Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá: "Ta mong được nghe các huyệt du của ngũ tạng xuất ra ở
vùng lưng”[1].
Kỳ Bá đáp : "Huyệt du lớn ở ngực (lưng) nằm tại đầu của trữ cốt[2]. Phế Du nằm ở
trong khoảng Tam tiêu[3], Tâm Du nằm ở trong khoảng khe của đốt xương thứ
năm[4], Cách du nằm ở trong khoảng khe của đốt xương thứ bảy[5], Can du nằm ở
trong khoảng khe của đốt xương thứ chín[6], Tỳ du nằm ở trong khoảng khe của
đốt xương thứ mười một[7], Thận du nằm ở trong khoảng khe của đốt xương thứ
mười bốn[8], tất cả đều nương dọc theo cột sống, cách mạch Đốc của cột sống 3
thốn[9]. Nay muốn tìm được huyệt, ta hãy án lên nơi có huyệt khí, nó sẽ ứng với
bên trong và sự đau nhức sẽ dễ chịu, đó chính là nơi của du huyệt vậy[10]. Dùng
phép cứu thì được, dùng phép châm thì không được[11]. Khi nào khí thịnh thì
dùng phép tả, khi nào khí hư thì dùng phép bổ[12]. Khi nào dùng hỏa để bổ thì
đừng có thổi vào đốm lửa (ngải cứu), nên để cho nó cháy đến khi tắt hẳn[13], khi
nào dùng hỏa để tả thì đừng thổi nhanh đốm lửa, đó là muốn truyền qua đóm ngải,
nên để cho lửa này cháy cho đến tắt hẳn”[14].
6 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1360 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Thiên 51: bối du, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THIÊN 51: BỐI DU
Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá: "Ta mong được nghe các huyệt du của ngũ tạng xuất ra ở
vùng lưng”[1].
Kỳ Bá đáp : "Huyệt du lớn ở ngực (lưng) nằm tại đầu của trữ cốt[2]. Phế Du nằm ở
trong khoảng Tam tiêu[3], Tâm Du nằm ở trong khoảng khe của đốt xương thứ
năm[4], Cách du nằm ở trong khoảng khe của đốt xương thứ bảy[5], Can du nằm ở
trong khoảng khe của đốt xương thứ chín[6], Tỳ du nằm ở trong khoảng khe của
đốt xương thứ mười một[7], Thận du nằm ở trong khoảng khe của đốt xương thứ
mười bốn[8], tất cả đều nương dọc theo cột sống, cách mạch Đốc của cột sống 3
thốn[9]. Nay muốn tìm được huyệt, ta hãy án lên nơi có huyệt khí, nó sẽ ứng với
bên trong và sự đau nhức sẽ dễ chịu, đó chính là nơi của du huyệt vậy[10]. Dùng
phép cứu thì được, dùng phép châm thì không được[11]. Khi nào khí thịnh thì
dùng phép tả, khi nào khí hư thì dùng phép bổ[12]. Khi nào dùng hỏa để bổ thì
đừng có thổi vào đốm lửa (ngải cứu), nên để cho nó cháy đến khi tắt hẳn[13], khi
nào dùng hỏa để tả thì đừng thổi nhanh đốm lửa, đó là muốn truyền qua đóm ngải,
nên để cho lửa này cháy cho đến tắt hẳn”[14].
THIÊN 52: VỆ KHÍ
Hoàng Đế hỏi: "Ngũ tạng là nơi tàng giữ tinh, thần, hồn, phách[1], Lục phủ là nơi
thọ nhận thủy cốc để hóa, để thành thức ăn[2]. Khí của nó bên trong dưỡng ngũ
tạng, bên ngoài liên lạc với các chi và các tiết[3]. Khí nào phù mà không vận hành
theo các kinh thuộc về vệ khí[4], khí tinh thì vận hành trong các kinh thuộc về
doanh khí[5]. Thế là Âm Dương tùy vào nhau, trong và ngoài cùng quán xuyến
nhau như chiếc vòng ngọc không có đầu mối, như dòng nước trôi chảy qua nhiều
bến bờ nhưng rất êm xuôi, không làm gì cho cũng được[6]. Tuy nhiên sự phân biệt
Âm Dương, tất cả đều phải theo tiêu bản, hư thực nơi nó tách rời nhau[7]. Nếu ta
biết phân biệt 12 kinh của Âm Dương, ta sẽ biết được sinh ra nơi đâu[8]; Nếu ta có
thể nắm được sự biểu hiện hư thực tại nơi nào, ta sẽ biết được bệnh xảy ra ở trên
cao hay dưới thấp[9]; Nếu ta biết được những con đường khí nhai của lục phủ, ta
có thể giải được những kết tụ, biết được lẽ tương hợp và kế tiếp nhau nơi cánh cửa
của sự sống[10]; Nếu ta biết được sự cứng mềm của hư thực, ta sẽ biết được phải
bổ tả nơi nào[11]; Nếu ta biết được tiêu bản của lục kinh, ta sẽ không còn bị mê
hoặc bởi người trong thiên hạ”[12].
Kỳ Bá đáp : "Ôi ! To rộng thay lời luận bàn của bậc Thánh đế, Thần xin nói cho
hết ý của mình[13]. Bản của kinh túc Thái dương nằm ở trên gót chân 5 thốn, tiêu
của nó nằm ở vùng 2 lạc thuộc mệnh môn, mệnh môn đây là nơi đôi mắt[14]. Bản
của kinh túc Thiếu dương nằm trong khoảng huyệt Khiếu Âm, tiêu của nó nằm ở
trước huyệt Song Long, huyệt Song Long ở vùng tai[15]. Bản của kinh túc Thiếu
âm nằm ở phía dưới mắt cá trong lên trên 3 thốn, tiêu của nó nằm ở huyệt bối du và
ở phía dưới lưỡi nơi có 2 mạch[16]. Bản của kinh túc Quyết âm nằm ở nơi huyệt
Hành Gian lên trên 5 thốn, tiêu của nó nằm ở huyệt bối du[17]. Bản của kinh túc
Dương minh nằm ở huyệt Lệ Đoài, tiêu của nó nằm ở huyệt Nhân Nghênh, tức bên
dưới má cạnh vùng kết hầu[18]. Bản của kinh túc Thái âm nằm ở trước huyệt
Trung Phong lên trên 4 thốn, tiêu của nó nằm ở huyệt bối du và cuống lưỡi[19].
Bản của kinh thủ Thái dương nằm ở phía sau mắt cá ngoài của tay, tiêu của nó nằm
ở phía trên mệnh môn (mắt) 1 thốn[20]. Bản của kinh thủ Thiếu dương nằm ở
trong khoảng của ngón út và ngón áp út lên trên 2 thốn, tiêu của nó nằm ở bên
ngoài của góc trên phía sau tai, nơi phía mắt ngoài[21]. Bản của kinh thủ Dương
minh nằm ở xương khủy tay, lên đến vùng biệt Dương, tiêu ở tại dưới góc trán, kẹp
giữa 2 tai[22]. Bản của kinh thủ Thái âm nằm ở giữa huyệt Thốn khẩu, tiêu ở tại
động mạch trong nách[23]. Bản của kinh thủ Thiếu âm nằm ở đầu xương nhọn cổ
tay, tiêu ở tại huyệt bối du[24]. Bản của kinh thủ Tâm chủ nằm ở trong khoảng
giữa 2 đường gân phía sau bàn tay 2 thốn, tiêu ở tại dưới nách xuống 3 thốn[25].
Phàm tất cả được biểu hiện của những kinh trên, nếu phía dưới bị hư thì bị chứng
choáng váng, phía trên bị thịnh thì bị nhiệt mà đau[26]. Nếu bị thực (thạch) (có thể
dùng phép tả) để giải bớt cái kết ngưng được bệnh, nếu bị hư thì có thể dùng phép
bổ để dẫn đạo cho chân khí phấn chấn (không còn suy nữa)[27]. Thần xin nói thêm
về khí “nhai”, khí ở đầu có “nhai”, khí ở cẳng chân có “nhai”, cho nên khí ở đầu bị
thực hay hư nên trị dứt ở não[28], nếu khí ở ngực bị thực hay hư nên trị dứt ở vùng
bối du và các vùng động mạch nằm 2 bên rốn[29], nếu khí ở cẳng chân bị thực hay
hư nên trị dứt ở huyệt Khí Nhai và huyệt Thừa Sơn và vùng trên dưới mắt cá[30].
Khi thủ các huyệt này, nên dùng hào châm, trước hết nên án vào nơi huyệt rất lâu,
chừng nào mạch khí ứng với tay mới châm vào[31]. Nó trị các chứng đầu đau,
choáng váng, té nhào, bụng đau, vùng Trung tiêu bị đầy, trướng lên dữ dội, nếu
như các chứng tích khí mới có, đau nhưng có dời chỗ thì dễ khỏi, nếu tích khí mà
không đau thì khó khỏi”[32].
THIÊN 53: LUẬN THỐNG
Hoàng Đế hỏi Thiếu Du: "Sự cường hay nhược của cân và cốt, sự cứng mềm của
cơ nhục, sự dày mỏng của bì phu, sự kín đáo và thưa rỗng của tấu lý (trong thân
thể của con người), tất cả đều không đồng nhau, như vậy đối với sự cảm nhận và
vấn đề đau nhức đối với việc châm bằng đá và mồi ngải cứu sẽ thế nào ?[1] Sự dày
và mỏng, cứng và mềm của Trường Vị cũng không đồng nhau, như vậy đối với sự
chịu đựng về tác dụng của độc dược sẽ thế nào ? Ta mong được nghe về tất cả
những thắc mắc nói trên”[2].
Thiếu Du đáp: “Có 1 số người, xương của họ cứng, gân của họ mềm, thịt của họ
mềm mại, bì phu dày, họ có thể chịu được sự đau nhức, và do đó, họ cũng có thể
chịu đựng được sự thống cảm do châm và cứu gây nên”[3].
Hoàng Đế hỏi: "Làm thế nào có thể biết được số người nào đó chịu đựng được sự
thống cảm do cứu đốt gây ra ?”[4].
Thiếu Du đáp: “Nếu có người thân thể cường tráng, thêm vào đó, họ có bì phu mầu
đen, xương cốt rắn đẹp, họ có thể chịu được sự thống cảm của sự cứu đốt”[5].
Hoàng Đế hỏi: "Làm thế nào có thể biết được số người nào đó không chịu đựng
được sự thống cảm do châm thích gây ra ?”[6].
Thiếu Du đáp: “Người nào cơ nhục rắn chắc mà bì phu mỏng, đa số họ không chịu
đựng được sự thống cảm của sự châm thích, do đó đối với sự thống cảm của việc
cứu đốt, họ cũng không chịu được”[7].
Hoàng Đế hỏi: "Có những người đồng thời bị bệnh, nhưng có người thì dễ khỏi, có
người lại khó khỏi, nguyên nhân nào khiến như thế ?”[8].
Thiếu Du đáp: “Nếu có những người đồng thời bị bệnh, người nào thân thể thường
bị nhiệt thì chóng khỏi, còn người nào thân thể thường bị hàn thì khó (và lâu)
khỏi”[9].
Hoàng Đế hỏi: "Làm thế nào có thể biết người nào chịu đựng được sự tấn công của
độc dược ?”[10].
Thiếu Du đáp: “Khi nào Vị dầy, làn da đen, xương to, thân hình mập béo, những
người này có thể chịu đựng được sự tấn công của các dược vật có độc tính[11]. Do
đó, ta cũng biết được rằng những người thân hình gầy ốm, Vị mỏng, họ đều không
thể chịu đựng được sự tấn công của các dược vật có độc tính”[12].
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thien_3_3496.pdf