Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá: “Kinh mạch gồm có 12 đường, bên ngoài nó hợp với 12 kinh
thủy, bên trong nó thuộc vào ngũ tạng, lục phủ [1]. Ôi ! 12 kinh thủy, trong số đó
có lớn nhỏ, có sâu cạn, có rộng hẹp, có xa gần, tất cả đều không đồng nhau[2]. Ngũ
tạng lục phủ có những cao thấp, nhỏ lớn, thọ nhận cốc khí nhiều ít cũng không
bằng nhau. vậy sự tương ứng giữa chúng với nhau như thế nào?[3] Ôi ! kinh Thủy
nhờ thọ được thủy để vận hành, ngũ tạng nhờ hợp được với thần khí hồn phách để
tàng giữ, lục phủ nhờ thọ được ‘cốc khí’ để vận hành, thọ được ‘khí’ để mà mở
rộng ra, kinh mạch nhờ thọ được ‘huyết’ để mà ‘doanh’ ra[4]. Nay muốn hợp lại
nhau để ‘trị bệnh’ phải làm sao?[5] Ta có thể nghe trình bày về sự châm sâu hay
cạn, cứu bằng tráng số nhiều hay ít không?”[6].
5 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1494 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Thiên 12: kinh thủy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THIÊN 12: KINH THỦY
Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá: “Kinh mạch gồm có 12 đường, bên ngoài nó hợp với 12 kinh
thủy, bên trong nó thuộc vào ngũ tạng, lục phủ [1]. Ôi ! 12 kinh thủy, trong số đó
có lớn nhỏ, có sâu cạn, có rộng hẹp, có xa gần, tất cả đều không đồng nhau[2]. Ngũ
tạng lục phủ có những cao thấp, nhỏ lớn, thọ nhận cốc khí nhiều ít cũng không
bằng nhau. vậy sự tương ứng giữa chúng với nhau như thế nào?[3] Ôi ! kinh Thủy
nhờ thọ được thủy để vận hành, ngũ tạng nhờ hợp được với thần khí hồn phách để
tàng giữ, lục phủ nhờ thọ được ‘cốc khí’ để vận hành, thọ được ‘khí’ để mà mở
rộng ra, kinh mạch nhờ thọ được ‘huyết’ để mà ‘doanh’ ra[4]. Nay muốn hợp lại
nhau để ‘trị bệnh’ phải làm sao?[5] Ta có thể nghe trình bày về sự châm sâu hay
cạn, cứu bằng tráng số nhiều hay ít không?”[6].
Kỳ Bá đáp rằng: “Câu hỏi khéo thay ! Thiên rất cao không thể đo, Địa rất rộng
không lường, đó là ý nghĩa của vấn đề được đặt ra[7]. Vả lại, con người sinh ra
trong khoảng Thiên Địa, bên trong lục hợp[8]. Đây là Trời cao, Đất rộng, không
phải là cái mà con người có thể đo lường mà đạt được vậy[9]. Đến như những kẻ
mình cao 8 thước, da thịt hiện rõ nơi đây, bên ngoài, ta có thể đo lường, rờ mó để
biết được, khi chết, ta có thể ‘giải phẫu’ để nhìn xem sự cứng mềm của tạng, sự lớn
nhỏ của phủ, sự nhiều ít của cốc khí, sự dài ngắn của mạch, sự thanh trọc của
huyết, sự nhiều ít của khí[10]. Trong 12 kinh, kinh nào huyết nhiều khí ít, kinh nào
huyết ít,khí nhiều , kinh nào cả huyết khí đều nhiều, kinh nào cả huyết lẫn khí đều
thiếu, tất cả đều có ‘số lớn’ của nó[11]. Khi trị, dùng châm cứu nhằm điều hòa khí
của đường kinh, mỗi trường hợp đều có chỗ thích hợp của nó”[12].
Hoàng Đế nói: “Ta nghe Thầy nói, tai ta rất thích, nhưng Tâm ta chưa được thỏa
mãn. Ta mong được nghe cho hết”.[13]
Kỳ Bá đáp : “Đây chính là những gì con người ‘tham’ được với Thiên Địa, ứng
được với Âm Dương, không thể không xét cho rõ”[14].
Kinh túc Thái dương, bên ngoài nó hợp với sông Thanh thủy, bên trong nó thuộc
vào Bàng quang có nhiệm vụ làm thông thủy đạo[15].
Kinh túc Thiếu dương, bên ngoài nó hợp với sông Vị thủy, bên trong nó thuộc vào
Đởm[16].
Kinh túc Dương minh , bên ngoài nó hợp với Hải thủy, bên trong nó thuộc
vàoVị[17].
Kinh túc Thái âm, bên ngoài nó hợp với sông Nhữ thủy, bên trong nó thuộc vào
Thận[18].
Kinh túc Quyết âm, bên ngoài nó hợp với sông Thằng thủy, bên trong nó thuộc vào
Can[19].
Kinh thủ Thái dương, bên ngoài nó hợp với sông Hoài thủy, bên trong nó thuộc
vào Tiểu trường, thủy đạo xuất ra từ đây[20].
Kinh thủ Thiếu dương, bên ngoài nó hợp với sông Tháp thủy, bên trong nó thuộc
vào Tam tiêu[21].
Kinh thủ Dương minh, bên ngoài nó hợp với sông Giang thủy, bên trong nó thuộc
vào Đại trường[22].
Kinh thủ Thái âm, bên ngoài nó hợp với sông Hà thủy, bên trong nó thuộc vào Phế
[23].
Kinh thủ Thiếu âm, bên ngoài nó hợp với sông Tế thủy, bên trong nó thuộc vào
Tâm[24].
Kinh thủ Tâm chủ, bên ngoài nó hợp với sông Chương thủy, bên trong nó thuộc
vào Tâm bào[25].
Phàm tất cả ngũ tạng, lục phủ, thập nhị kinh thủy, bên ngoài nó có nguồn, bên
trong nó có chỗ bẩm thu, tất cả xuyên suốt nhau như chiếc vòng ngọc không đầu
mối[26]. ‘Kinh’ của con người giống như vậy[27]. Cho nên, Thiên thuộc Dương,
Địa thuộc Âm, từ thắt lưng trở lên thuộc Thiên, từ thắt lưng trở xuống thuộc
Địa[28]. Cho nên, từ “hải” về phía bắc thuộc Âm, từ “hồ” về phía bắc thuộc Âm
trong Âm, từ sông Chương về phía nam thuộc Dương, từ sông Hà thủy về phía bắc
không đến sông Chương thuộc Âm trong Dương, từ sông Tháp thủy về nam đến
sông Giang thủy thuộc Thái dương trong Dương[29]. Đây chỉ là 1 vùng đất (tượng
trưng) sự tương hợp của Âm Dương mà thôi, nhằm chứng minh con người cùng
‘tham’ với Thiên Địa[30].
Hoàng Đế hỏi: Ôi ! Sự tương hợp giữa kinh thủy và kinh mạch có những chỗ xa
gần, cạn sâu, thủy và huyết có sựnhiều ít, đều có những bất đồng nhưng hợp nhau,
dùng nó vào việc châm như thế nào ?”[31].
Kỳ Bá đáp : “Kinh túc Dương minh là ‘biển’ của ngũ tạng, lục phủ, mạch của nó
đại, huyết của nó nhiều, khí của nó thịnh, nhiệt của nó tráng; Châm đường kinh
này, nếu không sâu thì không làm tán được khí, không lưu kim thì không tả được
khí[32].
Châm kinh túc Dương minh sâu 6 phân, lưu 10 hô[33]. Châm kinh túc Thái dương
sâu 5 phân, lưu 7 hô [34]. Châm kinh túc Thiếu dương sâu 4 phân, lưu 5 hô [35].
Châm kinh túc Thái âm sâu 3 phân, lưu 4 hô [36]. Châm kinh túc Thiếu âm sâu 2
phân, lưu 3 hô[37]. Châm kinh túc Quyết âm sâu 1 phân, lưu 2 hô[38].
Âm dương của Thủ có con đường thọ khí gần, khí đến lại nhanh, độ châm sâu
không thể quá 2 phân, lưu kim đều không quá 1 hô[39]. Đối với những người còn
trẻ hoặc lớn tuổi, đối với người có vóc to hay bé nhỏ, đối với người mập hay gầy,
tất cả những trường hợp đó phải được người thầy thuốc dùng Tâm để thẩm định,
đây là ta đã phỏng theocái lẽ thường của Thiên[40].
Việc dùng phép “cứu” cũng thế, nếu cứu mà quá mức thì người bệnh sẽ bị ‘ác
hỏa’, xương bị khô, mạch bị sắc, nếu châm mà quá mức thì sẽ làm cho thoát
khí[41].
Hoàng Đế hỏi: “Ôi ! vấn đề nhỏ lớn của kinh mạch, nhiều ít của huyết, dày mỏng
của làn da, cứng mềm của bắp thịt cho đến vấn đề lớn nhỏ của “khuẩn: kết tụ giữa
cân và nhục”, tất cả có thể đo lường được hay không ?”[42].
Kỳ Bá đáp : “Nhắm vào những trường hợp của những người có thể ‘đo lường’
được rồi chọn người ‘trung đạt’, đó là những người chưa ‘thoát nhục’ thái quá mà
huyết khí cũng chưa suy[43]. Nếu gặp những người không đo lường được, tức là
những người gầy yếu, hình nhục đều thoát, như vậy làm sao có thể chỉ dựa vào sự
đo lường để mà châm được! Vậy nên thẩm xét lại phương pháp ‘thiết tuần môn
án’, nên nhìn vào sự hàn ôn, thịnh suy (của khí huyết) để mà điều hòa (khí huyết),
đó mới gọi là nhân theo chỗ thích ứng đáng gọi là con đường đúng đắn nhất
vậy[44]
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thien_12_7669.pdf