Bệnh quyết nghịch đi áp theo cột sống làm đau lên đến đỉnh đầu, đầu bị trầm trầm,
mắt bị hoa hoa, cột sống ở thắt lưng bị cứng, thủ huyệt ở huyết lạc tại kheo chân
thuộc kinh túc Thái Dương[1].
Bệnh quyết nghịch làm cho lồng ngực bị đầy, mặt bị thũng, môi run cầm cập, bật
ra tiếng nói rất khó, nếu nặng hơn, sẽ không nói chuyện được, thủ huyệt ở kinh túc
Dương Minh[2].
Bệnh quyết nghịch làm cho khí đi lên đến cổ họng, không nói chuyện được, tay
chân lạnh, đại tiện bất lợi, thủ huyệt ở túc Thiếu Âm[3].
Bệnh quyết nghịch làm cho bụng kêu ồ ồ, khi hàn khí nhiều làm cho trong bụng
kêu róc rách, tiêu và tiểu rất khó khăn, thủ kinh túc Thái Âm[4].
Cổ họng khô (ách), trong miệng nóng như có keo, thủ kinh túc Thiếu Âm[5].
Trong gối bị đau, thủ huyệt Độc Tỵ, dùng kim viên lợi châm, châm xong rồi chờ
cách khoảng thời gian để châm tiếp, dùng kim to như sợi lông đuôi trâu, châm gối
đau như thế không còn nghi ngờ gì nữa[6].
Cổ họng (hầu) bị tý không nói chuyện được, châm kinh túc Dương Minh, nếu còn
nói được, châm kinh thủ Dương Minh[7].
5 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1352 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Thiên 26: tạp bệnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THIÊN 26: TẠP BỆNH
Bệnh quyết nghịch đi áp theo cột sống làm đau lên đến đỉnh đầu, đầu bị trầm trầm,
mắt bị hoa hoa, cột sống ở thắt lưng bị cứng, thủ huyệt ở huyết lạc tại kheo chân
thuộc kinh túc Thái Dương[1].
Bệnh quyết nghịch làm cho lồng ngực bị đầy, mặt bị thũng, môi run cầm cập, bật
ra tiếng nói rất khó, nếu nặng hơn, sẽ không nói chuyện được, thủ huyệt ở kinh túc
Dương Minh[2].
Bệnh quyết nghịch làm cho khí đi lên đến cổ họng, không nói chuyện được, tay
chân lạnh, đại tiện bất lợi, thủ huyệt ở túc Thiếu Âm[3].
Bệnh quyết nghịch làm cho bụng kêu ồ ồ, khi hàn khí nhiều làm cho trong bụng
kêu róc rách, tiêu và tiểu rất khó khăn, thủ kinh túc Thái Âm[4].
Cổ họng khô (ách), trong miệng nóng như có keo, thủ kinh túc Thiếu Âm[5].
Trong gối bị đau, thủ huyệt Độc Tỵ, dùng kim viên lợi châm, châm xong rồi chờ
cách khoảng thời gian để châm tiếp, dùng kim to như sợi lông đuôi trâu, châm gối
đau như thế không còn nghi ngờ gì nữa[6].
Cổ họng (hầu) bị tý không nói chuyện được, châm kinh túc Dương Minh, nếu còn
nói được, châm kinh thủ Dương Minh[7].
Bệnh ngược (sốt rét) không khát nước, cách ngày phát tác 1 lần, thủ kinh túc
Dương Minh, nếu có khát nước và mỗi ngày phát tác, thủ kinh thủ Dương minh[8].
Răng đau không sợ uống nước lạnh, thủ kinh túc Dương minh, nếu sợ uống nước
lạnh, thủ kinh thủ Dương minh[9].
Bệnh điếc mà không đau nhức, thủ kinh túc Dương minh; điếc mà đau nhức, thủ
kinh thủ Dương minh[10].
Chứng chảy máu mũi không ngừng, có máu bầm chảy ra, thủ kinh túc Thái dương,
nếu máu bầm không chảy nữa, thủ kinh Thủ Thái dương; nếu không hết, châm
huyệt nằm dưới xương uyển cốt, nếu vẫn không hết châm xuất huyết lạc ở kheo
chân[11].
Chứng lưng đau, trên chỗ đau bị lạnh, thủ kinh túc Thái dương, Dương minh, còn
nếu trên chỗ đau bị nóng, thủ kinh túc Quyết âm; nếu không cúi ngửa được, thủ
kinh túc Thiếu dương[12].
Trong ngực bị nhiệt, muốn nôn, thủ huyết lạc ở kheo chân, thuộc kinh úc Thiếu
Âm[13].
Vì vui mừng và giận dữ mà không muốn ăn, tiếng nói ngày càng nhỏ, thủ kinh túc
Thái âm[14].
Vì giận mà nói nhiều, châm kinh túc Thiếu dương[15].
Hàm bị đau nhức, châm kinh thủ Dương minh, châm xuất huyết chỗ có thịnh mạch
ở vùng má và lên đến Thái dương[16].
Cổ gáy bị đau làm cho không thể cúi ngửa được, châm kinh túc Thái Dương, nếu
làm cho không thể ngó ngoái lại phía sau thì châm kinh thủ Thái dương[17].
Thiếu phúc bị đầy, to, lên trên chạy đến vùng Vị, đến Tâm, thân mình hơi bị dao
động, có lúc bị hàn nhiệt, tiểu tiện bất lợi, thủ kinh túc Quyết âm[18].
Bụng đầy, đại tiện bất lợi, bụng to, khí cũng chạy lên đến ngực và cổ họng, thở
suyễn mạnh, cổ khan, thủ kinh túc Thiếu âm[19].
Bụng đầy, ăn không tiêu, bụngsôi, không đi tiểu được, thủ kinh túc Thái âm[20].
Chứng Tâm thống đau dẫn đến cột sống thắt lưng, muốn nôn, thủ kinh túc Thiếu
âm[21].
Chứng Tâm thống làm cho bụng bị trướng như có cái gì bị sợ lạnh, đại tiện bất lợi,
thủ kinh túc Thái âm[22].
Chứng Tâm thống đau dẫn đến lưng làm cho không thở được, châm kinh túc Thiếu
âm, nếu không hết, châm kinh thủ Thiếu dương[23].
Chứng Tâm thống kéo theo làm cho bụng dưới đầy, dưới trên không nơi nhất định,
đại tiện khó khăn, châm kinh túc Quyết âm[24].
Chứng Tâm thống chỉ có khí ngắn không đủ để thở mà thôi, châm kinh thủ Thái
âm[25].
Chứng Tâm thống nên chọn huyệt ngay ở (quanh) đốt xương thứ 9 để châm, trước
hết dùng tay ấn lên chỗ phải châm, khi rút kim ra lại dùng tay ấn, ấn xong là hết
ngay; nếu không hết, nên tìm các huyệt ở trên và ở dưới (huyệt) đã châm, khi nào
đắc khí thì khỏi bệnh ngay[26].
Hàm (má) bị đau, châm kinh túc Dương minh, ngay chỗ xương gãy quay hàm, nơi
có động mạch quay quanh, châm xuất huyết xong là khỏi ngay; nếu không khỏi,
nên ấn lên huyệt Nhân Nghênh của bản kinh (châm cạn), khỏi ngay[27].
Chứng khí nghịch lên trên, châm nơi hãm huyết ở vùng ngực, rồi lại châm huyệt có
động mạch ở dưới ngực[28].
Bệnh Nuy quyết, nên trói tay chân người bệnh lại để làm cho họ bị bực bội , bấy
giờ mới mở trói ra, Mỗi ngày 2 lần; Nếu có bị bất nhân là không còn cảm giác, nên
chữa như vậy trong 10 ngày sẽ kết quả, đừng ngưng lại, đợi khi nào bệnh khỏi mới
thôi[29].
Bệnh Uyết nấc, nên dùng cọng cỏ châm nhẹ vào mũi để cho bị ách xì, xong sẽ khỏi
bệnh, hoặc là làm sao để cho ngộp thở, xong ngước mặt lên dẫn khí ra ngoài sẽ
khỏi, hoặc làm cho người bệnh bị sợ dữ dội cũng có thể khỏi bệnh[30].
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thien_26_4969.pdf