Bài viết này đề cập đến sự thích ứng của giáo viên mầm non (GVMN) mới vào nghề tại
thành phố Thủ Dầu Một biểu hiện qua khía cạnh thái độ đối với hoạt động dạy học. Khách
thể nghiên cứu gồm 100 giáo viên mầm non. Phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng
trong nghiên cứu này là phương pháp điều tra bằng bảng hỏi. Kết quả nghiên cứu cho thấy
mức độ thích ứng khác nhau ở những hành động dạy học khác nhau cũng như trong từng
biểu hiện của hành động. Mức độ thích ứng đối với ba hành động dạy (Chuẩn bị; tổ chức,
điều khiển; kiểm tra, đánh giá) không cao, trong đó hành động kiểm tra, đánh giá có mức
thích ứng cao hơn hai hành động còn lại.
6 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 13/05/2022 | Lượt xem: 612 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Thích ứng của giáo viên mầm non mới vào nghề tại thành phố Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương biểu hiện qua khía cạnh thái độ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2690
THÍCH ỨNG CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON MỚI VÀO NGHỀ
TẠI THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT TỈNH BÌNH DƯƠNG
BIỂU HIỆN QUA KHÍA CẠNH THÁI ĐỘ
Huỳnh Thanh Trúc
Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh
GVHD: TS. Nguyễn Thị Thanh Vân
TÓM TẮT
Bài viết này đề cập đến sự thích ứng của giáo viên mầm non (GVMN) mới vào nghề tại
thành phố Thủ Dầu Một biểu hiện qua khía cạnh thái độ đối với hoạt động dạy học. Khách
thể nghiên cứu gồm 100 giáo viên mầm non. Phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng
trong nghiên cứu này là phương pháp điều tra bằng bảng hỏi. Kết quả nghiên cứu cho thấy
mức độ thích ứng khác nhau ở những hành động dạy học khác nhau cũng như trong từng
biểu hiện của hành động. Mức độ thích ứng đối với ba hành động dạy (Chuẩn bị; tổ chức,
điều khiển; kiểm tra, đánh giá) không cao, trong đó hành động kiểm tra, đánh giá có mức
thích ứng cao hơn hai hành động còn lại.
Từ khóa: thích ứng, thái độ, giáo viên mầm non.
1 ĐẶT VẤN ĐỀ
Khi có sự thích ứng trong công việc, con người sẽ có sự say mê phấn khởi, sẽ đặt tâm trí và
sức lực của mình vào hoạt động. Thích ứng có thể hiểu như sự thích nghi và ứng xử, với
nghề nhà giáo, người dạy luôn phải tự xoay mình để thích nghi trong môi trường nghề
nghiệp của họ rồi tìm ra những phương pháp ứng xử để phù hợp cho công tác giảng dạy,
đưa được kiến thức tới người học. Một nghề được gọi với cái tên GVMN, cái nghề làm dâu
trăm họ, nghề làm mẹ cả trăm con, đòi hỏi những kiến thức chuyên ngành, kỹ năng sư
phạm, phẩm chất đạo đức, sự nhiệt huyết tận tâm với nghề. GVMN, nhất là khi mới vào
nghề, cảm thấy áp lực khi đối diện với một thế hệ mầm non như những trang giấy trắng với
những cử chỉ, hành vi đều mang theo sự hồn nhiên vô tư và cả sự bướng bỉnh, khóc la; vất
vả xử lý tình trạng ăn uống khó khăn của trẻ, khó xử trong những tình huống giữa các trẻ với
nhau, áp lực khi giao tiếp với phụ huynh Abe Arkoff (1968) chỉ ra rằng: “Sự thích ứng nói
chung của con người gồm các chỉ số: hạnh phúc, hài lòng, lòng tự trọng, sự phát triển cá
nhân, sự hội nhập cá nhân, khả năng tiếp xúc với môi trường, hiệu quả hoạt động trong môi
trường; sự độc lập với môi trường”. Một khi thái độ bị tác động theo chiều hướng tiêu cực thì
kéo theo nhiều hệ lụy. Xinyin Chen (2000) “Sự thất vọng tác động âm tính tới các kết quả
học tập và tác động dương tính tới việc tăng các khó khăn thích ứng”. Có thể thấy thái độ
góp một phần quan trọng trong hoạt động nói chung và hoạt động nghề nghiệp nói riêng,
cũng là yếu tố quan trọng tác động đến chất lượng dạy và học.
2691
2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để tìm hiểu về thích ứng của giáo viên mầm non mới vào nghề biểu hiện qua khía cạnh thái
độ, chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp nhưng phương pháp chính là phương pháp điều
tra bằng bảng hỏi. Khánh thể nghiên cứu gồm 100 giáo viên tại các trường mầm non trên địa
bàn thành phố Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương. Câu hỏi nghiên cứu gồm: Khi mới vào nghề
và cho đến nay, Thầy/Cô có sự thay đổi thái độ với hoạt động dạy không? Thái độ của
Thầy/Cô đối với từng hành động cụ thể như chuẩn bị cho hoạt động dạy học/tổ chức và điều
khiển hoạt động dạy học trên lớp/kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của trẻ?
Đánh giá sự thích ứng ở 5 mức độ: Mức độ thích ứng rất thấp: 1≤ĐTB≤1,80; Mức độ thích
ứng thấp: 1,81≤ĐTB≤2,60; Mức độ thích ứng trung bình: 2,61≤ĐTB≤3,40; Mức độ thích ứng
cao: 3,41≤ĐTB≤4,20; Mức độ thích ứng rất cao: 4,21≤ĐTB≤5,00.
3 KẾT QUẢ NGHIÊN CÚU
Nghiên cứu sự thay đổi thái độ với từng hành động dạy học cụ thể: Chuẩn bị cho hoạt động
dạy học; Tổ chức - điều khiển hoạt động ở lớp; Kiểm tra- đánh giá kết quả học tập để làm
sáng tỏ về mức độ thích ứng biểu hiện qua khía cạnh thái độ, chúng tôi khảo sát và xử lý số
liệu từ 100 phiếu điều tra, kết quả thể hiện ở Bảng 3.1, 3.2 và 3.3.
Thích ứng biểu hiện ở sự thay đổi thái độ khi thực hiện hành động chuẩn bị.
Kết quả Bảng 3.1 cho thấy trong khâu chuẩn bị cho hoạt động dạy, sự thay đổi thái độ của
GV cho thấy mức thích ứng thấp (ĐTB=2,42; ĐLC=1.172). Điểm trung bình cao nhất thuộc
về nội dung “Hứng thú, tìm tòi nghiên cứu tài liệu, các sách giáo khoa liên quan về kỹ năng
sư phạm, giảng dạy, lĩnh hội các kiến thức chuyên ngành mầm non”, được GV lựa chọn
nhiều nhất với ĐTB=2,54. Xếp hạng hai là “Hài lòng khi tiến hành xây kế hoạch giảng dạy và
tổ chức các trò chơi, theo năm, tháng và các buổi dạy, phù hợp tiêu chuẩn được đề ra” với
ĐTB=2,45. Những vị trí tiếp theo lần lượt là “Thích thú khi lên kế hoạch và thực hiện công
tác nuôi dưỡng, giáo dục và chăm sóc trẻ” có ĐTB=2,44 và “Say mê việc tự làm đồ dùng học
tập, đồ chơi, sưu tầm học cụ cho trẻ để sử dụng cho các bài giảng mang tính trực quan” có
ĐTB=2,39. Cuối cùng, thay đổi thái độ ở mức thấp nhất thuộc về “Quan tâm đến sự phát
triển kiến thức, sáng tạo khi soạn giáo án, tích cực đổi mới hoạt động dạy học” có trị số trung
bình ĐTB=2,28. Kết quả trên cho thấy biểu hiện tính đặc thù của nghề GVMN phải nắm
được các đặc điểm của từng trẻ, phát huy những sở trường trong quá trình lên lớp và khắc
phục những hạn chế của học sinh, theo đó đòi hỏi trong bước chuẩn bị các hoạt động phải
luôn đổi mới nhằm phát huy được tính tích cực giữa giáo viên và trẻ. Tìm hiểu sâu hơn vấn
đề này, chúng tôi thực hiện phỏng vấn cô Huỳnh Kim Lê H. và cô cho biết: “Vì mình là giáo
viên vào nghề mới được 1 năm, mình lựa chọn nghề này vì rất yêu thích trẻ, do còn thiếu
nhiều kinh nghiệm trong việc nắm bắt tâm lý cũng như hiểu trẻ, cho nên việc xây dựng nội
dung và tổ chức các hoạt động cho trẻ còn hạn chế dẫn đến chưa tạo được sự sôi nổi tích
cực trong giờ lên lớp, lúc đó mình cảm thấy rất áp lực và mệt mỏi, tôi còn nghĩ mình không
phù hợp với nghề. Nhưng dần về sau, mình đã hiểu trẻ hơn đồng thời cũng học hỏi các kinh
nghiệm của những thầy cô đi trước, khi thấy trẻ năng nổ tham gia các hoạt động mình đã có
lại niềm tin và hứng thú với nghề”. Kết quả phỏng vấn sâu càng cho thấy khía cạnh thích
ứng biểu hiện qua thái độ của giáo viên với hành động chuẩn bị. Khi mới bắt đầu vào nghề,
đa số GVMN mang trong mình sự nhiệt huyết, hào hứng cao, tuy nhiên chưa thật sự say
mê, hài lòng nên khó tránh khỏi sự mệt mỏi, chán nản.
2692
Thích ứng biểu hiện ở sự thay đổi thái độ khi tổ chức và điều khiển hoạt động dạy
học.
Nhìn bảng 3.2, thích ứng biểu hiện ở thay đổi thái độ khi tổ chức và điều khiển hoạt động
dạy học trên lớp của GVMN mới vào nghề cũng chỉ ở mức thấp (ĐTB=2,458 và
ĐLC=1,1572). Trong đó, sắp xếp theo mức độ thay đổi tăng dần thì “Thích sáng tạo khi xây
dựng những bài giảng, hoạt động cụ thể thu hút sự chú ý, tạo hứng thú cho trẻ” (ĐTB=2,68)
đạt mức cao nhất. “Hứng thú cập nhập lại kiến thức, đổi mới để có sự sáng tạo trong hoạt
động và sử dụng phương tiện để giáo dục trẻ” với ĐTB=2,62 cho thấy thu hút sự chú ý của
trẻ là thách thức lớn nhất đối với bất kì GVMN nào, vì vậy họ luôn cần sự thay đổi tìm kiếm
phương pháp giảng dạy để trẻ có được trải nghiệm hấp dẫn, thú vị trong lớp học. “Hài lòng
khi phân phối, sử dụng thời gian hợp lý trong giờ dạy” với ĐTB=2,45 đứng thứ ba và cuối
cùng là “Hài lòng khi xác định được trình tự logic của bài học” và “Hài lòng với ngôn ngữ rõ
ràng, trong sáng, truyền cảm” có mức độ thay đổi thấp nhất với trị số trung bình lần lượt là
2,34 và 2,20. Kết quả phỏng vấn sâu về thái độ khi tổ chức và điều khiển hoạt động dạy học
cho thấy hầu hết GVMN khi mới bắt đầu vào nghề do thiếu kinh nghiệm đứng lớp nên chưa
có nhiều sự tự tin dẫn đến không hài lòng về giọng nói, cảm thấy run và thiếu sự truyền cảm
qua lời nói. Họ có xu hướng coi trọng nội dung truyền đạt mà thiếu chú ý đến phương pháp
dạy, thiếu sự sáng tạo trong những tình huống kích thích sự tò mò cũng như gây hứng thú
cho trẻ. Cô Lê Thị Thanh H. cho rằng “GVMN mới vào nghề chưa tập trung nhiều đến việc tổ
chức và điều khiển, đổi mới hình thức tổ chức, sáng tạo hoạt động dạy để thu hút sự chú ý
cho trẻ”. Sự nhiệt huyết, tận tâm với nghề là những phẩm chất rất cần trong giáo dục mầm
non để có thể sáng tạo trong tổ chức và điều khiển lớp học, song thực tế có nhiều yếu tố tác
động trong quá trình hoạt động nghề làm hạn chế hiệu quả dạy học.
Bảng 3.1. Mức độ thay đổi thái độ của giáo viên đối với hành động chuẩn bị
Hành động
Hoàn toàn
không
thay đổi
(%)
Không
thay đổi
%
Phân
vân
%
Thay
đổi
%
Hoàn
toàn
thay đổi
%
ĐTB ĐLC
Chuẩn
bị
Hài lòng khi tiến hành
xây kế hoạch giảng
dạy và tổ chức các trò
chơi, theo năm, tháng
và các buổi dạy, phù
hợp tiêu chuẩn được
đề ra.
19,0 46,0 7,0 27,0 1,0 2,45 1,11
Thích thú khi lên kế
hoạch và thực hiện
công tác nuôi dưỡng,
giáo dục và chăm sóc
trẻ.
19,0 47,0 9,0 21,0 4,0 2,44 1,14
Hứng thú, tìm tòi
nghiên cứu tài liệu,
các sách giáo khoa
17,0 45,0 10,0 23,0 5,0 2,54 1,17
2693
Hành động
Hoàn toàn
không
thay đổi
(%)
Không
thay đổi
%
Phân
vân
%
Thay
đổi
%
Hoàn
toàn
thay đổi
%
ĐTB ĐLC
liên quan về kỹ năng
sư phạm, giảng dạy,
lĩnh hội các kiến thức
chuyên ngành mầm
non.
Say mê việc tự làm đồ
dùng học tập, đồ chơi,
sưu tầm học cụ cho trẻ
để sử dụng cho các
bài giảng mang tính
trực quan.
21,0 48,0 6,0 21,0 4,0 2,39 1,15
Quan tâm đến sự phát
triển kiến thức, sáng
tạo khi soạn giáo án,
tích cực đổi mới hoạt
động dạy học.
32,0 40,0 4,0 16,0 8,0 2,28 1,29
Chung 2,42 1,172
Bảng 3.2. Mức độ thay đổi thái độ của giáo viên đối với hành động tổ chức – điều khiển
Hành động
Hoàn toàn
không
thay đổi
(%)
Không
thay đổi
%
Phân
vân
%
Thay
đổi
%
Hoàn
toàn
thay đổi
%
ĐTB ĐLC
Tổ chức
điều
khiển
Hứng thú cập nhập
lại kiến thức, đổi
mới để có sự sáng
tạo trong hoạt động,
phương tiện để giáo
dục trẻ.
17,0 39,0 12,0 29,0 3,0 2,62 1,16
Thích sáng tạo khi
xây dựng những bài
giảng, hoạt động cụ
thể thu hút sự chú
ý, tạo hứng thú cho
trẻ.
16,0 43,0 7,0 25,0 9,0 2,68 1,26
Hài lòng khi phân
phối, sử dụng thời
gian hợp lý trong
giờ dạy.
17,0 50,0 11,0 15,0 7,0 2,45 1,14
2694
Hành động
Hoàn toàn
không
thay đổi
(%)
Không
thay đổi
%
Phân
vân
%
Thay
đổi
%
Hoàn
toàn
thay đổi
%
ĐTB ĐLC
Hài lòng khi xác
định được trình tự
logic của bài học.
19,0 53,0 9,0 13,0 6,0 2,34 1,11
Hài lòng với ngôn
ngữ rõ ràng, trong
sáng, truyền cảm
28,0 43,0 15,0 9,0 5,0 2,20 1,10
Chung 2,45 1,15
Bảng 3.3. Mức độ thay đổi thái độ của giáo viên đối với hành động kiểm tra, đánh giá
Hành động
Hoàn toàn
không
thay đổi
(%)
Không
thay đổi
%
Phân
vân
%
Thay
đổi
%
Hoàn
toàn
thay đổi
%
ĐTB ĐLC
Kiểm tra
đánh
giá
Hài lòng khi áp
dụng phương pháp
đánh giá hiệu quả.
21,0 43,0 5,0 26,0 5,0 2,51 1,22
Hài lòng khi xác
định thang điểm
chuẩn để thực hiện
đánh giá, xếp loại
19,0 45,0 5,0 24,0 7,0 2,55 1,24
Quan tâm đến việc
tạo dựng hoạt động
giúp trẻ học tập,
xây dựng câu hỏi,
bài tập, tạo huống
kiểm tra đảm bảo
tính phù hợp, vừa
sức với trẻ.
17,0 40,0 6,0 22,0 15,0 2,78 1,36
Thích thú xây dựng
kiến thức, nội dung
học tập cần kiểm tra.
19,0 30,0 11,0 30,0 10,0 2,82 1,32
Thích sáng tạo đổi
mới phương pháp
kiểm tra, đánh giá
vừa sức với trẻ.
19,0 33,0 4,0 26,0 18,0 2,91 1,44
Chung 2,71 1,32
Ghi chú: Điểm trung bình: ĐTB; Độ lệch chuẩn: ĐLC
2695
Thích ứng biểu hiện ở sự thay đổi thái độ trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của
trẻ.
Kết quả thích ứng biểu hiện ở sự thay đổi thái độ trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
của trẻ được thể hiện ở bảng 3.3. Các khía cạnh cụ thể trong hành động kiểm tra, đánh giá
được GVMN đánh giá có mức độ thay đổi tương đối hơn nhưng vẫn ở mức trung bình với trị
số trung bình 2,714 và ĐLC = 1.3202. Hầu hết GVMN tham gia nghiên cứu điều tỏ ra sự hài
lòng đối với khâu kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của trẻ. Trị số cao nhất thuộc về “Thích
sáng tạo đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá vừa sức với trẻ” với ĐTB = 2,91. Kế đến là
“Thích thú xây dựng kiến thức, nội dung học tập cần kiểm tra” với ĐTB = 2,82. “Quan tâm
đến việc tổ chức hoạt động cho trẻ học tập, xây dựng câu hỏi, bài tập, tạo huống kiểm tra
đảm bảo tính phù hợp, vừa sức với trẻ” có ĐTB = 2,78. Hành động được GVMN lựa chọn
đánh giá có sự thay đổi thấp nhất là “Hài lòng khi áp dụng phương pháp đánh giá hiệu quả”
với ĐTB = 2,51 và “Hài lòng khi xác định thang điểm chuẩn để thực hiện đánh giá, xếp loại”
với ĐTB = 2,55. Trong giáo dục mầm non, việc đánh giá, xếp loại trẻ là quy trình khó khăn,
phức tạp vì nó mang nhiều yếu tố tổng hợp, đối với GVMN mới vào nghề, nếu không đủ
hứng thú, yêu nghề thì việc này sẽ cảm thấy quá tải và áp lực.
4 KẾT LUẬN
Từ kết quả khảo sát trên 100 GVMN tại các trường mầm non trên địa bàn thành phố Thủ
Dầu Một, có thể thấy sự thích ứng của GVMN biểu hiện qua thái độ đối với từng hành động
dạy học. Trong 3 hành động được khảo sát, chỉ có 1 hành động có sự thay đổi ở mức trung
bình (Kiểm tra - đánh giá), 2 hành động còn lại (Chuẩn bị và Tổ chức - điều khiển) được các
GVMN chọn ở mức thích ứng thấp và tùy theo từng hành động mà có mức độ thay đổi và
thích ứng khác nhau. Có thể thấy sự thay đổi thái độ của GVMN đối với từng hành động dạy
học phản ánh mức độ thích ứng với ngành nghề. Tuy còn nhiều khó khăn ảnh hưởng đến
sự thích ứng với nghề, nhưng với nhiệt huyết và lòng yêu trẻ sẽ giúp những con người lái đò
trụ được với nghề, thích ứng tốt hơn để có được những giờ học thú vị thông qua các hành
động dạy học hiệu quả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Andreeva.E.A.(1972), Những vấn đề thích ứng của sinh viên, Thanh niên và giáo dục,
NXBTN cận vệ, Maxcơva.
[2] Arkoff.A,Adjustmant and mental health-Mc Graw–Mc Graw–Hill Book Company
[3] Hesketh, B, (2001), Ada.ting Vocational Psychology to Cope with Change Journal of
Vocational Behavior, Vol.59, Issue 2.
[4] Lê Thị Minh Loan (2010), Mức độ thích ứng nghề nghiệp của sinh viên sau khi tốt
nghiệp, Đề tài cấp Bộ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
[5] Xinyin Chen, Bo Shu Li (2000), Depressed mood in Chinese children: Development
significance for social and shool adjusment, International journal of development.
Volume 24, Issue 4.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thich_ung_cua_giao_vien_mam_non_moi_vao_nghe_tai_thanh_pho_t.pdf