CHưƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ KIỂM TOÁN TÀI CHÍNH
1.1. Kiểm toán tài chính trong hệ thống kiểm toán
1.1.1. Đối tượng của kiểm toán tài chính và mối quan hệ chủ thể - khách thể trong
kiểm toán tài chính
Kiểm toán tài chính là hoạt động đặc trưng nhất của kiểm toán bởi nó chứa đựng
đầy đủ sắc thái “kiểm toán” ngay từ khi ra đời cũng như trong quá trình phát triển. Đặc
trưng cơ bản đó của kiểm toán tài chính bắt nguồn từ chính đối tượng kiểm toán tài
chính và từ quan hệ chủ thể - khách thể kiểm toán.
Đối tượng trực tiếp của kiểm toán tài chính là bảng khai tài chính. Bộ phận quan
trọng của những bảng khai này là báo cáo tài chính.
Theo định nghĩa trong chuẩn mực của Kiểm toán Việt Nam: “Báo cáo tài chính
là hệ thống báo cáo được lập theo chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được
chấp nhận) phản ánh các thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu của đơn vị” (Chuẩn mực
200 - điểm 04).
Ngoài ra, bảng khai tài chính còn bao gồm những bảng kê khai có tính pháp lí
khác như các bảng dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước, các bảng dự toán và
quyết toán công trình xây dựng cơ bản, các bảng kê khai tài sản cá nhân, bảng kê khai
tài sản đặc biệt (kể cả các bảng kê khai tài sản doanh nghiệp phá sản hoặc bán đấu
giá .), các bảng khai theo yêu cầu riêng của chủ đầu tư.
Là bảng tổng hợp, các bảng khai này đều chứa đựng những thông tin lập ra tại
một thời điểm cụ thể trên cơ sở những tài liệu kế toán tổng hợp và chi tiết dựa theo
những quy tắc cụ thể xác định. Do vậy, một thông tin chứa đựng trong mỗi bảng khai
tài chính trên một khoản mục cụ thể đều mang trong mình nó nhiều mối quan hệ theo
những hướng khác nhau: giữa khoản mục này với khoản mục có liên quan khác, giữa
số tiền ghi trên khoản mục với số dư hoặc số phát sinh của các khoản tương ứng, giữa
thông tin trên từng loại khoản mục với các quy tắc xác lập chúng v.v
Như vậy, khi nói đối tượng kiểm toán tài chính là các bảng khai tài chính là nói
đến quan hệ trực tiếp. Trên cả lí luận cũng như thực tế, để xác minh và bày tỏ ý kiến
về bảng khai tài chính, kiểm toán tài chính không thể tách rời các tài liệu kế toán, các
hoạt động kinh doanh và tổ chức quản lí của đơn vị nhằm xác minh cụ thể độ tin cậy
của từng khoản mục cũng như mối quan hệ kinh tế chứa đựng trong các số dư, trong
các chỉ tiêu phản ánh các mối quan hệ bên trong của hoạt động tài chính.
Trong kiểm toán tài chính, cần khái quát được các loại quan hệ trên bảng khai tài
chính để xem xét tính “hợp lí chung” và các hướng tổng quát trong việc xác minh các
bảng khai tài chính đồng thời phải đi sâu vào từng loại quan hệ cụ thể để nghiên cứu
những “nét đặc thù “ trong việc xác minh và bày tỏ ý kiến của các quan hệ trong kiểm2
toán tài chính liên kết với kiểm toán nghiệp vụ và kiểm toán thông tin liên kết với
kiểm toán tuân thủ.
Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện chức năng chung
của kiểm toán, đồng thời có tác dụng thiết thực trong phân chia công việc kiểm toán
thành các phần hợp thành trong toàn bộ công tác kiểm toán (phần hành kiểm toán).
Với kiểm toán tài chính có hai cách cơ bản để phân chia đối tượng kiểm toán
thành các phần hành kiểm toán: phân theo khoản mục hoặc phân theo chu trình.
Phân theo khoản mục là cách chia máy móc từng nhóm khoản mục hoặc nhóm
các khoản mục trong các bảng khai vào một phần hành. Cách chia này đơn giản song
có thể bị hạn chế do tách biệt những khoản mục ở vị trí khác nhau song có liên hệ chặt
chẽ với nhau như hàng tồn kho và giá vốn hàng bán chẳng hạn.
213 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 24/05/2022 | Lượt xem: 252 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tập bài giảng Kiểm toán tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ương đã được duyệt (1): KTV lập ƣớc tính độc
lập quỹ lƣơng và so sánh với quỹ lƣơng đã trích vào chi
phí, với tiền lƣơng đã chi thực tế và với tiền lƣơng đã đƣợc
phê duyệt. Yêu cầu giải trình những chênh lệch và kiểm tra
sự phê duyệt (nếu cần).
7. Kiểm tra chính sách nhân sự của doanh nghiệp thỏa ƣớc
lao động tập thể, đảm bảo các khoản phải trả cho ngƣời LĐ
đã đƣợc ghi nhận đầy đủ, đúng kì nhƣ tiền thƣởng, tiền hoa
hồng, v.v
8. Đối chiếu tiền lƣơng phải trả cuối năm với Bảng lƣơng đã
đƣợc phê duyệt hoặc chứng từ chi trả lƣơng phát sinh sau
ngày khóa sổ kế toán, đánh giá các chênh lệch (nếu có).
Kiểm tra, đối chiếu với tờ khai quyết toán thuế TNDN để
đảm bảo đã loại trừ khỏi chi phí tính thuế đối với khoản
tiền lƣơng đã trích nhƣng chƣa thanh toán cho đến thời hạn
nộp hồ sơ quyết toán thuế năm.
9. Kiểm tra, đánh giá sự phù hợp và ghi chép lại các giao
dịch, số dƣ về tiền lƣơng, thƣởng, phụ cấp, thu nhập khác,
các khoản trích theo lƣơng của các bên liên quan (thành
viên Hội đồng quản trị, Ban Giám Đốc,)
10.
Đối với các khoản lương có gốc ngoại tệ (1): Kiểm tra
việc áp dụng tỷ giá quy đổi, xác định và hạch toán chênh
lệch tỷ giá đã thực hiện/chƣa thực hiện đối với các nghiệp
141
STT Thủ tục
Ngƣời
thực
hiện
Tham
chiếu
vụ phát sinh trong kì và số dƣ cuối kì.
11.
Kiểm tra việc trình bày các khoản lƣơng phải trả, các
khoản trích theo lƣơng trên Báo cáo tài chính.
IV. Các thủ tục kiểm toán khác
[Lưu ý: (1) Thủ tục tùy chọn căn cứ vào đặc điểm khách hàng, thực tế cuộc kiểm toán
và các phát hiện của KTV].
D. KẾT LUẬN
Theo ý kiến của tôi, trên cơ sở các bằng chứng thu thập đƣợc từ việc thực hiện các thủ
tục ở trên, các mục tiêu kiểm toán trình bày ở phần đầu của chƣơng trình kiểm toán đã
đạt đƣợc, ngoại trừ các vấn đề sau:
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
Chữ kí của ngƣời thực hiện:__________________
Kết luận khác của Thành viên BGĐ và/hoặc Chủ nhiệm kiểm toán (nếu có):
....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
142
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1. Giải thích đúng hoặc sai cho các câu hỏi dƣới đây:
1. Để tiết kiệm chi phí tiền lƣơng và giảm thiểu đƣợc sai sót chức năng nhân sự
và chức năng thanh toán tiền lƣơng nên đƣợc thực hiện bởi chỉ một bộ phận trong đơn vị.
2. Việc phê duyệt thay đổi mức lƣơng, bậc lƣơng, thƣởng và các khoản phúc lợi
nên đƣợc kí duyệt bởi ngƣời có thẩm quyền trong đơn vị.
3. Chức năng theo dõi thời gian lao động, khối lƣợng công việc, sản phẩm hoặc
lao vụ hoàn thành nên thực hiện bởi bộ phận kế toán để việc tính và trả lƣơng đƣợc
chính xác.
4. Căn cứ để xác định quỹ tiền lƣơng của đơn vị căn cứ trên cơ sở cơ bản là thời
gian lao động, khối lƣợng công việc, sản phẩm và lao vụ hoàn thành của ngƣời lao
động hoàn thành.
5. Doanh nghiệp không cần phải trả lƣơng nhân viên đến từng ngƣời lao động mà
chỉ cần trả lƣơng đến từng bộ phận sử dụng lao động. Làm nhƣ vậy vừa tiết kiệm thời
gian thanh toán lƣơng mà vẫn đảm bảo tính chính xác.
Câu 2. Khi kiểm toán báo cáo tài chính kết thúc ngày 31/12/N của công ty Thanh
Thúy, Kiểm toán viên phát hiện:
1. Tỷ lệ chi phí tiền lƣơng trên tổng doanh thu của đơn vị đƣợc đăng kí với cơ
quan thuế là 50% tuy nhiên trong năm tài chính N, Công ty đã chi quá tiền lƣơng so
với tỷ lệ trên tƣơng đƣơng với số tiền là 300.000.000 đồng. Giám đốc của công ty giải
thích rằng, việc chi quá tiền lƣơng nhƣ vậy nhằm để giữ nhân viên của đơn vị không
sang doanh nghiệp khác làm việc.
2. Trong năm, công ty có quyết định khen thƣởng cho một số nhân viên có thành
tích xuất sắc bằng sản phẩm. Đƣợc biết số sản phẩm này có giá vốn là 50.000.000
đồng. Kế toán công ty đã hạch toán nhƣ sau:
Nợ TK353: 50.000.000
Có TK155: 50.000.00
3. Một số khoản chi phí điện nƣớc sinh hoạt cho cán bộ công nhân viên của công
ty trong khu tập thể đã đƣợc hạch toán vào chi phí quản lí doanh nghiệp với số tiền là
15.000.000 đồng.
4. Các khoản chi lễ, tết, hiếu hỉ trong năm đã đƣợc kế toán của đơn vị hạch toán
vào chi phí quản lí doanh nghiệp 40.000.000 đồng.
5. Khi kiểm tra việc trích bảo hiểm xã hội cho ngƣời lao động của đơn vị có một
số công nhân viên ở bộ phận sản xuất đã kết thúc giai đoạn thử việc và kí hợp đồng
lao động với công ty từ tháng 6/N (hợp đồng lao động dài hạn). Tuy nhiên từ tháng
6/N công ty vẫn chƣa trích BHXH cho họ với số tiền tƣơng ứng là 15.000.000 đồng.
143
6. Tiền lƣơng và các khoản trích theo lƣơng của đội bảo vệ của công ty từ tháng
1 đến tháng 12/N đã đƣợc hạch toán vào chi phí sản xuất chung với tổng số tiền là
36.0000.0000 đồng.
7. Công ty đã nộp hộ thuế thu nhập cho một số chuyên gia nƣớc ngoài đang làm
việc tại doanh nghiệp với số tiền 60.000.000 đồng. Tuy nhiên số thuế nộp hộ này
công ty không giảm trừ thu nhập của họ mà ghi tăng chi phí quản lí doanh nghiệp
trong năm N.
Yêu cầu:
1. Phân tích ảnh hƣởng của các sai phạm trên đến các khoản mục trong báo cáo
tài chính và các tỉ suất tài chính liên quan.
2. Trình bày thủ tục kiểm toán thích hợp để phát hiện các sai phạm trên.
3. Thực hiện các bút toán điều chỉnh cần thiết.
144
CHƢƠNG 6. KIỂM TOÁN TÀI SẢN CỐ ĐỊNH VÀ ĐẦU TƢ DÀI HẠN
6.1. Tài sản cố định và đầu tƣ dài hạn với vấn đề kiểm toán
Tài sản cố định: là những tài sản có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài. Với
những loại tài sản này, cần có chế độ bảo quản và quản lí riêng nhằm sử dụng có hiệu
quả, đồng thời có kế hoạch đổi mới khi tài sản hết hạn sử dụng.
Tài sản cố định (TSCĐ) là cơ sở vật chất kỹ thuật của đơn vị. Nó phản ánh năng
lực sản xuất hiện có và trình độ ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động của
đơn vị. Tài sản cố định là một trong những yếu tố quan trọng tạo khả năng tăng trƣởng
bền vững, tăng năng suất lao động, từ đó, giảm chi phí và hạ giá thành sản phẩm dịch
vụ. Trong thời gian sử dụng, tài sản cố định bị hao mòn dần. Giá trị của chúng đƣợc
chuyển dịch dần vào chi phí hoạt động. Với hoạt động kinh doanh, giá trị này sẽ đƣợc
thu hồi sau khi bán hàng hóa, dịch vụ. Trong điều kiện này, để chế tạo ra những sản
phẩm tốt đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, doanh nghiệp cần phải đầu tƣ thiết bị, công nghệ
hiện đại đồng thời cần quản lí và sử dụng tài sản cố định tốt. Ngoài việc sử dụng hợp lí
công suất để phát triển sản xuất, thu hồi vốn đầu tƣ nhanh nhằm tái sản xuất, đổi mới
tài sản cố định, doanh nghiệp phải tiến hành bảo dƣỡng, sửa chữa tài sản cố định. Tùy
theo quy mô sửa chữa và theo loại tài sản cố định, chi phi sửa chữa đƣợc bù đắp khác
nhau. Về nguyên tắc, tài sản cố định đƣợc phân loại theo nhiều cách. Căn cứ vào
những tiêu thức nhất định ngƣời ta chia tài sản cố định ra thành nhiều nhóm để quản lí
tài sản cố định một cách hiệu quả:
Theo công dụng kinh tế, TSCĐ bao gồm 4 loại:
- Tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh doanh
- Tài sản cố định hành chính sự nghiệp
- Tài sản cố định phúc lợi
- Tài sản cố định chờ xử lí
Theo cách phân loại này là cơ sở để phân tích tình hình sử dụng TSCĐ nhằm đầu
tƣ, phát triển theo chiều sâu. Ngoài ra còn giúp ngƣời sử dụng có đủ thông tin về cơ
cấu TSCĐ, từ đó, phân bổ chính xác khấu hao theo đối tƣợng sử dụng và biện pháp
giải quyết đối với TSCĐ chờ xử lí.
Theo nguồn hình thành, TSCĐ đƣợc chia thành 4 loại:
- Tài sản cố định đƣợc mua sắm, xây dựng bằng nguồn vốn nhà nƣớc cấp.
- Tài sản cố định đƣợc mua sắm, xây dựng bằng nguồn vốn vay.
- Tài sản cố định đƣợc mua sắm, xây dựng bằng nguồn vốn tự bổ sung.
- Tài sản cố định nhận liên doanh, liên kết với đơn vị khác.
145
Theo cách phân loại này, ngƣời quản lí xác định đƣợc chính xác nguồn hình
thành và thu hồi vốn về tài sản cố định trong đơn vị đồng thời có biện pháp huy động
và sử dụng có hiệu quả vốn về TSCĐ.
Theo tính chất sở hữu, TSCĐ đƣợc chia thành 2 loại:
- Tài sản cố định thuộc quyền sở hữu của đơn vị.
- Tài sản cố định thuê ngoài.
Cách phân loại này giúp cho ngƣời sử dụng phân biệt quyền và nghĩa vụ của đơn
vị trong quản lí TSCĐ.
Trong tài sản cố định thuộc quyền sở hữu của đơn vị, phân loại theo tính chất và
đặc trƣng kỹ thuật của tài sản là cách phân loại đƣợc sử dụng phổ biến hiện nay trong
công tác hạch toán và quản lí TSCĐ ở các doanh nghiệp. Theo cách phân loại này,
TSCĐ đƣợc chia thành tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô hình và tài sản cố
định thuê tài chính.
- Tài sản cố định hữu hình là những tài sản có hình thái vật chất cụ thể. TSCĐ
hữu hình có thể là từng đơn vị có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ
phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định. Trong
hạch toán tài sản cố định đƣợc chia thành những nhóm khác nhau và sử dụng những tài
khoản, tiểu khoản khác nhau.
- Tài sản cố định vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể, thể
hiện một lƣợng chi phí mà doanh nghiệp đã đầu tƣ hoặc một giá trị lâu dài và đƣợc
hƣởng quyền lợi kinh tế lâu dài về nó. Các chi phí đầu tƣ đƣợc phân bổ dần trong
nhiều năm và đƣợc coi nhƣ trích khấu hao Tài sản cố định vô hình.
- Tài sản cố định thuê tài chính là những tài sản cố định doanh nghiệp thuê của
các đơn vị, các công ty tài chính thảo mãn điều kiện về thuê tài chính.
Tài sản cố định là cơ sở vật chất chủ yếu, giúp cho doanh nghiệp đạt đƣợc các
mục tiêu về hoạt động và tài chính trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nhiệm vụ đặt
ra đối với mỗi doanh nghiệp là phải tăng cƣờng công tác quản lí TSCĐ nhằm đạt hiệu
quả cao. Đồng thời nhờ việc quản lí tốt TSCĐ doanh nghiệp sẽ phát triển sản xuất, tạo
ra nhiều sản phẩm, hạ giá thành tăng vòng quay của vốn và đổi mới trang thiết bị, đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trƣờng.
Một đặc điểm riêng của tài sản cố định là trong quá trình sản xuất kinh doanh,
TSCĐ vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu nhƣng giá trị của nó giảm dần sau
mỗi chu kì sản xuất kinh doanh. Vì vậy, trong công tác quản lí TSCĐ các doanh
nghiệp cần theo dõi cả về mặt hiện vật và mặt giá trị của TSCĐ.
Quản lí về mặt hiện vật: bao gồm cả quản lí về số lƣợng và chất lƣợng của
TSCĐ. Về số lƣợng, bộ phận quản lí TSCĐ phải bảo đảm cung cấp đầy đủ về công
suất, đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Về mặt chất lƣợng, công
146
tác bảo quản phải bảo đảm tránh đƣợc hỏng hóc, mất mát các bộ phận chi tiết làm
giảm giá trị TSCĐ. Để thực hiện tốt vấn đề này, mỗi doanh nghiệp cần xây dựng nội
quy bảo quản TSCĐ và sử dụng một cách hợp lí, phù hợp với đặc điểm hoạt động của
mình. Đồng thời để sử dụng có hiệu quả TSCĐ, các đơn vị cần xây dựng các định mức
kinh tế kỹ thuật đối với từng loại, từng nhóm TSCĐ. Trên cơ sở đó, giao kế hoạch cụ
thể, hợp lí cho các bộ phận và từng ngƣời quản lí TSCĐ phù hợp với yêu cầu quản lí
và đặc điểm của đơn vị. Với đơn vị có quy mô lớn, có thể lựa chọn quy mô quản lí tập
trung TSCĐ và khi cần có thể điều động tới các bộ phận. Với đơn vị có quy mô nhỏ,
thƣờng áp dụng quy mô quản lí phân tán, theo đó TSCĐ đƣợc giao cho từng bộ phận
để bảo quản và sử dụng. Với đơn vị có quy mô vừa, mô hình quản lí TSCĐ kết hợp
giữa tập trung và phân tán từng thích hợp hơn cả: trong trƣờng hợp này, những TSCĐ
là máy móc thiết bị có giá trị lớn, sử dụng ở nhiều bộ phận khác nhau đƣợc quản lí ở
kho chung; những TSCĐ có đặc thù riêng phù hợp với hoạt động ở các bộ phận thì
đƣợc giao trực tiếp cho các bộ phận quản lí. Tổ chức quản lí TSCĐ phù hợp với yêu
cầu quản lí và đặc điểm hoạt động sẽ tạo điều kiện thuận lợi để hợp lí hóa hoạt động,
cải tiến kỹ thuật, nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ.
Quản lí về mặt giá trị: là xác định đúng nguyên giá và giá trị còn lại của TSCĐ
đầu tƣ, mua sắm, điều chuyển. Đơn vị phải tính toán chính xác và đầy đủ chi phí khấu
hao TSCĐ và phân bổ chi phí khấu hao và giá thành sản phẩm. Đồng thời, đơn vị phải
theo dõi chặt chẽ tình hình tăng, giảm giá trị TSCĐ khi tiến hành sửa chữa, tháo dỡ,
nâng cấp, cải tiến TSCĐ và đánh giá lại TSCĐ. Trên cơ sở quản lí về mặt giá trị
TSCĐ, đơn vị sẽ có kế hoạch điều chỉnh TSCĐ (tăng hoặc giảm TSCĐ) theo loại tài
sản phù hợp theo yêu cầu hoạt động của đơn vị.
Với các doanh nghiệp sản xuất, hoạt động kinh doanh đang phát triển mạnh mẽ cả
về chiều rộng và chiều sâu, đòi hỏi phải có một lƣợng TSCĐ thích hợp cho kinh doanh.
Do đó, vấn đề quản lí TSCĐ càng trở nên phức tạp. Thông qua kiểm toán, kiểm toán
viên có thể xem xét, đánh giá việc đầu tƣ, quản lí, sử dụng TSCĐ và đƣa ra kiến nghị
giúp cho doanh nghiệp cải tiến nhằm nâng cao chất lƣợng công tác quản lí TSCĐ.
Giá trị khoản mục TSCĐ trong tổng tài sản của đơn vị thay đổi phù hợp tùy theo
từng ngành nghề tùy loại hoạt động. Tuy nhiên, trong mọi trƣờng hợp, khoản mục
TSCĐ phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật nói chung và máy móc thiết
bị nói riêng và thƣờng có giá trị lớn. Vì vậy, kiểm toán khoản mục TSCĐ thƣờng
chiếm một vị trí quan trọng trong quá trình kiểm toán Bảng khai tài chính. Mặt khác,
chi phí mua sắm, đầu tƣ cho TSCĐ lớn, quay vòng vốn chậm. Để bảo đảm hiệu quả
của việc đầu tƣ TSCĐ, kiểm toán nghiệp vụ TSCĐ sẽ đánh giá tính kinh tế và tính
hiệu quả của việc đầu tƣ, định hƣớng cho đầu tƣ và nguồn sử dụng để đầu tƣ cho có
hiệu quả cao nhất. Đồng thời, kiểm toán TSCĐ sẽ góp phần phát hiện ra các sai sót
147
trong việc xác định chi phí cấu thành nguyên giá TSCĐ, chi phí sửa chữa, chi phí khấu
hao tài sản. Những sai sót trong việc tính các chi phí này thƣờng dẫn đến những sai sót
trọng yếu trên Báo cáo tài chính. Chẳng hạn, việc trích khấu hao TSCĐ tính vào chi
phí sản xuất kinh doanh thƣờng bị trích cao hoặc thấp hơn so với tỷ lệ khấu hao quy
định làm tăng hoặc giảm chi phí so với thực tế, từ đó ảnh hƣởng đến chỉ tiêu chi phí và
lợi nhuận của doanh nghiệp, việc không phân biệt loại chi phí sửa chữa đƣợc ghi tăng
nguyên giá TSCĐ với chi phí sửa chữa đƣợc tính vào chi phí sản xuất kinh doanh
trong kì cũng dẫn đến những sai lệch trong khoản mục TSCĐ hoặc khoản mục chi phí
sản xuất kinh doanh Các khoản đầu tƣ cho TSCĐ vô hình nhƣ chi phí thành lập
doanh nghiệp, quyền sử dụng đất, giá trị phát minh, sáng chế, chi phí nghiên cứu phát
triển, chi phí về lợi thế thƣơng mại thƣờng có nhiều sai sót trong quá trình tập hợp và
rất khó đánh giá chính xác giá trị. Chính vì vậy, TSCĐ vô hình luôn đƣợc quan tâm
trong quá trình kiểm toán.
Kiểm toán tài sản cố định thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát những vấn đề liên quan
đến thực trạng tài sản cũng nhƣ tình hình tăng giảm TSCĐ trong kì của đơn vị. Với sự tiến
bộ về khoa học kỹ thuật, TSCĐ ngày càng giữ vai trò quan trọng trong hoạt động của đơn
vị. Vì vậy, kiểm tra TSCĐ không chỉ phát hiện các sai sót trong các nghiệp vụ liên quan
đến TSCĐ mà còn góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lí TSCĐ.
Đầu tƣ tài chính dài hạn: bao gồm đầu tƣ vào công ty con (TK 221), vốn góp liên
doanh, liên kết (TK 222) và đầu tƣ dài hạn khác (TK 228) và dự phòng tổn thất tài sản
(TK 2292).
Đầu tƣ vào công ty con (TK 221) bao gồm các tài khoản đầu tƣ vào cổ phiếu và
các khoản đầu tƣ vốn dƣới hình thức góp vốn bằng tiền, tài sản khác vào công ty con
hoạt động theo loại hình công ty nhà nƣớc, công ty TNHH một thành viên, công ty cổ
phần nhà nƣớc và các loại hình doanh nghiệp khác. Tài khoản này đƣợc sử dụng khi
nhà đầu tƣ nắm giữ trên 50% quyền biểu quyết và có quyền chi phối các chính sách tài
chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm thu đƣợc lợi ích từ các hoạt
động của doanh nghiệp đó.
Vốn góp liên doanh, đầu tƣ vào công ty liên kết (TK 222) phản ánh toàn bộ số
vốn góp liên doanh dƣới hình thức thành lập cơ sở kinh doanh đồng kiểm soát và tình
hình thu hồi lại vốn góp liên doanh khi kết thúc hợp đồng liên doanh. Vốn góp vào cơ
sở kinh doanh đồng kiểm soát bao gồm tất cả các loại tài sản, vật tƣ, tiền vốn thuộc
quyền sở hữu của doanh nghiệp kể cả tiền vay dài hạn dùng vào việc góp vốn. Đầu tƣ
vào công ty liên kết phản ánh giá trị khoản đầu tƣ trực tiếp của nhà đầu tƣ vào công ty
liên kết (khoản đầu tƣ khi nhà đầu tƣ nắm giữ trực tiếp từ 20% đến dƣới 50% quyền
biểu quyết) và tình hình biến động tăng, giảm giá trị khoản đầu tƣ vào công ty liên kết.
148
Đầu tƣ dài hạn khác (TK 228) phản ánh giá trị hiện có và tình hình biến động
tăng giảm các loại đầu tƣ dài hạn khác (ngoài các khoản đầu tƣ vào công ty con, vốn
góp vào cơ sở kinh doanh đồng kiểm soát, đầu tƣ vào công ty liên kết) nhƣ đầu tƣ trái
phiếu, đầu tƣ cổ phiếu hoặc đầu tƣ vào các đơn vị khác mà chỉ nắm giữ dƣới 20% vốn
chủ sở hữu (dƣới 20% quyền biểu quyết) và thời hạn thu hồi hoặc thanh toán vốn
trên một năm.
Dự phòng tổn thất tài sản (TK 2292) đựơc tạo ra khi giá trị thuần có thể thực hiện
đƣợc (giá thị trƣờng) hoặc khoản đầu tƣ có thể thu hồi đƣợc với giá ghi trên sổ kế toán.
6.2. Kiểm soát nội bộ và trắc nghiệm đạt yêu cầu trong kiểm toán tài sản cố định
Để quản lí tốt tài sản cố định, mỗi đơn vị đều phải xây dựng các quy định, các
nguyên tắc và thủ tục về việc bảo quản TSCĐ. Mọi bộ phận của đơn vị phải tôn trọng
và thực hiện nghiêm túc các quy định đó. Các định hƣớng cơ bản cho quy định đó bao gồm:
- Tách biệt công tác bảo quản với công việc ghi chép các nghiệp vụ. Theo đó
ngƣời quản lí tài sản không đƣợc đồng thời là kế toán tài sản cố định. Nếu không tách
rời hai loại nghiệp vụ này sẽ dễ dàng xảy ra sai phạm hoặc giới hạn khả năng kiểm soát.
- Quy định rõ thẩm quyền của từng cấp quản lí đối với việc phê chuẩn các nghiệp
vụ kinh tế liên quan tới TSCĐ nhƣ mua mới, điều chuyển, thanh lí, nhƣợng bán TSCĐ.
Do tài sản cố định có giá trị lớn nên nguyên tắc này cần đặc biệt coi trọng.
- Cách ly quyền phê chuẩn với việc bảo quản tài sản cố định, tránh tình trạng
ngƣời bảo quản sử dụng TSCĐ cũng chính là ngƣời quyết định việc mua bán, thuyên
chuyển tài sản, dễ dẫn tới rủi ro, thất thoát tài sản do lạm dụng quyền hành tự do mua
bán thuyên chuyển hoặc thanh lí TSCĐ.
- Xây dựng hệ thống bảo quản TSCĐ, quy định thủ tục chặt chẽ về việc đƣa
TSCĐ ra khỏi doanh nghiệp.
Những yêu cầu cơ bản về quản lí TSCĐ đƣợc quy định trong chế độ hiện hành
của nƣớc ta nhƣ sau:
+ TSCĐ cần đƣợc tổ chức theo dõi đến từng đơn vị TSCĐ riêng biệt. Mỗi đối
tƣợng TSCĐ phải có bộ hồ sơ riêng để theo dõi toàn diện từ khi hình thành đến khi
thanh lí hoặc nhƣợng bán. Mỗi TSCĐ phải đƣợc đánh số hiệu riêng. Khi có biến động
về TSCĐ, phải căn cứ vào các biên bản, các chứng từ có liên quan đến ghi sổ.
+ Trong từng nhóm tài sản cố định theo chế độ tài chính quy định, các doanh
nghiệp phân loại chi tiết TSCĐ phù hợp với yêu cầu quản lí của doanh nghiệp mình.
+ Khi thanh lí, nhƣợng bán TSCĐ, doanh nghiệp cần phải lập hội đồng xác định
giá bán TSCĐ để xác định giá trị thu hồi khi thanh lí, tổ chức việc thanh lí, nhƣợng
bán TSCĐ theo quy định hiện hành.
+ Doanh nghiệp xác định thời gian sử dụng TSCĐ dựa vào tuổi thọ kỹ thuật của
TSCĐ theo thiết kế, hiện trạng TSCĐ, mục đích và hiệu suất sử dụng ƣớc tính của
149
TSCĐ. Đối với TSCĐ còn mới hoặc đã qua sử dụng mà giá trị thực tế còn từ 90% trở
lên phải xác định căn cứ vào khung thời gian sử dụng TSCĐ đã đƣợc quy định của Bộ
tài chính. Doanh nghiệp không đƣợc thay đổi thời gian sử dụng TSCĐ đã xác định và
đăng kí với cơ quan thuế trực tiếp quản lí.
+ Doanh nghiệp phải tiếp tục thực hiện việc quản lí, sử dụng đối với TSCĐ đã
khấu hao nhƣng vẫn tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với TSCĐ đang
sử dụng, doanh nghiệp phải theo dõi sử dụng và trích khấu hao TSCĐ theo chế độ quy
định. Đối với TSCĐ thuê tài chính, doanh nghiệp phải theo dõi, quản lí, sử dụng chúng
nhƣ đối với TSCĐ thuộc sở hữu của doanh nghiệp mình.
+ Tài sản cố định của doanh nghiệp đƣợc hình thành từ nhiều nguồn khác nhau,
tỷ lệ trích khấu hao khác nhau, phải lập nhiều chứng từ, sổ sách để quản lí tài sản. Vì
vậy, hạch toán các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến TSCĐ thƣờng đƣợc các kiểm
toán viên quan tâm nhằm phát hiện ra các gian lận và sai sót trong công tác hạch toán.
+ Do TSCĐ có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài nên việc quản lí TSCĐ
đòi hỏi rất chặt chẽ ngay từ khâu mua sắm, chuyển giao đến khâu thanh lí.
Gian lận trong các nghiệp vụ về tài sản cố định có thể là:
- Làm tài liệu giả, thay đổi ghi chép chứng từ, sửa chữa chứng từ, bịt đầu mối
thông tin nhằm tham ô, biển thủ công quỹ. Trong lĩnh vực kiểm toán TSCĐ, gian lận
loại này thƣờng là lập hóa đơn giả, ghi tăng giá mua TSCĐ so với thực tế, sửa chữa
chứng từ, làm chứng từ giả liên quan tới chi phí thu mua làm tăng nguyên giá TSCĐ
để biển thủ công quỹ, kế toán ghi chi phí sửa chữa TSCĐ cao hơn thực tế để khi hạch
toán vào chi phí kinh doanh sẽ làm tăng chi phí, đồng thời chiếm đoạt phần chênh lệch
so với thực tế.
- Cố tình giấu giếm hồ sơ tài liệu, bỏ sót kết quả các nghiệp vụ nhằm đạt lợi ích
riêng cho doanh nghiệp hoặc cho bản thân. Chẳng hạn, ngƣời ghi chép nghiệp vụ cố
tình bỏ sót các nghiệp vụ doanh thu nhằm giảm thuế phải nộp cho nhà nƣớc và các
khoản phải nộp cho cấp trên của doanh nghiệp. Trong quan hệ đó, kế toán TSCĐ cố
tình không ghi số tiền thu đƣợc do thanh lí TSCĐ đã khấu hao hết để chiếm đoạt phần
thu này.
- Ghi chép các nghiệp vụ không có thật, đây là trƣờng hợp rất hay xảy ra. Ví dụ: cố
tình ghi chép các nghiệp vụ không có thật liên quan đến chi phí mua sắm TSCĐ để biển
thủ công quỹ. Đặc biệt doanh nghiệp có thể dễ dàng ghi chép các nghiệp vụ không có
thật liên quan đến TSCĐ vô hình - một đối tƣợng rất khó kiểm tra và đánh giá.
- Áp dụng sai chế độ kế toán và các văn bản khác của nhà nƣớc. Chẳng hạn một
công ty nhận TSCĐ của doanh nghiệp khác cũng hạch toán phụ thuộc trong tổng công
ty. Chi phí liên quan đến việc điều chuyển TSCĐ theo chế độ lẽ ra phải hạch toán vào
chi phí kinh doanh trong kì thì doanh nghiệp lại cố tình hạch toán tăng nguyên giá
150
TSCĐ. TSCĐ mua về đợi lắp đặt đƣa vào sử dụng nhƣng doanh nghiệp đã ghi tăng
nguyên giá TSCĐ. Ngoài ra, một vấn đề nổi cộm phải quan tâm là điều chỉnh chi phí
hoạt động sản xuất kinh doanh, điều chỉnh chỉ tiêu lãi và thuế phải nộp cho ngân sách,
cố tình tiếp tục trích khấu hao TSCĐ đã khấu hao hết.
Đối với các sai sót, kiểm toán viên sẽ dễ dàng phát hiện hơn những gian lận. Sai
sót trong các nghiệp vụ về tài sản cố định có thể là:
- Sai sót do quên không ghi một nghiệp vụ kế toán mà đáng lẽ phải ghi vào sổ.
Chẳng hạn doanh nghiệp mua một TSCĐ bằng quỹ phát triển kinh doanh hay nguồn
vốn đầu tƣ xây dựng cơ bản, kế toán chỉ ghi tăng TSCĐ nhƣ trƣờng hợp mua bằng quỹ
khấu hao hoặc nguồn vốn kinh doanh mà không ghi nghiệp vụ kết chuyển nguồn vốn.
Doanh nghiệp mua một thiết bị công nghệ tiên tiến gồm có một phần là máy móc thiết
bị, một phần là chuyển giao công nghệ. Kế toán lẽ ra phải ghi tăng TSCĐ hữu hình
phần máy móc thiết bị và ghi tăng TSCĐ vô hình phần giá trị công nghệ, song kế toán
chỉ ghi tổng số tiền mua vào nguyên giá TSCĐ hữu hình
- Định khoản sai trong trƣờng hợp lẽ ra phải ghi nợ hoặc ghi có một TK này
nhƣng lại ghi và TK khác hoàn toàn không phù hợp với nghiệp vụ phát sinh. Trong khi
kiểm toán TSCĐ, kiểm toán viên phải chú ý các trƣờng hợp sửa chữa TSCĐ. Khi
doanh nghiệp tiến hành sửa chữa nhỏ TSCĐ, chi phí sửa chữa lẽ ra phải hạch toán vào
chi phí kinh doanh trong kì qua ghi nợ tài khoản chi phí sản xuất chung (TK 627), chí
phí quản lí doanh nghiệp (TK 642), chi phí bán hàng (TK 641) thì kế toán lại ghi
vào bên Nợ TK TSCĐ (TK 211) làm tăng giá trị khoản mục TSCĐ trên bảng cân đối
kế toán.
- Sai sót trong quá trình ghi sổ và chuyển sổ. Đây là dạng sai sót phổ biến của kế
toán mà kế toán TSCĐ phải quan tâm. Trong việc ghi sổ kế toán có thể sơ ý ghi số tiền
sai lệch, lộn số so với số tiền ghi trong chứng từ, kế toán cũng có thể nhầm lẫn trong
khi chuyển số liệu từ Nhật kí sang Sổ cái.
- Sai sót do trùng lắp. Sai sót này xảy ra do ghi nhiều lần một nghiệp vụ phát sinh
do tổ chức sổ chƣa tốt nên đã ghi một nghiệp vụ phát sinh vào các sổ khác nhau.
Chẳng hạn, doanh nghiệp sử dụng hình thức kế toán Nhật kí chung để hạch toán các
nghiệp vụ trong kì. Khi có nghiệp vụ thanh lí TSCĐ phát sinh, kế toán vừa ghi sổ Nhật
kí thu tiền, vừa ghi sổ Nhật kí chung số tiền thu đƣợc trong quá trình thanh lí.
- Sai sót do trình
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tap_bai_giang_kiem_toan_tai_chinh.pdf