Tập bài giảng Lý thuyết tài chính – tiền tệ được thiết kế thành 9 chương:
Chương 1:Đại cương về tài chính tiền tệ
Chương 2: Tổng quan về hệ thống tài chính
Chưong 3: Ngân sách nhà nước
Chương 4: Tài chính doanh nghiệp
Chương 5: Thị trường tài chính
Chương 6: Một số vấn đề cơ bản về lãi suất
Chương 7: Ngân hàng thương mại
Chương 8: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ quốc gia
Chương 9: Lạm phát tiền tệ
45 trang |
Chia sẻ: phuongt97 | Lượt xem: 395 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tập bài giảng Tài chính - tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
32
Trong nền kinh tế thị trường, vốn đầu tư phát triển được hợp thành từ nhiều
nguồn: vốn ngân sách Nhà nước, vốn đầu tư của các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế, vốn đầu tư của cá nhân và hộ gia đình, tín dụng đầu tư và vốn nước ngoài
(đầu tư trực tiếp, vay và viện trợ). Trong số các nguồn vốn này, vốn đầu tư phát triển
của ngân sách Nhà nước luôn đóng vai trò chủ yếu trong thực hiện chiến lược đầu tư
của nền kinh tế. Chi đầu tư phát triển bao gồm:
- Chi đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội:
Đây là khoản chi từ ngân sách Trung ương và ngân sách Nhà nước địa phương
nhằm xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng như: Cầu cống, đường xá, cảng,
sân bay, hệ thống thuỷ lợi, năng lượng, viễn thông; các công trình có tính chất chiến
lược, trọng điểm phục vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, phúc lợi công cộng.
Chi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội có tầm quan trọng trong
việc tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế – xã hội; góp phần thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng của Nhà nước; hình thành thế cân đối của nền kinh
tế cũng như khuyến khích các doanh nghiệp, nhất là khu vực ngoài quốc doanh đầu tư,
giảm chi phí sản xuất, mở rộng thị trường, tăng cường khả năng cạnh tranh, nhằm
mục đích tăng trưởng kinh tế.
- Chi đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước:
Đây là khoản chi tích luỹ mang tính chất sản xuất hình thành nên vốn cố định,
vốn lưu động và là bộ phận vốn kinh doanh của doanh nghiệp đảm bảo yêu cầu sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp Nhà nước được hình thành và
hoạt động trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân, đòi hỏi ngân sách Nhà
nước phải cấp phát vốn đầu tư ban đầu cũng như hỗ trợ, bổ sung vốn trong quá trình
hoạt động.
Chi đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước thể hiện sự can thiệp
của Nhà nước vào hoạt động kinh tế, vừa đảm bảo đầu tư vào một số lĩnh vực sản xuất
kinh doanh then chốt tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế – xã hội, vừa đảm bảo sự
phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý cho tăng trưởng kinh tế.
- Chi góp vốn cổ phần, góp vốn liên doanh vào các doanh nghiệp:
Ở nước ta, các Công ty cổ phần được hình thành trong quá trình cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nước hoặc được thành lập mới theo pháp luật, các doanh nghiệp liên
doanh được thành lập trên cơ sở liên doanh, liên kết giữa các tổ chức kinh tế. Sự phát
triển của các loại hình doanh nghiệp này trong nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế đã kích
thích và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các thành phần kinh tế.
Để quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, Nhà nước tham gia vào hoạt động của
các Công ty cổ phần, doanh nghiệp liên doanh bằng việc góp vốn cổ phần, góp vốn liên
doanh theo một tỉ lệ nhất định vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết phải có sự
tham gia của Nhà nước để hướng dẫn, kiểm soát hay khống chế các hoạt động của những
doanh nghiệp này theo định hướng của Nhà nước.
- Chi dự trữ Nhà nước:
Dự trữ Nhà nước được hình thành bằng nguồn tài chính từ ngân sách Nhà nước
và được sử dụng để điều chỉnh các hoạt động của thị trường, điều hoà cung cầu tiền,
ngoại tệ và một số mặt hàng chiến lược cũng như giải quyết kịp thời các tổn thất bất
ngờ xảy ra đối với nền kinh tế – xã hội. Chi dự trữ Nhà nước góp phần đảm bảo sự hoạt
động ổn định và sự vận hành có hiệu quả của nền kinh tế.
+ Chi thường xuyên
Chi thường xuêyn là các khoản chi gắn liền với việc thực hiện các nhiệm vụ
thường xuyên của Nhà nước về quản lý kinh tế – xã hội.
33
Các khoản chi thường xuyên mang tính chất là các khoản chi tiêu dùng xã hội.
Về nội dung, chi thường xuyên gồm: các khoản chi liên quan đến con người (lương,
phụ cấp) và các khoản chi liên quan đến nghiệp vụ quản lý, công việc chuyên môn.
Thông qua các khoản chi thường xuyên, Nhà nước thể hiện sự quan tâm đến nhân tố
con người trong quá trình phát triển kinh tế xã hội và Nhà nước thực hiện các chức
năng văn hoá, giáo dục, quản lý, an ninh quốc phòng. Chi thường xuyên được chia
thành:
- Chi sự nghiệp: Là các khoản chi cho các dịch vụ và các hoạt động xã hội
phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao dân trí của dân cư.
Theo tính chất hoạt động của các ngành, chi sự nghiệp được chia thành:
+ Chi sự nghiệp kinh tế.
+ Chi nghiên cứu khoa học và công nghệ.
+ Chi sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
+ Chi sự nghiệp y tế.
+ Chi sự nghiệp văn hoá, nghệ thuật, thể thao.
+ Chi sự nghiệp xã hội.
Như vậy, về nội dung, chi sự nghiệp gồm các khoản chi bảo đảm các hoạt động
sự nghiệp và các khoản chi có tính chất trợ cấp cho những đối tượng xã hội nhất định.
Ngân sách Nhà nước cung cấp nguồn tài chính cho các hoạt động sự nghiệp có
ý nghĩa kinh tế – xã hội to lớn. Các khoản chi sự nghiệp tạo ra các điều kiện để nâng
cao trình độ văn hoá, kỹ thuật, sức khoẻ của người lao động, phát triển sức sản xuất tác
động tới quá trình tái sản xuất xã hội, quá trình tạo ra thu nhập quốc dân. Chi sự nghiệp
mặc dù không mang tính chất sản xuất nhưng lại có mối liên hệ chặt chẽ và phát huy
tác dụng lâu dài đối với sản xuất xã hội. Các khoản chi sự nghiệp còn góp phần nâng
cao mức sống và thu nhập thực tế cho các tầng lớp dân cư làm giảm bớt sự chênh lệch
về trình độ dân trí và thu nhập giữa các thành viên trong xã hội.
- Chi quản lý Nhà nước
Là các khoản chi nhằm đảm bảo hoạt động của hệ thống các cơ quan quản lý
Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Các hoạt động quản lý Nhà nước không chỉ thuần
tuý mang ý nghĩa cai trịmà còn mang ý nghĩa phục vụ. Các hoạt động này trở thành
nhân tố hỗ trợ tích cực cho các chủ thể và các hoạt động kinh tế – xã hội phát triển. Chi
ngân sách Nhà nước cho các hoạt động quản lý Nhà nước là đảm bảo cho các cơ quan
Nhà nước cung ứng các dịch vụ hành chính công một cách nhanh chóng và thuận lợi.
- Chi quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội
Chi quốc phòng để phòng thủ và bảo vệ đất nước, chống lại sự xâm
lược, tấn công từ nước ngoài.
Chi an ninh và t rật tự an toàn xã hộ i để bảo vệ và giữ gìn chế độ xã
hội, an ninh dân cư trong nước.
Nguồn tài chính quyết định cho hoạt động quốc phòng và an ninh là
từ ngân sách Nhà nước. “Hàng hoá công cộng” này có được là nhờ dựa vào
“sản xuất của Chính phủ” mà nguồn trang trải là ngân sách Nhà nước mà
không một khâu tài chính nào thay thế được.
- Chi trả nợ tiền vay của Chính phủ
Ở nước ta, nợ công bắt nguồn từ bộ i chi của ngân sách Nhà nước và
từ nhu cầu chi đầu tư phát t r iển k inh tế. Tất cả các khoản nợ t rong nước và
nợ nước ngoài khi đến hạn, Nhà nước phải t hanh toán. Hàng năm số chi t rả
nợ t iền vay của Nhà nước được bố t rí theo một t ỉ lệ nhất định t rong tổng số
chi ngân sách Nhà nước.
34
3.2.3. Bội chi ngân sách Nhà nước và nợ công
+ Bội chi ngân sách Nhà nước
Bội chi ngân sách Nhà nước là tình trạng chi ngân sách Nhà nước vượt quá thu
ngân sách Nhà nước trong một năm. Bội chi ngân sách có thể xảy ra do sự thay đổi
chính sách thu – chi của Nhà nước được gọi là bội chi cơ cấu; do sự biến động của chu
kỳ kinh tế được gọi là bội chi chu kỳ. Ngày nay, bội chi ngân sách Nhà nước trở thành
phổ biến đối với hầu hết các quốc gia, tuy ở những mức độ khác nhau.
Bội chi ngân sách biểu hiện cho sự thiếu hụt nguồn tài chính so với nhu cầu chi
tiêu của Nhà nước. Nguyên nhân có thể là do Nhà nước không sắp xếp được nhu cầu
chi tiêu phù hợp với khả năng; cơ cấu chi ngân sách Nhà nước không hợp lý; lãng phí,
thất thoát kinh phí; không có biện pháp hiệu quả khai thác đủ nguồn thu và bồi dưỡng
nguồn thu hoặc do kinh tế suy thoái hay ảnh hưởng bởi thiên tai, chiến tranh làm nguồn
thu ngân sách Nhà nước giảm sút.
Bội chi ngân sách Nhà nước với quy mô lớn và kéo dài được coi là nguyên
nhân trực tíêp và quyết định gây ra lạm phát, tác hại đến sự phát triển kinh tế, đến đời
sống của dân cư. Bội chi cũng làm cho nợ công gia tăng, chèn ép đầu tư của khu vực tư
và tạo sức ép đối với chính sách quản lý nợ.
Để xử lý bội chi ngân sách Nhà nước, giải pháp mang tính chiến lược lâu dài là
phát triển kinh tế, khai thác các tiềm năng kinh tế và phân bổ, sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực của đất nước. Mặt khác, Nhà nước cần điều chỉnh các quan hệ phân phối
nguồn lực tài chính thông qua biện pháp tăng thuế, giảm chi tiêu, phát hành tiền, vay
nợ.
Tăng thuế và cắt giảm chi ngân sách Nhà nước đều góp phần cải thiện tình
trạng bội chi ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, không phải bao giờ cũng được thực hiện một
cách không giới hạn. Trong bối cảnh mức tăng GDP chưa lớn, tăng thuế sẽ làm giảm sút
tiết kiệm của doanh nghiệp và dân cư, đẩy lùi khả năng đầu tư và tiêu dùng của khu vực
này làm giảm động lực phát triển kinh tế. Giảm chi công chỉ có tác dụng tích cực khi Nhà
nước cắt giảm các khoản chi bao cấp, các khoản chi tiêu bất hợp lý, lãng phí; còn nếu giảm
chi vượt quá mức giới hạn sẽ ảnh hưởng không tốt đến kích cầu, đến quá trình phát triển
kinh tế – xã hội của đất nước.
Phát hành tiền là biện pháp giúp Chính phủ huy động nhanh nguồn vốn để cân
đối ngân sách Nhà nước mà không tốn kém nhiều chi phí. Nếu ngân hàng Trung ương
phát hành trực tiếp cho Chính phủ vay bù đắp bội chi vượt quá yêu cầu của lưu thông
tiền tệ có thể làm cho nền kinh tế phải gánh chịu phí tổn rất lớn do lạm phát tăng cao và
suy thoái kinh tế. Tuy nhiên phát hành tiền để bù đắp bội chi, nhất là phát hành gián
tiếp – ngân hàng Trung ương thực hiện cơ chế cho Chính phủ vay và được đảm bảo
bằng trái phiếu Chính phủ – không phải bao giờ cũng chứa đựng nguy cơ lạm phát, tác
động tiêu cực đến đời sống kinh tế – xã hội. Nếu phát hành tiền ở mức hợp lý và sử
dụng tiền phát hành hiệu quả sẽ không làm tăng lạm phát và thúc đẩy kinh tế tăng
trưởng.
Vay nợ trong nước và nước ngoài có thể tránh được phát hành tiền. Nhưng vay
nợ thì phải trả nợ, càng vay nợ càng gia tăng gánh nặng nợ của Chính phủ. Bội chi ngân
sách Nhà nước dẫn đến gia tăng vay nợ; vay nợ gia tăng buộc Nhà nước phải chi trả lãi
nợ nhiều hơn và dẫn đến bội chi ngân sách Nhà nước lớn hơn. Mặt khác, vay nợ tạo ra
áp lực buộc Nhà nước phải tăng thuế trong tương lai để trả nợ vay. Vấn đề quan trọng
được đặt ra là vay nợ đến mức nào để đảm bảo sự an toàn, tránh được nguy cơ khủng
hoảng nợ và nhất là vay nợ phải được sử dụng có hiệu quả để có khả năng trả nợ đúng
hạn và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.
Xử lý bội chi ngân sách Nhà nước bằng giải pháp nào cũng phải có sự trả giá,
vấn đề là phải lựa chọn giải pháp, cũng như phối hợp giữa các giải pháp thích ứng với
bối cảnh kinh tế – xã hội sao cho sự trả giá là ít nhất và có lợi nhất cho đất nước.
+ Nợ công
35
Bội chi ngân sách Nhà nước và nợ công có mối quan hệ tương tác. Nợ công là
kết quả của tình trạng bội chi ngân sách Nhà nước: Bội chi ngân sách Nhà nước gia
tăng sẽ làm gia tăng nợ công, đồng thời quản lý nợ công không tốt sẽ làm gia tăng các
khoản nợ phải trả lại là nguyên nhân làm gia tăng bội chi ngân sách Nhà nước trong
tương lai.
Nợ công được hiểu là tất cả các khoản nợ tích tụ từ các khoản vay trong nước
và nước ngoài của khu vực công mà trách nhiệm trả nợ trực tiếp hoặc gián tiếp thuộc về
Nhà nước. Như vậy, nợ công là nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm nghĩa vụ nợ
của:
+ Chính phủ Trung ương và các bộ, ngành.
+ Các cấp chính quyền địa phương.
+ Ngân hàng Trung ương.
+ Các thể chế độc lập nhưng nguồn vốn hoạt động của nó do ngân sách Nhà
nước quyết định và trong trường hợp vỡ nợ, Nhà nước phải trả nợ thay thể chế đó.
Trong nền kinh tế thị trường, nợ công được xem là công cụ tài chính hữu hiệu
của nền tài chính công trên các khía cạnh sau đây:
- Kích thích phát triển kinh tế – xã hội. Mục đích đi vay của khu vực công
trước hết là đáp ứng nhu cầu vốn chi đầu tư phát triển, thực hiện các chương trình mục
tiêu đã được xác định trong từng giai đoạn. Vay nợ được xem là công cụ hữu hiệu để
Chính phủ đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng, kích thích kinh tế – xã hội phát triển.
- Bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước, giữ vững cân đối giữa thu và chi ngân
sách Nhà nước. Công cụ vay nợ giúp cho Chính phủ chủ động hơn trong cân đối nguồn
lực tài chính, khắc phục sự thiếu hụt vốn trong đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
- Góp phần điều tiết vĩ mô kinh tế – xã hội. Nợ công còn là công cụ góp phần điều
tiết mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, điều tiết cơ cấu kinh tế thông qua vay nợ trong
nước tập trung một phần nguồn tài chính từ quỹ tiết kiệm, quỹ tiêu dùng để phân phối lại
chuyển sang quỹ tích luỹ cho đầu tư phát triển kinh tế – xã hội, hình thành cơ cấu kinh tế
hợp lý. Nợ công góp phần điều tiết và định hướng lưu thông tiền tệ cũng như góp phần
thực hiện chính sách xã hội của Nhà nước.
Theo thời hạn đi vay, nợ công gồm:
- Nợ ngắn hạn: Là các khoản nợ có thời hạn vay dưới một năm để bù đắp các
khoản bội chi tạm thời của ngân sách Nhà nước. Nguồn trả nợ ngắn hạn là các khoản thu
ngân sách Nhà nước được thực hiện trong tương lai.
- Nợ trung hạn và dài hạn: Là các khoản nợ có thời hạn vay từ một năm trở lên để
huy động vốn cho đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng. Nguồn trả nợ được thu từ
phí, giá dịch vụ và từ nguồn thu của ngân sách Nhà nước.
Theo phạm vi huy động vốn, nợ công được chia thành:
- Nợ vay trong nước: Được thực hiện bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ để
vay dân cư, các tổ chức kinh tế – xã hội và ngân hàng trong nước.
- Nợ vay nước ngoài: Vay nợ nước ngoài của Chính phủ là phương thức huy động
vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ ra nước ngoài; ký kết các hiệp động vay nợ
với Chính phủ, với các tổ chức tài chính tiền tệ thế giới và từ nguồn ODA.
3.3. TỔ CHỨC HỆ THỐNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ PHÂN CẤP
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Hệ thống ngân sách Nhà nước là tổng thể các cấp ngân sách có mối quan hệ
hữu cơ với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu chi của mỗi cấp ngân sách
được xác định bởi sự thống nhất về cơ sở kinh tế, chính trị, bởi pháp chế và các nguyên
tắc tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước.
Ở các nước có nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân sách Nhà nước được tổ
chức phù hợp với hệ thống tổ chức bộ máy quản lý hành chính Nhà nước. Từ đó dẫn
đến sự tồn tại của hai mô hình tổ chức hệ thống ngân sách Nhà nước. Ở các nước có mô
36
hình tổ chức hành chính theo thể chế Nhà nước liên bang (Hợp chủng quốc Hoa Kỳ,
CHLB Đức), hệ thống ngân sách Nhà nước được tổ chức theo ba cấp là ngân sách liên
bang, ngân sách bang và ngân sách địa phương. Ở các nước có mô hình tổ chức hành chính
theo thể chế Nhà nước thống nhất (Anh, Pháp), hệ thống ngân sách có hai cấp là ngân
sách Trung ương và ngân sách địa phương.
Ở Việt Nam, tổ chức hệ thống ngân sách Nhà nước gắn bó chặt chẽ với tổ chức
bộ máy hành chính và vai trò, vị trí của bộ máy đó trong quá trình phát triển kinh tế – xã
hội của đất nước. Theo Hiến pháp, bộ máy quản lý hành chính Nhà nước được tổ chức theo
cấp chính quyền Trung ương và cấp chính quyền địa phương (chính quyền tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương; chính quyền huyện, quận và chính quyền xã, phường). Mỗi cấp
chính quyền đều có hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân có nhiệm vụ quản lý các mặt
kinh tế – xã hội trên địa bàn. Vì vậy các cấp chính quyền đều phải có ngân sách để thực
hiện các nhiệm vụ được giao. Theo đó, hệ thống ngân sách Nhà nước Việt Nam hiện nay
gồm:
- Ngân sách Trung ương.
- Ngân sách cấp tỉnh và tương đương.
- Ngân sách cấp huyện và tương đương.
- Ngân sách cấp xã và tương đương.
Ngân sách Trung ương bao gồm ngân sách của các cơ quan Nhà nước, cơ quan
Đảng, các tổ chức chính trị – xã hội ở cấp Trung ương giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống
ngân sách, đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ chiến lược quan trọng của quốc gia và hỗ trợ
tài chính cho các địa phương chưa cân đối được.
Ngân sách các cấp chính quyền địa phương bao gồm ngân sách của các cơ quan
Nhà nước, cơ quan Đảng, các tổ chức chính trị – xã hội ở cấp tỉnh, huyện, xã và đơn vị
hành chính tương đương được phân cấp nguồn thu đảm bảo chủ động chỉ tiêu trong việc
thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Mối quan hệ giữa các cấp ngân sách được thực hiện theo nguyên tắc phân định nguồn thu
và nhiệm vụ chi cụ thể; Thực hiện việc bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp
dưới để đảm bảo công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng, các địa phương; Chuyển
kinh phí từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ được cơ quan
quản lý Nhà nước cấp trên uỷ quyền. Ngoài cơ chế bổ sung nguồn thu và cơ chế uỷ quyền,
không được dùng ngân sách của cấp này để chi cho nhiệm vụ của cấp khác.
Ngân sách Nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
công khai minh bạch, có phân công, phân cấp quản lý và gắn quyền hạn với trách nhiệm.
3.4. NĂM NGÂN SÁCH VÀ CHU TRÌNH NGÂN SÁCH
Năm ngân sách (năm tài chính, tài khóa) là giai đoạn mà trong đó dự toán thu-
chi tài chính của nhà nước đã được phê chuẩn có hiệu lực thi hành. Thường năm tài
chính được tính bằng năm dương lịch (12 tháng) bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 đến ngày 31
tháng 12 năm dương lịch.
Chu trình ngân sách chỉ toàn bộ các hoạt động từ khâu lập dự toán ngân sách đến khâu
chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước. Thời gian của một chu trình ngân sách
không trùng với năm ngân sách.
37
Câu hỏi ôn tập
1. Vai trò của ngân sách nhà nước đối với sự phát triển kinh tế? Liên hệ với thức tế ở Việt
Nam?
2. Phân tích thực trạng thu – chi Ngân sách nhà nước ở Việt Nam? Biện pháp phát huy và
khắc phục
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Anh Tuấn, Bài giảng Lý thuyết Tài chính – tiền tệ, ĐH Ngoại Thương 2005
2. GS.TS Dương Thị Bình Minh, Giáo trình Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ, NXB
Giáo dục 2001
3. Nguyễn Hữu Tài, Giáo trình Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ, NXB Trường Đại học Kinh
tế Quốc dân năm 2007
38
Chương 4
TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Mục tiêu của chương này nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức về:
- Các nguồn vốn và phương thức huy động vốn của doanh nghiệp.
- Cơ cấu tài sản cố định và quản lý tài sản cố định trong doanh nghiệp.
- Đặc điểm của tài sản lưu động và việc quản lý tài sản lưu động.
4.1. NGUỒN VỐN VÀ PHƯƠNG THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA DOANH
NGHIỆP
4.1.1. Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp
Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải đầu tư một
số vốn nhất định, nguồn vốn này nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp trong quá trình hoạt
động. Đối với doanh nghiệp Nhà nước (thuộc sở hữu Nhà nước) nguồn vốn tự có ban đầu
chính là vốn đầu tư của ngân sách nhà nước.
Đối với công ty cổ phần, nguồn vốn do các cổ đông đóng góp là yếu tố quyết định
để hình thành công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty và chỉ chịu trách nhiệm
hữu hạn trên trị giá số cổ phần mà họ nắm giữ. Tuy nhiên, các công ty cổ phần cũng có
một số hình thức khác nhau, do đó cách thức huy động vốn cổ phần cũng khác nhau (sẽ
được trình bày chi tiết hơn về cổ phiếu và vấn đề huy động vốn cổ phần ở phần sau).
Trong thực tế, vốn tự có vủa chủ doanh nghiệp thường lớn hơn nhiều so với vốn
sau một thời gian hoạt động và mở rộng kinh doanh.
4.1.2. Vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại
+ Vốn tín dụng ngân hàng: Có thể nói rằng nguồn vốn vay ngân hàng là một trong
những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phân tích của bản thân các doanh
nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phân tích của các
công ty, các doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương
mại cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn tín dụng.
Có thể nói rằng: không một công ty nào có thể hoạt động tốt mà không vay vốn
ngân hàng hoặc tín dụng thương mại nếu công ty đố muốn tồn tại vững chắc trên thương
trường. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm bảo
nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo có đủ số vốn
cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp.
Về mặt thời hạn, vốn vay ngân hàng có thể được phân loại theo thời hạn vay, bao
gốm: vay dài hạn (thường tính từ 5 năm trở lên), vay trung hạn (từ 1 năm đến 5 năm) và
vay ngắn hạn (dưới 1 năm). Cần lưu ý rằng, tiêu chuẩn và quan niệm về thời gian để phân
loại trong thực tế không hoàn toàn giống nhau giữa các nước, và có thể khác nhau giữa các
ngân hàng thương mại.
Tùy theo tính chất và mục đích sử dụng, ngân hàng cũng có thể phân loại vay
thành các loại như: vay đầu tư tài sản cố định, vay vốn lưu động, vay để phục vụ dự án.
Cũng có những cách phân chia khác như: theo ngành kinh tế, theo lĩnh vực phục vụ hoặc
theo hình thức bảo đảm của khoản vay.
Nguồn tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm, nhưng nguồn vốn này cũng có
những hạn chế nhất định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng, kiểm soát của ngân hàng
và chi phí sử dụng vốn (lãi suất).
39
- Điều kiện tín dụng: các ngân hàng thương mại khi cho doanh nghiệp vay vốn luôn
luôn phải đảm bảo an toàn tín dụng, hạn chế các rủi ro tín dụng thông qua một hệ thống các
biện pháp bảo đảm tín dụng. Trước tiên, ngân hàng phải phân tích hờ sơ xin vay vốn, đánh
giá các thông tin liên quan đến dự án đầu tư hoặc kế hoạch sản xuất kinh doanh của một
doanh nghiệp vay vốn. Doanh nghiệp phải cung cấp những báo cáo tài chính và những
thông tin cần thiết khác theo yêu cầu của ngân hàng.
- Các điều kiện bảo đảm tiền vay: khi doanh nghiệp xin vay vốn, nói chung các
ngân hàng thường yêu cầu doanh nghiệp đi vay phải có các bảo đảm tín dụng, phổ biến
nhất là bằng tài sản thế chấp. Việc yêu cầu người vay có tài sản thế chấp trong nhiều
trường hợp làm cho bên đi vay không thể đáp ứng được các điều kiện vay, kể cả những thủ
tục pháp lý về giấy tờ, v.vdo đó, doanh nghiệp cần tính đến yếu tố này khi tiếp cận
nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
- Sự kiểm soát của ngân hàng cho vay: một khi doanh nghiệp vay vốn ngân hàng
thì doanh nghiệp cũng phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích và tình hình sử
dụng vốn vay. Nói chung, sự kiểm soát này không gây ra vấn đề gì quá lớn cho doanh
nghiệp, tuy nhiên, trong một số trường hợp điều đó cũng làm cho doanh nghiệp có cảm
giác bị “kiểm soát”.
- Lãi suất vay vốn: lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn. Lãi suất vốn tín
dụng ngân hàng phụ thuộc vào tình hình tín dụng trên thị trường trong từng thời kỳ. Nếu
lãi suất vay quá cao thì doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí sử dụng vốn lớn và làm giảm
thu nhập của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp cũng thường khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại hay còn
gọi là tín dụng của người cung cấp. Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên trong
quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại có
ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ với các doanh nghiệp mà cả với toạn bộ nền kinh tế.
Trong một số công ty, nguồn vốn tín dụng thương mại dưới dạng các khoản phải trả có thể
chiếm tới 20% tổng nguồn vốn, thậm chí có thể chiếm tới 40% tổng nguồn vốn.
+ Nguồn vốn tín dụng thương mại: là một phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh
hoạt trong kinh doanh; mặt khác nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh
doanh một cách lâu bền. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được ấn định khi hai bên ký
hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh doanh nói chung. Tuy nhiên, cần nhận thấy tính chất
rủi ro của quan hệ tín dụng thương mại khi quy mô tài trợ vượt quá giới hạn an toàn.
Chi phí của việc sử dụng các nguồn vốn tín dụng thể hiện qua lãi suất của khoản
vay, đó là chi phí lãi vay, sẽ được tính vào giá thành sản phẩm hay dịch vụ. Khi mua bán
hàng hóa trả chậm chi phí này có thể “ẩn” dưới hình thức thay đổi mức giá, tùy thuộc quan
hệ và thỏa thuận cụ thể giữa các bên. Trong xu hướng hiện nay ở Việt Nam cũng như trên
thế giới, các hình thức tín dụng ngày càng đa dạng hóa và linh hoạt hơn, với tính chất cạnh
tranh hơn; do đó các doanh nghiệp cũng có nhiều cơ hội để lựa chọn nguồn tài trợ cho các
hoạt động của doanh nghiệp.
4.1.3. Nguồn vốn phát hành cổ phiếu
Phát hành cổ phiếu là một kênh rất quan trọng để huy động vốn dài hạn cho công
ty một cách rộng rãi thông qua mối liên hệ với thị trường chứng khoán. Trong các
nước công nghiệp phát triển, thị trường chứng khoán là nơi hội tụ những hoạt động tài
chính sôi động nhất của nền kinh tế. Để hiểu rõ những khía cạnh chủ yếu của việc phát
hành cổ phiếu, cần hiểu rõ đặc điểm của các loại cổ phiếu khác nhau.
- Cổ phiếu thường: Cổ phiếu thường (còn gọi là cổ phiếu thông thường) là loại cổ
phiếu thông dụng nhất vì các ưu điểm của nó đpá ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư và
công ty phát hành. Lượng cổ phiếu tối đa mà các công ty được cơ quan quản lý Nhà nước
cho phép phát hành gọi là vốn cổ phần được phép phát hành. Lượng cổ phiếu đó phụ thuộc
vào quy định của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tap_bai_giang_tai_chinh_tien_te.pdf