Hoàng Đế hỏi: "Mạch ứng với Thốn khẩu, như thế nào mới là mạch của bệnh
trướng ?" [1].
Kỳ Bá đáp : "Mạch của Thốn khẩu đại kiên đến sắc, đó là thuộc mạch của bệnh
trướng"[2].
Hoàng Đế hỏi: "Làm thế nào biết được chứng trướng của tạng hay phủ ?"[3].
Kỳ Bá đáp : "Âm thuộc tạng, Dương thuộc phủ"[4].
Hoàng Đế hỏi: "Ôi ! Khí làm cho con người bị trướng, nó ở trong huyết mạch ư ?
Ở bên trong tạng phủ ư ?"[5].
Kỳ Bá đáp : "Cả 3 đều có, tuy nhiên chúng vẫn không phải là nơi ở của bệnh
trướng"[6].
Hoàng Đế hỏi: "Ta mong được nghe về chỗ ở của bệnh trướng"[7].
Kỳ Bá đáp : "Ôi ! Bệnh trướng nằm ở bên ngoài của tạng phủ, dọc theo tạng phủ
nhưng lại nở rộng ở vùng ngực và hông sườn, làm trướng ở bì phu, cho nên gọi tên
là trướng"[8].
5 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1335 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Thiên 35: trướng luận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THIÊN 35: TRƯỚNG LUẬN
Hoàng Đế hỏi: "Mạch ứng với Thốn khẩu, như thế nào mới là mạch của bệnh
trướng ?" [1].
Kỳ Bá đáp : "Mạch của Thốn khẩu đại kiên đến sắc, đó là thuộc mạch của bệnh
trướng"[2].
Hoàng Đế hỏi: "Làm thế nào biết được chứng trướng của tạng hay phủ ?"[3].
Kỳ Bá đáp : "Âm thuộc tạng, Dương thuộc phủ"[4].
Hoàng Đế hỏi: "Ôi ! Khí làm cho con người bị trướng, nó ở trong huyết mạch ư ?
Ở bên trong tạng phủ ư ?"[5].
Kỳ Bá đáp : "Cả 3 đều có, tuy nhiên chúng vẫn không phải là nơi ở của bệnh
trướng"[6].
Hoàng Đế hỏi: "Ta mong được nghe về chỗ ở của bệnh trướng"[7].
Kỳ Bá đáp : "Ôi ! Bệnh trướng nằm ở bên ngoài của tạng phủ, dọc theo tạng phủ
nhưng lại nở rộng ở vùng ngực và hông sườn, làm trướng ở bì phu, cho nên gọi tên
là trướng"[8].
Hoàng Đế hỏi: "Tạng phủ nằm bên trong lồng ngực, hông sườn, trong bụng, ví như
những chiếc hộp tàng giữ những vật qúy báu vậy, chúng đều có chỗ ở theo thứ lớp,
khác tên nhau, nhưng lại cùng ở một nơi, một vùng, khí của mỗi tạng phủ đều phát
ra những chứng trạng khác nhau, ta mong được giải thích về vấn đề trên"[9].
Hoàng Đế nói: "Ta chưa hiểu được ý của phu tử, xin hỏi tiếp"[10].
Kỳ Bá đáp : "Ôi ! Ngực và bụng là cái quách bên ngoài của tạng phủ[11]. Chiên
Trung là cung thành của Tâm chủ[12]. Vị là cái kho lớn[13]. Yết hầu và Tiểu
trường có nhiệm vụ truyền đưa[14]. Ngũ khiếu của Vị đóng vai cổng, hẻm, cửa
lớn, cửa nhỏ[15]. Huyệt Liêm Tuyền và Ngọc Anh là con đường đi của tân
dịch[16]. Cho nên ngũ tạng và lục phủ đều có các bờ bến (giới hạn) của nó và do
đó bệnh của nó cũng có những hình trạng riêng mình[17]. Doanh khí tuần hành
theo mạch, vệ khí nghịch gây thành chứng mạch trướng[18]. Vệ khí nhập chung lại
với mạch, tuần hành theo vùng phận nhục gây thành chứng phu trướng[19]. Nên
thủ huyệt Tam Lý để tả, (tà khí) ở cạn châm 1 lần, ở xa (sâu) châm 3 lần, không đặt
vấn đề hư thực, cái khéo là mau mau châm tả"[20].
Hoàng Đế nói: "Ta mong được nghe về hình trạng của bệnh trướng"[21].
Kỳ Bá đáp : "Ôi ! Bệnh Tâm trướng làm cho Tâm phiền, hơi thở ngắn, nằm không
yên[22]. Bệnh Phế trướng làm cho người hư mà đầy, suyễn ho[23]. Bệnh Can
trướng làm cho dưới hông sườn bị đầy mà đau, dẫn xuống đến vùng thiếu
phúc[24]. Bệnh Tỳ trướng làm cho hay bị ói, tay chân phiền muộn, nặng nề, không
mặc được quần áo, nằm không yên[25]. Bệnh Thận trướng làm cho bụng bị đầy lan
ra vùng lưng, đau từ thắt lưng đến vùng xương đùi[26]. Lục phủ trướng: chứng Vị
trướng làm cho bụng bị đầy, Vị hoãn đau, mũi nghe mùi khét, hôi thối, làm ảnh
hưởng đến việc ăn uống, đại tiện khó khăn[27]. Chứng đại trường trướng làm cho
sôi ruột mà đau, tiếng kêu rồn rột, nếu mùa đông mà bị trúng cảm bởi hàn khí thì
sẽ bị chứng xôn tiết, ăn không tiêu hóa[28]. Chứng Tiểu trường trướng làm cho
vùng thiếu phúc bị sưng trướng, đau dẫn đến vùng thắt lưng[29]. Chứng Bàng
quang trướng làm cho vùng thiếu phúc bị đầy và khí làm cho tiểu tiện bị bí[30].
Chứng Tam tiêu trướng làm cho khí bị đầy ở trong khoảng bì phu, dáng mềm mại
mà không cứng[31]. Chứng Đởm trướng làm cho dưới hông sườn bị trướng, trong
miệng bị đắng, dễ bị thở mạnh[32].
Phàm tất cả các chứng trướng trên, con đường đưa đến chỉ là một mà thôi, nếu ta
rõ được những điều nghịch và thuận của nó thì việc châm thuật sẽ không bị thất thố
[33]. Nếu ta tả hư, bổ thực thì sẽ làm cho thần khí rời khỏi chỗ của mình, đó là ta
đã giúp cho tà khí mà làm mất đi chính khí, chân khí sẽ không còn ổn định, thế là
người thầy thuốc vụng về đã làm bại hoại khí huyết, gọi là làm cho yểu mệnh[34].
Nếu ta bổ hư, tả thực, đó là ta điều hòa làm cho chính khí, chân khí trở lại tràn đầy
nơi không huyệt của vùng tấu lý, đây mới là người thầy giỏi"[35].
Hoàng Đế hỏi: "Chứng bệnh trướng sinh ra như thế nào ?"[36].
Kỳ Bá đáp : "Trong thân thể, vệ khí thường theo với mạch, tuần hành theo vùng
phận nhục, vận hành có nghịch thuận, Âm Dương cùng nương theo nhau, như thế
mới đắc được thiên hòa, khí doanh vệ mới vận hành xuất nhập, thay đổi ngày đêm,
ngũ tạng mới ứng với chiếc vòng ngọc chu nhi phục thỉ, bốn mùa vận hành theo
thứ tự, ngũ cốc mới hóa được[37]. Thế nhưng, nếu quyết khí đi xuống dưới, khí
doanh vệ không còn lưu hành và ngưng nghỉ không điều hòa, hàn khí nghịch lên
trên, chân khí và tà khí cùng đánh nhau, hai khí tranh nhau, bấy giờ mới hợp nhau
thành bệnh trướng"[38].
Hoàng Đế hỏi: "Đúng vậy ! Nhưng dựa vào đâu để ta có thể biết được quá trình kết
hợp thành bệnh trên ?"[39].
Kỳ Bá đáp : "Đó là sự kết hợp giữa tạng phủ và kinh mạch vào với chân khí, cả 3
hợp lại mà thành bệnh"[40].
Hoàng Đế hỏi: "Khi luận về bệnh trướng, ta không cần hỏi đến hư thực, điều khéo
nên làm là mau châm tả, bệnh gần (cạn) châm 1 lần, bệnh xa (sâu) châm 3 lần[41].
Nay có trường hợp, ta đã châm đến 3 lần rồi mà bệnh vẫn không bớt, sai lầm ở chỗ
nào ?"[42].
Kỳ Bá đáp : "Đây nói về phép châm, phải tấn công được vào vùng nhục hoang và
phải trúng vào khí huyệt, nếu không châm trúng vào khí huyệt sẽ làm cho khí bị bế
bên trong, châm không tấn công được vào vùng nhục hoang sẽ làm cho khí không
vận hành, tức là châm phớt cạn, châm trúng phận nhục, như vậy vệ khí sẽ làm loạn
với doanh khí và Âm Dương cũng rượt đuổi nhau (loạn)[43]. Đối với bệnh trướng,
đáng lẽ phải tả lại không châm tả, do đó mà khí không thoát, châm 3 lần nhưng vẫn
không thoát, vậy phải thay đổi huyệt đạo, khi nào khí thoát mới thôi[44]. Khí
không thoát thì châm trở lại, có thể vạn toàn, há có gì lo ngại đâu ?[45] Đối với
bệnh trướng, tất phải thẩm định cho rõ phép chẩn, nếu đáng phải tả thì châm tả,
đáng phải bổ thì châm bổ, ví như tiếng trống ứng với dùi trống, làm sao có thể
không bớt được?”.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thien_35_1479.pdf