- Ngô Đăng Lợi viết: “Qua ghi chép của Nghiêm Tông Giản, thì Mạc Đăng
Dung cùng đoàn tuỳtùng không được mặc phẩm phục, cổđeo dây lụa tượng trưng
cho sựđầu hàng đến lậy và cúi đầu (ngũ bái, tam khấu đầu) trước long đình che
lọng vàng, tượng trưng cho hoàng đế nhà Minh, chứ không phải quỳ lạy viên
tướng nhà Minh”[7; 135]. Cũng không phải cởi trần tựtrói.
- Dâng đất khống:
“Bốn động biên giới đã bịnhà Minh lấy lại từtrước, thành chuyện đã rồi đối
với nhà Mạc. Mạc Đăng Dung thực sựkhông hềmắc tội phản quốc, mà trái lại đã
góp một phần quan trọng trongviệc ổn định tình hình chính trị -xã hội trong nước,
cũng như tái lập quan hệbang giao với nhà Minh” [10; 88]. Còn Lê -Trịnh mãi
đến 1597 mới được nhà Minh xét công nhận (xem thêm ởphần sau).
Trong biểu tâu nhà Minh, Mạc Đăng Dung cũng viết đúng như vậy, và nêu cụ
thểlời của Tri châu châu Khâm là Lâm Hy Nguyên, chắc chắn đó là sựthật: “Mới
đây thần nghe Tri châu châu Khâm tỉnh Quảng Đông là Lâm Hy Nguyên xưng
rằng các động Ti Lẫm, Kim Lặc, CổSâm, Liễu Cát thuộc hai đô Như Tích, Thiếp
Lãng là đất cũ của châu Khâm; nếu đúng như vậy, thần xin vâng lời” [3].
12 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1168 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Thái Tổ Mạc Đăng Dung đã tránh cho đất nước khỏi họa xâm lăng của nhà Minh năm 1540, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thái Tổ Mạc Đăng Dung đã tránh cho đất nước khỏi họa xâm lăng của
nhà Minh năm 1540
Xung quanh sự kiện nhà Mạc thần phục nhà Minh năm 1540, một số nhà nghiên
cứu đã phê phán, nhận xét theo nếp cũ để kết tội nặng hoặc giảm tội cho Mạc
Đăng Dung. Bài viết này chứng minh rằng Mạc Đăng Dung không những không
có tội mà còn có công đối với đất nước.
Xung quanh sự kiện nhà Mạc thần phục nhà Minh năm 1540, một số nhà
nghiên cứu đã phê phán, nhận xét theo nếp cũ để kết tội nặng hoặc giảm tội cho
Mạc Đăng Dung. Bài viết này chứng minh rằng Mạc Đăng Dung không những
không có tội mà còn có công đối với đất nước.
1. Mưu đồ xâm lược nước ta của nhà Minh
* Quyết tâm xâm lược nước ta của nhà Minh đã được ghi lại trong nhiều tư liệu
lịch sử [9]:
- 16/11/1536: “Thiên tử phán: An Nam chiếu sứ không thông, lại từ lâu không
đến cống, phản nghịch đã rõ ràng, hãy sai sứ đến ngay hỏi tội. Việc chinh phạt sai
bộ binh bàn định gấp rồi tâu lên” (Minh Thực lục, Thế Tông, Q.193).
- 7/12/1536: Bộ Binh tâu: Cử một quan võ đại thần sung chức tổng binh. Cử
một quan văn đại thần cùng bàn bạc với tổng binh. Sắc cho các xứ Phủ, Án cùng
tướng lãnh để chỉnh đốn quân binh (Minh Thực lục, Thế Tông, Q.193).
- 12/1/1537: Tả thị lang bộ Hộ Đường Trụ nêu 7 điều can gián. Trong đó nhấn
mạnh đánh không được gì “quân đội chôn vùi, uy danh thương tổn”, tình hình
Trung Quốc hiện thiếu thốn nhiều mặt (Minh Thực lục, Thế Tông, Q.195).
- 13/3/1537: Trịnh Duy Liêu đến kinh đô tâu, xin “hưng binh hỏi tội để cứu
nguy nạn nước” (Minh Thực Lục, Thế Tông. Q.197).
- 20/5/1537: Theo lời tâu của Trịnh Duy Liêu, hai bộ Lễ và bộ Binh tuyên bố,
Mạc Đăng Dung có 10 tội, không thể khoan dung mà không đánh (Minh Thực lục,
Thế Tông, Q.199).
- 20/5/1537: “Thiên tử phán: An Nam từ lâu không đến cống tại sân đình, theo
phép đáng hỏi tội. Nay nước này tâu rằng nghịch thần Mạc Đăng Dung soán
đoạt... tiếm xưng danh hiệu, tội ác rõ ràng, mệnh tướng xuất sư chinh thảo” (Minh
Thực lục, Thế Tông, Q.199).
- 21/5/1537: Bộ Binh trình 11 điều, cụ thể hoá việc đi đánh (Minh Thực lục,
Thế Tông, Q.199).
- 21/5/1537: Tả thị lang bộ Binh Phan Trân dâng sớ khuyên can. Thiên tử giáng
chỉ trách là không rành sự thế, có những lời mê hoặc, bị lột chức và thôi việc
(Minh Thực lục, Thế Tông, Q.199).
- 16/6/1537: Mao Bá Ôn điều trần 6 điểm tổ chức việc đánh gồm: nay mệnh
tướng xuất sư đánh Mạc Đăng Dung, các vùng cần huy động lính, dùng người,
phương diện tài vật, thưởng phạt, đồng nhất mệnh lệnh (Minh Thực lục, Thế Tông,
Q.200).
- 4/7/1537: Từ Cửu Cao can ngăn, Thiên tử cho rằng nội dung có sự dối trá bất
kính, dùng lời nhục mạ, cắt lương bổng Từ Cửu Cao 2 tháng (Minh Thực lục, Thế
Tông, Q.200).
- 8/9/1539: Hoàng Oản - Thượng thư bộ Lễ được
cử đi sứ Việt Nam để thông báo tin vua Minh tôn vinh danh hiệu Thượng
Hoàng Thiên Thượng Đế cho ông nội vua (không liên quan đến việc đánh nhà
Mạc) mà quá sợ Mạc Đăng Dung, coi như đi vào An Nam là vào chỗ chết nên
quanh co. Thiên tử giận phán rằng: “Oản nhận việc đi sứ An Nam, nhận được
mệnh không tiến hành gấp, lúc đến thì kiếm nhiều lý do để từ chối. Y sợ hãi quanh
co, lại bày ra những thỉnh cầu khác. Nay cách chức không dùng trở lại nữa”
(Minh Thực lục, Thế Tông, Q.224).
- 20/10/1540: Khi Cừu Loan đến Quảng Tây, đeo ấn tín, bèn ra lệnh cho Trấn
thủ Vân Nam, Đề đốc Liễu Tuần, quỳ trình diện trước hàng quân. Tuần làm đơn
khiếu nại. Thiên tử khiển trách Loan không thể tin cậy được, triệu về kinh, giao
cho Liễu Tuần thay Loan.
Về việc này, Cừu Loan - một trong những người cầm đầu đội quân chinh
phạt, lại là bậc đại thần hiểu rất rõ uy nghi, binh pháp, lại làm một điều quá
khinh suất như vậy là tại sao? Chính vì Cừu Loan quá sợ phải đi đánh với Mạc
Đăng Dung, bày đặt ra để được về kinh, trốn thoát việc đi An Nam, trút việc đi
đánh cho Liễu Tuần (Minh Thực lục, Thế Tông, Q.241).
Qua những tư liệu lịch sử trên, có thể rút ra mấy điểm sau:
1. Việc “chinh phạt An Nam” là quyết tâm sắt đá của triều Minh, mà Minh Thế
Tông là đại diện. Do đó, khi một số người đưa ra lẽ phải trái bàn bạc, có ý ngăn
cản đều bị vua Minh gạt đi và xử phạt.
2. Quyết tâm xâm lược được tăng cường thêm sau khi quần thần nhà Lê liên tục
xin cầu viện.
3. Trong khi cân nhắc, vua tôi nhà Minh sợ nhất là lực lượng quân sự trong
nước do Mạc Đăng Dung cầm đầu. Họ đã nghe danh tài năng quân sự của vua
Mạc và đội ngũ tướng lĩnh của ông. Giặc ở Châu Khâm và Châu Liêm đã nếm mùi
ngọn giáo của Tứ Dương hầu Phạm Tử Nghi. Các trường hợp Phan Trân, Từ Cửu
Cao, Hoàng Oản và đặc biệt Cừu Loan tìm mọi cách trốn tránh, là tiêu biểu cho
tinh thần lo sợ của tướng lĩnh Minh. Chắc số lượng những người như thế này trong
thực tế không ít. Biết rõ điều đó nên Mạc Đăng Dung luôn luôn quan tâm tăng
cường lực lượng chiến đấu đối phó với giặc và cũng tìm cách lộ ra điều này để cho
địch biết.
4. Qua diễn biến phức tạp của tình hình trên đây, chúng ta thấy rõ: một mặt
quyết tâm xâm lược của triều Minh rất cao, mặt khác họ cũng lo sợ sức chiến đấu
của chúng ta dưới sự chỉ huy của Mạc Đăng Dung. Vậy, khẳng định “nhà Minh rõ
ràng không dám xâm phạm đến nước ta” [11; 288-291] là vô căn cứ.
* Để thực hiện mưu đồ xâm lược, Minh Thế Tông cử Thượng thư Mao Bá Ôn
đi chinh thảo. Trước khi Mao Bá Ôn đi đánh cướp nước ta, vua Minh tặng một bài
thơ đầy khí chất hách dịch, coi Mao Bá Ôn là kỳ lân, dân ta là kiến cỏ, đồng thời
khẳng định nhất định thắng, hẹn trở về vua đích thân cởi áo bào cho Mao:
Đại tướng Nam chinh khẳng khái sao
Lưng đeo sáng quắc Nhạn Linh đao
Gió lay trống trận, sơn hà chuyển
Chớp nhoáng cờ đồn, nhật nguyệt cao
Trời thẳm kỳ lân sinh giống sẵn
Hang sâu kiến cỏ trốn đàng nào?
Thái bình khi chiếu đòi về nước
Trẫm cởi giùm ông chiếc chiến bào
Phụ hoạ cho khẩu khí đó, Mao Bá Ôn làm bài thơ vịnh bèo, coi khinh lực lượng
của nước ta như cánh bèo:
“…Bèo đã không gốc rễ, không có lá, không có cả cành
Tuy rằng họp lại đấy nhưng tan rã cũng rất nhanh
Chỉ một trận gió là tan tác
Nếu lại gặp phải khi trời xấu, bão gió
Thì quét một trận là ra hồ, ra bể không ai còn thấy vết tích nữa”
(Mao Bá Ôn)
* Huy động quân đội và dân binh
“Tháng 7 năm Gia Tĩnh 19, Hàm Ninh hầu Cừu Loan và Thượng thư bộ Binh
Mao Bá Ôn đến Lưỡng Quảng và Vân Nam để kiểm tra việc chuẩn bị hậu cần,
cùng đội ngũ quân lính dự định cho cuộc chinh phạt phương Nam. Cừu Loan đã
chuẩn bị kế hoạch tác chiến như sau: “Chia chính binh ra làm ba đội tiễu binh, từ
Quảng Tây đi các xứ Bằng Tường, Long Châu và Tư Minh... Kể cả chính binh và
kỳ binh là 22 vạn người” (Cương mục, tập 2, tr.114).
2. Triều đình nhà Lê trước cuộc xâm lược của nhà Minh
Trong bối cảnh suy vi, phong kiến nhà Lê đã nhiều lần liên tục cho người sang
Trung Quốc cầu Minh. Với danh nghĩa là đánh Mạc, nhà Minh sẽ thừa cơ tàn sát,
tiêu diệt luôn cả nước Việt. Đây là một mục đích truyền đời của phong kiến
Trung Quốc. Nhà Lê thừa biết điều này nhưng vì quyền lợi ích kỷ của vương
triều nên vẫn cứ ra sức van nài nhà Minh. “Nhà Mạc muốn tránh nguy hiểm
trong cuộc đụng độ với nhà Minh. Tuy nhiên, nguy cơ chiến tranh ngày càng
thúc bách, một phần bởi những mưu đồ thù địch của một số bề tôi trung thành
với nhà Lê” [10; 73].
Rất nhiều lần phái đoàn vua Lê hoặc bề tôi cũ của nhà Lê đi sang Trung Quốc
để tố cáo nhà Mạc, kích động chiến tranh của nhà Minh. Riêng năm 1537, liên tiếp
có 3 lần (kể cả trường hợp Vũ Văn Uyên):
- “Năm 1529, Trịnh Ngung - bề tôi cũ của nhà Lê đã sang Trung Quốc để tố
cáo việc cướp ngôi của Mạc Đăng Dung” [10; 73].
- “Ngay sau khi trung hưng triều Lê, năm 1533, Trịnh Duy Liêu liền được cử đi
Trung Quốc để tiếp tục tố cáo việc cướp ngôi của Mạc Đăng Dung” [10; 74].
- “Ngày 3 tháng 2 năm Gia Tĩnh thứ 16 (13/3/1537), cháu dòng đích của vua
An Nam tên là Lê Ninh (Trang Tông) sai người trong nước là bọn Trịnh Duy Liêu
gồm 10 người đến kinh đô… xin hưng binh hỏi tội để cứu nguy nạn nước” [3].
- “Tháng 6 năm 1537, phái bộ của Trịnh Duy Liêu do triều đình Lê phái sang
Yên Kinh” [10; 76].
- “Ngày 6 tháng 9 năm Gia Tĩnh thứ 16 (9/10/1537). Trước đó, người Giao chỉ
Vũ Văn Uyên mang đồng đảng đến hàng… Văn Uyên có 10.000 quân, đợi thiên
binh xuống phía Nam, sai cháu là Vũ Tử Lăng đóng tại cửa ải Thạch Lang để
nhập theo” [3].
Tóm lại, âm mưu của phong kiến nhà Lê “cõng rắn”, “rước voi” rất dai dẳng,
quyết liệt. Hơn nữa, không những chỉ van xin, mà còn ra sức tạo điều kiện vật chất
cụ thể để quân Minh nhanh chóng và thuận lợi kéo sang xâm lược nước ta.
3. Cách lựa chọn tài tình của Mạc Đăng Dung
Một số người buộc Mạc Đăng Dung về “tội” đầu hàng và dâng đất. Hãy căn cứ
vào tư liệu lịch sử chính xác để xem xét hai sự kiện này.
3.1. Chiến lược của Mạc Đăng Dung
Mạc Đăng Dung thực hiện một chiến lược vừa đánh vừa hoà:
- Chuẩn bị đánh: “Lê triều thông sử cũng cho biết Mạc Đăng Doanh đã tu sửa
trại, sách, luyện tập thủy quân; trưng cầu hết thảy những cựu thần lão tướng để
cùng bàn việc nước” [2; 139-141]. Phục chức cho Thái Bảo tĩnh quốc công Vũ Hộ,
cử làm Tả đô đốc Đông Quân Chưởng phụ sự.
“Thù vực chu tư lục còn cho biết triều đình nhà Minh còn tranh cãi về việc
đánh hay không đánh khá gay go. Khi Mao Bá Ôn đến Nam Ninh đã thấy quân
dân Việt chuẩn bị chống lại quyết liệt, lấy thuốc độc, bã đậu (?)(1) bỏ vào suối
nước, đào hố chôn cọc tre để ngựa sa hố, lại phao ngôn sẽ theo đường biển tập
kích Quảng Đông. Như vậy, chứng tỏ khi ấy nhà Mạc chuẩn bị sẵn sàng hai
kế sách chiến và hoà” [7; 134].
- Lập nhiều đồn lũy ở biên giới mà trong “Vãng Giao Chỉ đồ” in ở An Nam đồ
chí, nhà Minh gọi là “tặc doanh”.
- Cho người làm nhiệm vụ tình báo “dò la bám sát các hoạt động quân sự của
nhà Minh, như trường hợp Tri châu Nguyễn Cảnh, năm 1537, được nhà Mạc bí
mật phái sang đất Minh để thu thập tin tức bị thổ quan của Vân Nam giữ lại” [10;
78-79].
3.2. Thực chất việc thần phục, dâng đất
- Ngô Đăng Lợi viết: “Qua ghi chép của Nghiêm Tông Giản, thì Mạc Đăng
Dung cùng đoàn tuỳ tùng không được mặc phẩm phục, cổ đeo dây lụa tượng trưng
cho sự đầu hàng đến lậy và cúi đầu (ngũ bái, tam khấu đầu) trước long đình che
lọng vàng, tượng trưng cho hoàng đế nhà Minh, chứ không phải quỳ lạy viên
tướng nhà Minh” [7; 135]. Cũng không phải cởi trần tự trói.
- Dâng đất khống:
“Bốn động biên giới đã bị nhà Minh lấy lại từ trước, thành chuyện đã rồi đối
với nhà Mạc. Mạc Đăng Dung thực sự không hề mắc tội phản quốc, mà trái lại đã
góp một phần quan trọng trong việc ổn định tình hình chính trị - xã hội trong nước,
cũng như tái lập quan hệ bang giao với nhà Minh” [10; 88]. Còn Lê - Trịnh mãi
đến 1597 mới được nhà Minh xét công nhận (xem thêm ở phần sau).
Trong biểu tâu nhà Minh, Mạc Đăng Dung cũng viết đúng như vậy, và nêu cụ
thể lời của Tri châu châu Khâm là Lâm Hy Nguyên, chắc chắn đó là sự thật: “Mới
đây thần nghe Tri châu châu Khâm tỉnh Quảng Đông là Lâm Hy Nguyên xưng
rằng các động Ti Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát thuộc hai đô Như Tích, Thiếp
Lãng là đất cũ của châu Khâm; nếu đúng như vậy, thần xin vâng lời” [3].
Nếu đối chiếu các điều kiện thần phục, trong tình hình đối nội đối ngoại quá
gay gắt và phức tạp như đã trình bày trên, thì việc thần phục của vua Mạc đã mất
một số hư danh mà được nhiều thắng lợi thực tế, trong đó quan trọng là tránh được
một cuộc chiến tranh thảm khốc, bao gồm lực lượng của quân Minh bên ngoài ép
vào và quân Lê - Trịnh từ trong đánh ra.
Xét trong lịch sử ngoại giao của chúng ta với phong kiến Trung Quốc có nhiều
trường hợp phải hết sức lựa chiều, khéo léo.
“Bình Định vương Lê Lợi đại thắng quân đô hộ Minh nhưng vẫn phải cấp tàu
xe, lương thảo cho Vương Thông rút quân, phải trả lừa, ngựa, binh khí, tù binh
cho y; lại phải thực hiện danh nghĩa phù Trần diệt Hồ của nhà Minh mà dựng
Trần Cảo làm vua, phải cống người vàng….” [6; 218].
Về việc này, Phan Huy Chú nhận định: “Xét: Buổi đầu Lê, sau khi đã bình giặc
Ngô, chưa tiện nói rõ cầu phong, bấy giờ phải quyền nghi cho xong việc, cho nên
trước hết giả lập con cháu họ Trần; dùng lời nói dịu dàng, mềm dẻo để nhà Minh
thôi việc binh mà nhận việc hoà hiếu. Đến khi Trần Cảo chết mới lại một phen bày
tỏ, nói rõ cầu phong, thế mà vua Minh hãy còn lần lữa chưa cho, trải 3 năm mà
mới cho tạm quyền việc nước, chưa chính thức phong vương vị. Thế cũng đủ thấy
sự thế bây giờ là khó” [4; 218].
Hoàn cảnh lịch sử của vua Lê thuận lợi hơn hẳn vua Mạc, thế mà còn phải hết
sức mềm dẻo. Vì vậy, “Mạc Đăng Dung thần phục giả vờ để giữ độc lập thực sự”
(Trần Quốc Vượng) là kế sách tuyệt diệu. Vua Mạc Đăng Dung nhận các điều kiện
thần phục, nhưng các vua Mạc vẫn xưng đế hiệu, dùng ấn vàng, phong tước vương
cho các con, toàn quyền điều hành đất nước về mọi mặt, nhà Minh không can
thiệp và đặc biệt là không có bóng quan quân Minh trên đất nước Việt.
“Thế là nhà Mạc được nhà Minh công nhận, nhà Lê - Trịnh thì không, mãi đến
1597 mới được nhà Thanh xét và phải theo lệ cũ thời Lê sơ, cống người vàng đền
mạng Liễu Thăng” [6; 217].
3.3. Nguyên nhân thắng lợi của chiến lược nhà Mạc
Nhờ đâu mà nhà Mạc đập tan được âm mưu cầu viện của nhà Lê, đẩy lùi được
quyết tâm xâm lược sắt đá của nhà Minh?
Trước hết là ý chí của nhà Mạc, bằng mọi giá không cho giặc đặt chân vào đất
nước ta, như Mạc Ngọc Liễn là Đô Úy thái phó Đà Quốc công, đồng thời là phò
mã, khi lâm chung có di chúc lại: “...Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước
ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng” [1;
189]. Mạc Ngọc Liễn không chỉ phát ngôn ý kiến cá nhân mà còn tuyên bố tư
tưởng lớn của nhà Mạc. Đinh Khắc Thuân nhận định đúng như vậy: “Lời trăng
trối cuối cùng này của Mạc Ngọc Liễn cũng chính là ý nguyện của nhà Mạc nhằm
tránh một cuộc chiến tranh ngoại bang” [10; 81].
Thứ hai, là chủ trương vô cùng sáng suốt của Thái tổ Mạc Đăng Dung, chiến hoà
kết hợp, hoà nhưng sẵn sàng chiến đấu. “Đầu hàng giả, chiến đấu thật”, trong hoà
không hại gì cho đất nước, chỉ dâng đất khống.
Thứ ba, Mạc Thái Tổ cũng dùng cả đấu tranh chính trị, đưa Trạng nguyên Giáp
Hải đi, để biểu lộ ý chí quyết tâm bảo vệ đất nước qua việc họa thơ. Có người nói
bài thơ đã đuổi được giặc nhưng không thật đúng. Bài thơ là một bộ phận của cuộc
đấu tranh toàn diện, có vai trò nhất định trong cuộc đấu tranh này(2).
Thái tổ Mạc Đăng Dung đã lựa chọn một phương thức đấu tranh tổng hợp rất
thông
minh, vừa làm cho địch đủ ngại ngần, lo sợ, vừa đủ cho Thiên triều hống hách
đỡ mất mặt. Ông lại đặt quyền lợi tối cao của đất nước lên trên sỹ diện cá nhân.
Nhờ vậy mà đẩy lùi được 22 vạn quân Minh, mà không tốn một mũi tên, không
mất một giọt máu.
4. Kết luận
Về vua Mạc Đăng Dung và nhà Mạc còn không ít vấn đề chưa hợp lý và bất
công, cần được nghiên cứu lại. Muốn nghiên cứu lại để có “sự thay đổi về cách
đánh giá” (Phan Huy Lê), cần có tinh thần trách nhiệm và thận trọng cao đối với
ngòi bút của mình, cần xem xét và thẩm định tư liệu một cách chắc chắn. Không
nên tin tuyệt đối vào sử nhà Lê, cần bổ sung thêm nguồn tư liệu nước ngoài và tư
liệu điền dã. Về vấn đề này, chúng tôi nhất trí với cố Gs Trần Quốc Vượng:
“Không nên chỉ nhìn nhận và đánh giá công nghiệp nhà Mạc qua những gì sử
thần nhà Lê viết, triều đình Lê - Trịnh đối địch với triều đình Mạc từ đầu đến
cuối..., do vậy sử thần nhà Lê - Trịnh bôi xấu triều Mạc là chuyện tất nhiên. Ta
cần bổ sung bằng các tư liệu điền dã trong nước, tư liệu nước ngoài để “hiểu”
về nhà Mạc ngày càng cụ thể, sâu sắc hơn” [12; 25]./.
Chú thích
(1) Bã đậu thì có độc đâu, chắc chúng ta làm việc này để dọa địch.
(2) Trạng nguyên Giáp Hải đã hoạ lại thơ của Mao Bá Ôn, nêu cao sức mạnh và
khí phách của người Việt, trong đó có câu:
“…Ngọn sóng dù lớn đến đâu cũng không phá nổi
Gió bão dù lớn tới đâu cũng không làm chìm nổi bèo”
Tài liệu tham khảo
1. Đại Việt sử ký toàn thư, tập III, NXB Khoa học xã hội, H, 1998.
2. Đại Việt thông sử, bản dịch, 1968, tập 4.
3. Minh Thực lục, Thế Tông.
4. Phan Huy Chú: Bang giao chí, (Bản dịch), NXB Sử học, 1961. Dẫn theo Ngô
Đăng Lợi, Sđd, tr.218.
5. Phan Huy Lê: Tổng kết hội thảo, Trong sách “Nhà Mạc và dòng họ Mạc
trong lịch sử”, Hội đồng lịch sử Hải Phòng XB, 1996.
6. Ngô Đăng Lợi: Chính sách ngoại giao nhà Mạc, bài học lịch sử giá trị, trong
sách “Kỷ yếu hội thảo khoa học vương triều Mạc trong lịch sử Việt Nam”, H, 9-
2010, tr.218.
7. Ngô Đăng Lợi: Việc nhà Mạc giao thiệp với nhà Minh..., Trong sách “Nhà
Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử”, Hội đồng lịch sử thành phố Hải Phòng XB,
1996.
8. Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, (TB), NXB Tân Việt, SG, 1964.
9. Hồ Bạch Thảo: Việt sử: tư liệu cùng lời bàn, Thư ấn quán 2009.
10. Đinh Khắc Thuân: Lịch sử triều Mạc qua thư tịch và văn bia, NXB Khoa
học xã hội, H, 2001.
11. Uỷ ban khoa học xã hội: Lịch sử Việt Nam tập I, NXB Khoa học xã hội,
1971.
12. Trần Quốc Vượng: Mấy vấn đề về nhà Mạc (tóm tắt) trong sách “Nhà Mạc
và dòng họ Mạc trong lịch sử”, Hội đồng lịch sử thành phố Hải Phòng, 1996.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lich_su_vhoa_40__7271.pdf