chỉnh bởi Ologen ngấm nước
phía trên và lực nội nhãn phía dưới, làm cho
vạt củng mạc không dính vào giường củng
mạc ngăn ngừa sự hình thành sẹo dính.
Ngoài ra, tính chất vững chắc và cấu trúc dạng
khối của Ologen cũng tạo ra một hàng rào cơ
học ngăn cách kết mạc và thượng củng mạc,
hạn chế sự dính của kết mạc vào thượng củng
mạc sau mổ do hiện tượng viêm.
Cơ chế sinh lý học
Trong giai đoạn sớm sau mổ, Ologen
hướng các nguyên bào sợi (fibroblasts) di trú
vào cấu trúc lỗ của mình. Tại đây, trong các
khoang ngoại bào rộng rãi, các tế bào ít liên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 54
kết với nhau hơn. Chúng tổng hợp collagen và
mô liên kết một cách có tổ chức và được kiểm
soát, nhờ đó hạn chế hình thành sẹo đặc khi
Ologen thoái biến.
Khi Ologen thoái biến, nó sẽ để lại một
khoang dưới kết mạc với các tấm collagen
được sắp xếp có tổ chức và lỏng lẻo, hạn chế
hình thành sẹo đặc (dense scar).
Trong suốt quá trình thoái biến, hình dạng
và cấu trúc lỗ của Ologen vẫn được duy trì dù
chịu nhiều sự co kéo do quá trình lành vết
thương, đảm bảo duy trì cả chức năng vật lý và
sinh lý cho tới khi biến mất hoàn toàn.
Điểm khác nhau cơ bản giữa Ologen và
chất chống chuyển hóa là cơ chế chống tạo
sẹo. Chất chống chuyển hóa ngăn tạo sẹo bằng
cách ức chế sự tăng sinh của nguyên bào sợi.
Tuy nhiên quá trình này cũng ức chế luôn các
tế bào biểu mô xung quanh vết thương. Kết
quả là khi lành sẹo sẽ để lại một bọng với bề
mặt biểu mô mỏng vô mạch. Trong khi đó
Ologen để cho nguyên bào sợi tăng sinh và
phát triển bình thường sinh lý nhưng có tổ
chức và không liên kết chặt chẽ với nhau. Khi
lành sẹo không những hạn chế hình thành sẹo
đặc mà còn trả lại một bọng kết mạc với lớp tế
bào biểu mô khỏe mạnh.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
20 bệnh nhân góc đóng cấp và glaucoma
góc đóng nguyên phát được điều trị bằng
phương pháp cắt bè củng mạc kết hợp ologen
của khoa Glaucoma bệnh viện mắt Tp HCM
trong khoảng thời gian từ 12/09/2012
26/09/2012.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu quan sát, mô tả.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
- Trên 18 tuổi
- Glaucoma góc đóng nguyên phát: nhãn áp
cao trên 21 mmHg dù đã được điều trị nội khoa
tích cực dẫn tới tiến triển mất thị trường và tổn
hại thị thần kinh.
- Góc đóng cấp:
+ Nhãn áp cao dù đã điều trị nội khoa
tích cực.
+ Khi nhãn áp hạ, đồng tử dãn, soi góc tiền
phòng thấy đóng hơn ½ chu vi.
Chẩn đoán Glaucoma góc đóng nguyên phát
Nhãn áp cao trên 21 mmHg.
Soi góc tiền phòng ≤ độ 2 (theo Shaffer) ở ≥
¾ chu vi.
Tổn thương thị thần kinh và thị trường điển
hình của Glaucoma. Nếu khó khăn trong việc đo
thị trường thì hình ảnh lõm gai đặc trưng của
Glaucoma cũng đủ tiêu chuẩn chẩn đoán.
Chẩn đoán góc đóng cấp
Nhãn áp tăng rất cao (>30 mmHg), đột ngột.
Kết mạc cương tụ rìa, giác mạc phù,
tiền phòng nông, đồng tử dãn, mất phản xạ
ánh sáng.
Không có dấu hiệu tổn thương của đầu thị
thần kinh.
Triệu chứng đi kèm: nhức đầu, buồn nôn,
nôn, thấy quầng xanh đỏ.
Trường hợp cơn tăng áp cấp trên bệnh
nhân Glaucoma góc đóng nguyên phát thì
phân loại là Glaucoma góc đóng nguyên phát.
KẾT QUẢ
Một số đặc điểm chung của nhóm nghiên
cứu
Bảng 1
Số lượng mắt 20
Tuổi
Trung bình 55,3 ± 5,8 (tuổi)
Dao động 45-62
Giới
Nam 6 (30%)
Nữ 14 (70%)
Mắt
Mắt P 8 (40 %)
Mắt T 12 (60%)
Chẩn đoán
AAC 14 (70%)
PACG 6 (30%)
IOP trước
phẫu thuật
Trung bình 13,9 ± 5,4 (mmHg)
Dao động 7-21 mmHg
Số lượng thuốc hạ nhãn áp
dùng trước phẫu thuật
2,5 ± 0,5 (thuốc)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Mắt 55
Bảng 1 mô tả chi tiết các đặc điểm lâm
sàng của bệnh nhân trước phẫu thuật. Các
bệnh nhân đều thuộc nhóm lớn tuổi (thấp
nhất 45 tuổi). Bệnh nhân nữ nhiều hơn nam.
Số mắt (T) được phẫu thuật nhiều hơn mắt (P).
70% mắt được chẩn đoán AAC, 30% chẩn
đoán PACG. Nhãn áp trước mổ được kiểm
soát tốt (13,9 ± 5,4 mmHg), cao nhất là 21
mmHg và thấp nhất là 7 mmHg, với số thuốc
điều trị hạ nhãn áp là 2,5 ± 0,5 thuốc.
Kết quả sau phẫu thuật
Bảng 2 trình bày kết quả nhãn áp sau mổ
của bệnh nhân theo thời gian. Nhãn áp trung
bình sau mổ 1 tuần là 13 ± 2,7 mmHg, sau mổ
6 tháng là 13,9 ±2,9 (mmHg), sau mổ 1 năm là
12,4±2,3 mmHg. Theo S Cillino và cộng sự,
nhãn áp sau mổ 6 tháng là 14,1 ± 3,1 mmHg,
sau mổ 1 năm là 15,2 ± 2,8 mmHg. Theo A
Rosentreter và cộng sự, nhãn áp sau mổ 6
tháng là 15,4 ± 4,5 mmHg, sau mổ 1 năm là
15,6 ± 2,4 mmHg. Theo Dimitris
Papaconstantinou, nhãn áp sau mổ 6 tháng là
15,3 ± 4,1 mmHg. Kết quả trên cho thấy nhãn
áp sau mổ hạ tốt và kết quả của chúng tôi
tương tự như các công trình nghiên cứu trên
thế giới.
Bảng 2:
Thời Gian IOP
Trước Mổ 13,9 ± 5,4 (mmHg)
dao động 7-21 (mmHg)
Sau Mổ
1 ngày 14,4 ± 8,4 (mmHg)
dao động 8-36 (mmHg)
1 tuần 13 ± 2,7
dao động 10-18 (mmHg)
1 tháng 14,1 ± 3,1 (mmHg)
dao động 10-18 (mmHg)
3 tháng 13,9 ± 2,9 (mmHg)
dao động 10-18 (mmHg)
6 tháng 13,9 ±2,9 (mmHg)
dao động 10-16 (mmHg)
1 năm 12,4±2,3 (mmHg)
dao động (mmHg)
Tại thời điểm 6 tháng và 1 năm, phân nhãn
áp làm 3 mức độ kỳ vọng là ≤ 21, ≤ 17, ≤ 15
mmHg. Ở mỗi mức lại chia thành 2 nhóm:
Nhóm thành công hoàn toàn: tức là đạt được
mức nhãn áp mong muốn mà không dùng thêm
bất kỳ thuốc hạ nhãn áp nào.
Nhóm thành công một phần: tức là đạt được
mức nhãn áp mong muốn, không quan tâm có
dùng thêm thuốc hạ nhãn áp hay không.
Bảng 3 trình bày tỉ lệ phần trăm thành công
theo 3 mức độ kỳ vọng nhãn áp. Kết quả của
chúng tôi cho thấy rằng, tại thời điểm 1 năm, có
90% số ca hạ được nhãn áp xuống dưới 21
mmHg mà không cần dùng thêm thuốc hạ nhãn
áp (có 2 ca cần dùng thêm thuốc hạ nhãn áp). Ở
mức nhãn áp dưới 17 mmHg, tỉ lệ thành công
hoàn toàn là 80%, trong khi ở mức dưới 15
mmHg, tỉ lệ là 60%. Theo S Cillino, tỉ lệ thành
công hoàn toàn ở 3 mức nhãn áp trên là 75%,
55% và 50%. Theo A Rosentreter, ở mức nhãn áp
dưới 18 mmHg, tỉ lệ thành công hoàn toàn là
50%. Tác giả Dimitris Papaconstantinou cũng đạt
được tỉ lệ thành công hoàn toàn ở mức dưới 21
mmHg là 90%.
Bảng 3:
Nhãn áp đích 1 năm: số ca (%)
IOP ≤ 21 mmHg
Thành công hoàn toàn 18 (90%)
Thành công một phần 20 (100%)
IOP ≤ 17 mmHg
Thành công hoàn toàn 16 (80%)
Thành công một phần 18 (90%)
IOP ≤ 15 mmHg
Thành công hoàn toàn 12 (60%)
Thành công một phần 12 (60%)
Bảng 4 mô tả các chỉ số đánh giá hình thái
bọng theo phân loại của Moorfields. Kết quả cho
thấy các chỉ số hình thái bọng trong giới hạn
bình thường. Bọng to, lan tỏa, không xuất huyết
dưới kết mạc, không có trường hợp nào rò bọng.
Bảng 4
Đánh giá bọng kết mạc
theo MBGS
6 tháng
(độ ± SD)
1 năm
(độ ± SD)
Diện tích bọng trung tâm 2,6 ± 0,5 3
Diện tích bọng tối đa 3 ± 0,7 3,5 ± 0,5
Chiều cao bọng 3 ± 0,5 3
Phân bố mạch máu 3,5 ± 0,5 2,8 ± 0,4
Xuất huyết dưới kết mạc 100 % không 100 % không
Về các biến chứng sau mổ, ghi nhận 2 trường
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 56
hợp cần dùng thêm thuốc hạ nhãn áp sau mổ, tỉ
lệ thuốc hạ nhãn áp cần dùng thêm là 0,1 ± 0,3
thuốc. Không có ca nào phẫu thuật lần 2. Không
ghi nhận các biến chứng như tiền phòng nông,
rò bọng, bong hắc mạc, nhãn áp thấp, đào thải
ologen, loét kết mạc hay viêm mủ nội nhãn.
Trong nghiên cứu của Dimitris
Papaconstantinou, tỉ lệ rò bọng là 10%, tỉ lệ viêm
mủ nội nhãn là 5%.
BÀN LUẬN
Phẫu thuật CBCM kết hợp MMC vẫn là một
phẫu thuật kinh điển trong điều trị bệnh
Glaucoma. Tuy nhiên về do đặc tính chống
chuyển hóa của chúng mà về lâu dài có thể gây
ra những biến chứng không mong muốn. Các
kết quả bước đầu của chúng tôi đối với phẫu
thuật CBCM kết hợp ologen cho thấy hiệu quả
hạ nhãn áp tốt, hình thái bọng kết mạc bình
thường và chưa có biến chứng xảy ra. Đề tài này
còn một số hạn chế như thời gian nghiên cứu
ngắn nên chưa đánh giá đầy đủ hiệu quả lâu dài
của ologen, chưa có nhóm chứng (CBCM kết
hợp MMC) để so sánh. Vì vậy sẽ có công trình
nghiên cứu với mẫu lớn hơn có so sánh với phẫu
thuật CBCM kết hợp MMC và thời gian theo dõi
dài mới có thể đánh giá toàn diện về phẫu thuật
CBCM kết hợp ologen. Kết quả của nghiên cứu
này có thể cung cấp những số liệu tham khảo
hữu ích cho các nghiên cứu lớn hơn sau này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aeon Astron BV. The working theory of ologen® Collagen
Matrix (CM) in trabeculectomy.
2. Akarsu C, Onol M, Hasanreisoglu B (2003). “Effects of thick
Tenon’s capsule on primary trabeculectomy with MMC”. Acta
Ophthalmol Scand; 81: 237-241.
3. Allingham RR (2011). “Filtering surgery”. In: Shields. Textbook
of Glaucoma, 6th Edition; 487.
4. Bindlish R, Condon GP, Schlosser JD (2002). “Efficacy and
safety of MMC in primary trabeculectomy: 5 years follow-up”.
Ophthalmology; 109: 1336-1341.
5. Broadway DC, Chang LP (2001). “Trabeculectomy, risk factors
for failure and the preoperative state of the conjunctiva”. J
Glaucoma; 10: 237–249.
6. Cairns JE (1968). “Trabeculectomy. Preliminary report of a
new method”. Am J Ophthalmol; 66: 673-678.
7. Cillino S, Di Pace F, Cillino G, Casuccio A (2011).
« Biodegradable collagen matrix implant vs mitomycin-C as
an adjuvant in trabeculectomy: a 24-month, randomized
clinical trial”. Eye: 1–9.
8. Ngô Như Hòa (1958). Tình hình bệnh nhân glôcôm nhập
bệnh viện Điện Biên Phủ từ 01/01/1985 – 30/06/1985. 6-11.
9. Rosentreter A, Schild AM, Jordan JF (2010). “A prospective
randomisef trial of trabeculectomy using MMC vs ologen
implant in open glaucoma”. Eye; 24: 1449-1457.
10. Papaconstantinous D, Georgalas I, Karmiris E (2010).
“Trabeculectomy with Ologen versus trabeculectomy for the
treatment of glaucoma: a pilot study”. Acta Ophthalmol; 88: 80-
85.
11. Tôn Thất Hoạt (1972). Bệnh Glôcôm. Nhãn khoa tập 2. Nhà
xuất bản y học Hà Nội. 17-19.
Ngày nhận bài báo : 14/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo : 15/11/2013
Ngày bài báo được đăng : 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 52_7612.pdf