Theo nghĩa gốc Hán, triết là trí, bao gồm cả sự hiểu biết, nhận thức sâu rộng, đạo lý.
- Theo nghĩa gốc Hy Lạp, triết có nghĩa là yêu mến sự thông thái.
- Từ thế kỷ VI TCN cho đến thế kỷ XVIII loài người đã quan niệm triết học là khoa học của mọi khoa học, là khoa học đứng trên mọi khoa học. Bởi thế, bất cứ ai thông thạo bất cứ môn khoa học nào cũng được gọi là nhà hiền triết hoặc nhà thông thái. Người ta đã xem đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và đặc điểm của triết học là bao gồm mọi đối tượng, phương pháp và đặc điểm của mọi khoa học cụ thể.
- Thế kỷ XIX, người đầu tiên tách triết học ra khỏi các khoa học cụ thể khá thành công nhưng trên lập trường duy tâm khách quan là G.V.F. Hêghen. Người hoàn thành sự nghiệp đó là C.Mác và Ph.Ăng ghen.
- Theo quan điểm mác-xít, triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là khoa học về những biện pháp chung nhất, những nguyên tắc chung nhất, những con đường chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới.
- Khái niệm triết học dù ở phương Đông hay phương Tây, dù có biến đổi theo lịch sử nhưng bao giờ cũng bao gồm hai yếu tố: Một là yếu tố nhận thức, tức sự hiểu biết của con người về thế giới, sự giải thích thế giới hiện thực bằng hệ thống tư duy. Hai là yếu tố nhận định, tức sự đánh giá, nhận xét về mặt đạo lý và thái độ hành động đối xử của con người đối với thế giới.
- Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có những đặc điểm riêng:
+ Nó là một trong những hình thái ý thức cổ xưa nhất và quan trọng nhất. Vai trò của triết học ngày càng tăng lên cùng với quá trình phát triển của tri thức nhân loại. Cùng với đạo đức, nghệ thuật, triết học mãi mãi tồn tại với xã hội loài người.
103 trang |
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1335 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tập bài giảng chính trị - Năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BàI 1
CHỦ NGHĨA DUY VẬT KHOA HỌC
I.KHÁI LUẬN CHUNG VỀ TRIẾT HỌC
1Khái niệm triết học
- Theo nghĩa gốc Hán, triết là trí, bao gồm cả sự hiểu biết, nhận thức sâu rộng, đạo lý.
- Theo nghĩa gốc Hy Lạp, triết có nghĩa là yêu mến sự thông thái.
- Từ thế kỷ VI TCN cho đến thế kỷ XVIII loài người đã quan niệm triết học là khoa học của mọi khoa học, là khoa học đứng trên mọi khoa học. Bởi thế, bất cứ ai thông thạo bất cứ môn khoa học nào cũng được gọi là nhà hiền triết hoặc nhà thông thái. Người ta đã xem đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và đặc điểm của triết học là bao gồm mọi đối tượng, phương pháp và đặc điểm của mọi khoa học cụ thể.
- Thế kỷ XIX, người đầu tiên tách triết học ra khỏi các khoa học cụ thể khá thành công nhưng trên lập trường duy tâm khách quan là G.V.F. Hêghen. Người hoàn thành sự nghiệp đó là C.Mác và Ph.Ăng ghen.
- Theo quan điểm mác-xít, triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là khoa học về những biện pháp chung nhất, những nguyên tắc chung nhất, những con đường chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới.
- Khái niệm triết học dù ở phương Đông hay phương Tây, dù có biến đổi theo lịch sử nhưng bao giờ cũng bao gồm hai yếu tố: Một là yếu tố nhận thức, tức sự hiểu biết của con người về thế giới, sự giải thích thế giới hiện thực bằng hệ thống tư duy. Hai là yếu tố nhận định, tức sự đánh giá, nhận xét về mặt đạo lý và thái độ hành động đối xử của con người đối với thế giới.
- Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có những đặc điểm riêng:
+ Nó là một trong những hình thái ý thức cổ xưa nhất và quan trọng nhất. Vai trò của triết học ngày càng tăng lên cùng với quá trình phát triển của tri thức nhân loại. Cùng với đạo đức, nghệ thuật, triết học mãi mãi tồn tại với xã hội loài người.
+ Khác với các hình thái ý thức xã hội khác, triết học nghiên cứu thế giới trong một chỉnh thể, nhận thức bản chất của thế giới, vạch ra những nguyên nhân của sự phát triển. Triết học nghiên cứu những nguyên lý, những quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới. Tức không có lĩnh vực nào mà triết học không nghiên cứu. Nhưng ở tất cả mọi lĩnh vực, triết học chỉ nghiên cứu cái chung nhất, chỉ ra bản chất của nó chứ không nghiên cứu cụ thể như các khoa học cụ thể.
+ Là một trong những hình thái ý thức xã hội, nhưng triết học cố gắng đưa ra một quan niệm chỉnh thể về thế giới, về các quá trình vật chất và tinh thần, về những mối liên hệ tác động của các quá trình đó, về nhận thức và con đường cải biến thế giới.
2.Vấn đề cơ bản của triết học.
Triết học nghiên cứu hàng loạt các vấn đề chung của thế giới, nhưng vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức (giữa tồn tại và tư duy, hay giữa tự nhiên và tinh thần).
Nó là vấn đề cơ bản của triết học bởi lẽ, trong thế giới có vô vàn sự vật, hiện tượng, nhưng chung quy lại chúng chỉ phân thành hai loại: hiện tượng vật chất (tồn tại, tự nhiên) và hiện tượng ý thức (tư duy, tinh thần). Mặt khác, từ phương Đông sang phương Tây, từ cổ đại đến hiện đại tất cả các trường phái triết học trước khi nghiên cứu các vấn đề chung khác, bao giờ cũng nghiên cứu và giải quyết vấn đề mối liên hệ giữa vật chất và ý thức trước tiên. Việc giải quyết vấn đề này là cơ sở nền tảng cho việc giải quyết những vấn đề khác của triết học. Nói cách khác việc giải quyết nó là giải quyết về thế giới quan và phương pháp luận của triết học.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt. Mặt thứ nhất giải quyết về thế giới quan. Tất cả các nhà triết học đều phải trả lời câu hỏi: Giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Tùy theo câu trả lời của các nhà triết học, mà các học thuyết triết học đã chia thành hai trào lưu chính Duy Vật và Duy Tâm.
Các nhà triết học Duy Vật khẳng định vật chất có trước và quyết định đối với ý thức. Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người. Chủ nghĩa duy vật trong tiến trình phát triển từ cổ đại đến hiện đại đã trãi qua nhiều hình thức khác nhau: cổ đại, tầm thường, cơ học, máy móc... nói chung là duy vật siêu hình, và duy vật biện chứng.
Ngược lại, các nhà triết học Duy Tâm lại khẳng định ý thức có trước và quyết định đối với vật chất. Trong tiến trình phát triển của mình, chủ nghĩa duy tâm cũng đã trãi qua nhiều hình thức khác nhau: duy cảm chủ quan, duy lý, nhị nguyên, duy thức, duy ngã... nói chung là duy tâm chủ quan và duy tâm khách quan.
Mặt thứ hai giải quyết về vấn đề nhận thức luận: tất cả các nhà triết học đều phải trả lời câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức thế giới không? Tùy theo câu trả lời của các nhà triết học mà các triết thuyết đã chia thành hai phái: Khả tri luận gồm các nhà triết học trả lời con người có khả năng nhận thức thế giới. Thông thường họ là các nhà triết học duy vật và các nhà triết học duy tâm chủ quan. Bất khả tri luận gồm các nhà triết học trả lời con người không có khả năng nhận thức thế giới. Thông thường họ là các nhà triết học duy tâm khách quan.
Trên cơ sở giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, lịch sử triết học chỉ ra Triết học có hai nguồn gốc: Nguồn gốc nhận thức của chủ nghĩa duy vật là mối liên hệ của nó với các thành tựu của các khoa học cụ thể. Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy vật là các lực lượng xã hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử. Nguồn gốc nhận thức của chủ nghĩa duy tâm là mối liên hệ của nó với các đấng siêu nhiên, hoặc tuyệt đối hóa một hay một số yếu tố nào đó của ý thức. Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy tâm là mối liên hệ của nó với các lực lượng xã hội, các giai cấp phản tiến bộ, giai cấp thống trị đang trên đà tan rã trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử.
3.Hai phương pháp cơ bản trong triết học.
Xuất phát từ bản chất của triết học, khi giải quyết vấn đề cơ bản bản chất của thế giới có vận động và phát triển không, nếu có thì do những nguyên nhân và theo những xu hướng nào, mà trong triết học đã có hai phương pháp cơ bản biện chứng và siêu hình. Hai phương pháp này đối lập nhau về cách nhìn nhận thế giới.
Phương pháp biện chứng xem xét thế giới trong mối liên hệ phổ biến quy định ràng buộc lẫn nhau, và luôn vận động, và luôn phát triển. Trong sự phát triển của mình, phương pháp biện chứng đã có những hình thức khác nhau là: Biện chứng cổ đại, biện chứng duy tâm, biện chứng duy vật.
Phương pháp siêu hình xem xét thế giới trong mối liên hệ cô lập tách biệt lẫn nhau, hoặc không vận động, hoặc không phát triển, hoặc vận động và phát triển theo chu kỳ khép kín. Trong sự phát triển của mình, phương pháp siêu hình cũng có các hình thức khác nhau: siêu hình duy tâm, siêu hình duy vật.
Tóm lại, trong sự phát triển của triết học, với tư cách là một khoa học, trong nó luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa duy vật với duy tâm, giữa vô thần với hữu thần, giữa biện chứng với siêu hình. Các cuộc đấu tranh ấy chính là đối tượng nghiên cứu của lịch sử triết học. Tuy nhiên, triết học phương Tây thường tập trung giải quyết các vấn đề thuộc về thế giới quan, trong khi đó triết học phương Đông lại nặng về vấn đề nhân sinh quan: Triết học Trung Quốc tập trung về vấn đề đạo đức, chính trị - xã hội; Triết học Ấn Độ nặng về giải quyết các vấn đề thuộc về đời sống tâm linh. Triết học phương Đông tính chiến đấu giữa duy vật với duy tâm, giữa biện chứng với siêu hình, giữa vô thần với hữu thần mờ nhạt hơn so với triết học phương Tây.
II. BẢN CHẤT THẾ GIỚI
1. Quan điểm duy tâm về bản chất thế giới.
Quan điểm duy tâm cho rằng bản chất thế giới là ý thức. Theo quan điểm này, trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì ý thức là cái có trước, vật chất là cái có sau; ý thức quyết định vật chất; ý thức là cơ sở, nguồn gốc cho sự ra đời, tồn tại, vận động phát triển của sự vật hiện tượng trong thế giới.
Chủ nghĩa duy tâm có hại loại: chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan là trường phái triết học cho rằng: ý thức tinh thần nói chung như “ý niệm”, “ý niệm tuyệt đối”, “tinh thần thế giới” là cái có trước, tồn tại khách quan bên ngoài con người, từ đó sinh ra thế giới. Tiêu biểu là Platon (triết học Hylạp cổ đại) và Hêghen ( triết học cổ điển Đức).
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan là trường phái triết học cho rằng: ý thức, cảm giác của con người là cơ sở quyết định sự tồn tại của các sự vật và hiện tượng trong thế giới. Họ cho rằng “sự vật chỉ là sự tổng hợp của cảm giác”, “xoá bỏ cảm giác là xoá bỏ sự vật”. Tiêu biểu cho quan điểm này là nhà triết học người Anh thế kỷ thứ XVIII: Béccơly và Hyum.
2. Quan điểm duy vật về bản chất của thế giới.
Quan đểm duy vật khẳng định bản chất thế giới là vật chất. Ngoài thế giới vật chất ra không có thể giới nào khác. Các sự vật, hiện tượng chỉ là biểu hiện những dạng cụ thể của thế giới vật chất mà thội.
Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất quyết định ý thức, còn ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào đầu óc con người mà thôi.
Trong sự phát triển của lịch sử triết học chủ nghĩa duy vật biểu hiện dưới những hình thức sau: chủ nghĩa duy vật cổ đại mộc mạc chất phác; chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII- XVIII, và đỉnh cao là chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác - Ăngghen.
Quan điểm duy vật khẳng định bản chất thế giới là vật chất, là quan điểm đúng đắn, khoa học. Nó đem lại cho con người niềm tin và sức mạnh trong việc nhận thức và cải tạo thế giới.
Ngoài quan điểm duy vật và duy tâm còn có quan điểm nhị nguyên. Quan điểm này cho rằng: vật chất và ý thức là hai nguyên thể đầu tiên, cùng song song tồn tại, không có cái nào có trước, không có cái nào có sau, không có cái nào quyết định cái nào.(Thực chất quan điểm này là một dạng chủ nghĩa duy tâm chủ quan, cho rằng ý thức tồn tại không phụ thuộc vào vật chất).
III. PHẠM TRÙ VẬT CHẤT
1. Quan điểm của các nhà duy vật trước Mác
Ngay từ khi mới ra đời triết học đã đặt ra câu hỏi: Thế giới này do đâu mà có ? Yếu tố đầu tiên tạo ra thế giới là gì? Triết học gọi đó là Bản nguyên( là gốc đầu tiên) . Lịch sử có nhiều quan điểm khác nhau về bản nguyên, song có thể quy về hai trường phái lớn là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Trường phái duy tâm thường quy bản nguyên thế giới bởi tinh thần ( ý thức). Ngược lại, trường phái duy vật quy bản nguyên thế giới bởi vật chất.
Vậy, vật chất là gì ? Quan niệm vật chất của các thờì kỳ lịch sử ra sao?
- Thời kỳ cổ đại:
+ Trong triết học Hy Lạp và La Mã cổ đại người ta cho rằng bản nguyên thế giới là một dạng vật chất cụ thể của thế giới, chẳng hạn:Hêraclít cho rằng bản nguyên của thế giới là lửa, Talet cho đó là nước, Anaximen cho rằng đó là không khí, Đêmôcrit đạt được trình độ cao hơn khi ông cho rằng bản nguyên của thế giới là nguyên tử (hạt vật chất nhỏ bé nhất) và chân không.
+ Ở phương Đông cũng có quan điểm tương tự: ở Trung Quốc người ta cho rằng bản nguyên vũ trụ là ngũ hành ( 5 yếu tố) là: kim, mộc,thủy,hỏa, thổ chúng tương tác nhau tạo nên vũ trụ. Còn ở ấn độ cổ đại cho rằng thế giới được tạo thành từ những hạt tế vi; thế giới hữu tình được sinh ra từ ngũ uẩn . . .
- Thời kỳ trung cổ:
+ Từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ XV là thời kỳ thống trị của thần quyền giáo hội và vương quyền của đế chế phong kiến, do đó không đặt ra vấn đề bản nguyên vật chất.
- Đến thời kỳ Phực hưng:
+ Từ ( cuối thế kỷ XV- XVI) do khoa học phát triển, vật lý đi sâu nghiên cứu kết cấu của vật chất đã phát hiện ra những chất mới( dạng trường, từ trường, điện trường. ..) thì lúc này vấn đề vật chất lại được đặt ra và mở rộng sang những dạng vật chất được đặt ra thời cổ đại. Mở đầu thời kỳ này , lần đầu tiên Côpécníc chứng minh mặt trời là trung tâm đã đảo lộn truyền thuyết của kinh thánh và quan điểm thần học về thế giới.
- Tất cả những quan niệm về bản nguyên đầu tiên của triết học thời trong các thời kỳ lịch sử trên đây có những hạn chế sau:
+ Một là, khuynh hướng đi tìm yếu tố đầu tiên của thế giới. Khuynh hướng này kết cục dẫn đến duy tâm, siêu hình. Duy tâm bởi truy tìm yếu tố đầu tiên đến một giới hạn mà nhận thức con người bất lực sẽ dẫn tới ‘đấng siêu nhiên”.
+ Siêu hình bởi thế giới đã có khởi đầu ắt có kết thúc, như vậy trái với nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng là thế giới vô cùng, vô tận , bất diệt. Quy vật chất về một dạng cụ thể nào đó là sự phỏng đoán ngây thơ, mộc mạc, chất phác . ..
2. Quan niệm triết học Mác- Lênin về vật chất.
- Hoàn cảnh đòi hỏi sự ra đời định nghĩa vật chất của Lênin:
+ Thứ nhất, thành tựu khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX đầu XX cùng với sự phát triển mạnh mẻ của phân ngành các khoa học trong khoa học tự nhiên, nhất là vật lý học đã làm tiền đề quan trọng thôi thúc các nhà triết học khái quát đưa ra quan điểm đầy đủ hơn về sự vô cùng vô tận của vật chất.
Ví dụ: - Năm 1895 Rơnghen phát hiện ra tia X, một loại sóng điện từ có bước sóng ngắn.
- Năm 1896, Becơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ, đã bác bỏ quan niệm về sự bất biến của nguyên tử.
- Năm 1897 Tômxơn phát hiện ra điện tử và chứng minh điện tử là một thành phần cấu tạo nên nguyên tử. . .
+ Thứ hai, vấn đề là ở chổ, trong nhận thức lúc đó hạt điện tích và trường điện từ được coi là cái gì đó phi vật chất đây là mãnh đất để chủ nghĩa duy tâm lợi dụng, những người duy tâm cho rằng “vật chất” biến mất, nền tảng của chủ nghĩa duy vật sụp đổ.
+ Sự phát triển của lôgíc biện chứng có thể cho phép định nghĩa một sự vật thông qua các mặt đối lập rộng tương đương với nó.
Chính trong hoàn cảnh như vậy Lênin đã khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên và chỉ rõ rằng vật chất không tiêu tan, cái bị tiêu tan, bị bác bỏ chính là giới hạn hiểu biết trước đây về vật chất, là sự hiểu biết máy móc, siêu hình. .. Đồng thời Lênin đã đa ra định nghĩa về vật chất:
- Định nghĩa vật chất của Lênin:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh,và không tồn tại lệ thuộc vào cảm giác”.
Định nghĩa trên có 3 nội dung cơ bản:
+ Một là, “Vật chất là một phạm trù triết học”, với tính cách là vật chất là một khái niệm rộng được tư duy khái quát từ vô vàn những sự vật hiện tượng cụ thể trong thế giới mà lại không đồng nhất với bất cứ sự vật , hiện tượng đơn lẻ nào.
Phân biệt vật chất và vật thể, vật chất chỉ những vật nói chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi. .. còn vật thể là những dạng vật chất cụ thể có sinh ra, mất đi, có giới hạn...
+ Hai là, trong nhận thức luận, khi vật chất đối lập với ý thức, cái quan trọng để nhận biết vật chất là thuộc tính khách quan, đó là cái tồn tại độc lập với cảm giác không phụ thuộc vào cảm giác con người.
+ Ba là, Vật chất “được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác chúng ta chụp lại, chép lại, phản ánh
* ý nghĩa của định nghĩa vật chất của Lênin:
- Đã góp phần giải quyết một cách triệt để vấn đề cơ bản của triết học trên thế giới quan duy vật, khoa học, biện chứng. Khắc phục những quan điểm triết học đối lập với triết học Mác chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy vật siêu hình, quan điểm bất khả tri.
- Đã góp phần định hướng và thúc đẩy sự phát triển của khoa học tự nhiên. Dù khoa học có phát hiện ra những dạng vật chất mới nào khác, nếu nh nó là “thực tại khách quan” thì đó cũng là một dạng cụ thể của vật chất mà không cần phải tranh luận vô bổ, dẫn tới hoang mang, dao động.
- Đã góp phần mở rộng quan niệm vật chất trong xã hội: vật chất trong xã hội là các quy luật, các mối quan hệ do con người kết hợp với nhau, hoạt động tạo ra, song nó lại tồn tại khách quan với con người.
3. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.
3.1. định nghĩa và phân loại vận động.
Vận động hiểu theo nghĩa hẹp, đơn giản, đó là sự chuyển dịch vị trí trong không gian. Còn vận động hiểu theo nghĩa đầy đủ và khoa học, như Ăngghen chỉ ra, đó là một phơng thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất, bao gồm “ tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy “.
3.2. Nguồn gốc vận động:
Các nhà duy tâm cho rằng vận động là do thần linh, thợng đế, hoặc những dạng tinh thần siêu tự nhiên( ý niệm của Platon, ý niệm tuyệt đối của Hêghen).
Chủ nghĩa duy vật siêu hình có tiến bộ hơn, đi tìm nguồn gốc vận động của vật chất từ bản thân thế giới vật chất, nhưng nhiều lắm thì họ chỉ tìm ra những hình thức vận động cụ thể.Theo họ vận động chỉ là sự tăng giảm về số lượng hoặc là sự chuyển dịch các vật thể trong không gian.
Triết học Mác- Lênin cho rằng, vận động gắn liền với vật chất, là thuộc tính vốn có của vật chất; vận động của vật chất là vận động tự thân, do mâu thuẫn bên trong tạo ra. Vận động của vật chất còn do sự tác động qua lại giữa các yếu tố, các bộ phận khác nhau trong bản thân sự vật, hay giữa sự vật này với sự vật kia.
3.3. Những hình thức vận động cơ bản của vật chất.
Trên cơ sở định nghĩa về vận động, Ăngghen đã chia ra 5 hình thức vận động:
- Vận động cơ học, là sự chuyển dịch vị trí trong không gian;
- Vận động vật lý, là sự tương tác hút và đẩy giữa các vật thể:
- Vận động hóa học, là quá trình hóa hợp và phận giải các nguyên tố hóa học của các vật thể
- Vận động sinh vật, là sự tương tác giữa dồng hóa và dị hóa trong sự sống muôn loài;
- Vận động xã hội, là hoạt động của con người có ý thức làm xuất hiện các quan hệ xã hội và các quy luật xã hội
Các hình thức vận động khác nhau về chất nên không được quy hình thức vận động này vào hình thức vận động khác. Các hình thức vận động có mối liên hệ phát sinh và tồn tại trong mối liên hệ biện chứng.
Cách phân loại vận động chỉ mang tính khái quát, là phương pháp luận để phân chia các ngành khoa học, còn thực tế mỗi hình thức vận động lại được phân ra nhiều phân ngành với mức độ khác nhau tùy thuộc vào trình độ phát triển của nhận thức.
4.4. Vận động và đứng im.
Triết học Mác - Lênin cho rằng, vận động là tuyệt đối, đứng im là tương đối. Vận động là tuyệt đối, vì đó là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất, nên không ở đâu, không lúc nào có vật chất mà lại không có vận động.
Đứng im là tương đối, vì không có đứng im thì không thể có sự vật cụ thể, riêng lẻ,xác định, do vậy không thể nhận thức được bất cứ cái gì. Nhưng đứng im chỉ là tương đối, vì nó chỉ xẩy ra với một hình thức vận động, có tính cá biệt; nó chỉ xẩy ra trong một mối quan hệ nhất định và chỉ biểu hiện một trạng thái vận động. Đó là vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối, bảo tồn cấu trúc, xác định là nó, nó chưa là cái khác.
+ Khi tách ra, cô lập một hình thức vận động cá biệt để xét. Ví dụ vận động cơ học, nó sẽ đứng im không còn chuyển dời vị trí trong không gian. Nhưng ngay khi sự vật đứng im về vận động cơ học thì các vận động khác vẫn xẩy ra.
+ Khi sự vật chỉ được xem xét trong một quan hệ xác định, nó đứng im trong quan hệ đó nhưng đang vận động trong mối quan hệ khác.
4.. Không gian và thời gian
4.1. Những quan niệm khác nhau.
- Các nhà triết học duy tâm cho rằng: không gian, thời gian là hình thức tri giác chủ quan của con người quy định (can tơ) ; là yếu tố trong sự phát triển của “ ý niệm tuyệt đối” ( Hêghen); là hệ thống liên kết chặt chẽ của chuỗi cảm giác ( Makhơ).
- Các nhà triết học duy vật siêu hình: Tuy thừa nhận không gian, thời gian tồn tại khách quan nhưng họ cho rằng đó là sự tồn tại trống rỗng, không gắn với vật chất vận động ( Đêcáctơ, Niutơn).
4.2. Quan niệm triết học Mác- Lênin.
a. Khái niệm không gian và thời gian.
- Không gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính- sự cùng tồn tại, kết cấu, quy mô và tác động lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng.
- Thời gian: là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt trường tính- Độ dài diễn biến của của các quá trình, sự kế tiếp nhau vận động phát triển( ngày, tuần, tháng, năm, thập kỷ, thế kỷ...).
b. Quan hệ giữa không gian và thời gian với vật chất vận động.
Triết học Mác- Lênin khẳng định: Không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất nên nó gắn liền với vật chất vận động, là thuộc tính của vật chất vận động. Vật chất vận động là vận động trong không gian và thời gian.
Không có và không bao giờ có không gian, thời gian thuần tuý tồn tại ngoài vật chất vận động. Cũng như không có và không bao giờ có vật chất vận động ngoài không gian và thời gian.
Ăngghen nói: “các hình thức tồn tại cơ bản của vật chất là không gian và thời gian. Và vật chất tồn tại ngoài thời gian cũng hoàn toàn vô lý như tồn tại ngoài không gian”.
c. Tính chất của không gian, thời gian
- Tính khách quan: không gian, thời gian là thuộc tính của vật chất, gắn liền với vật chất vận động. Mà vật chất tồn tại khách quan, nên không gian, thời gian cũng tồn tại khách quan.
- Tính vô tận,vô hạn của không gian, thời gian: vật chất là vô tận, vô hạn hạn nên không gian và thời gian gắn với vật chất cũng vô tận vô hạn.
- Tính vô tận của không gian được hính thành từ quảng tính có hạn của các vật riêng lẻ.
- tính vô tận của thời gian được hình thành từ trường tính có hạn của quá trình riêng lẻ.
5. tính thống nhất của thế giới
5.1. Những quan điểm khác nhau
Triết học duy tâm cho rằng bản chất của thế giới là tinh thần, nên thế giới thống nhất là thống nhất ở lĩnh vực tư tưởng tinh thần. Hêghen cho thế giới thống nhất ở “ ý niệm tuyệt đối”, Đuyrinh (nhà triết học Đức cùng thời Mác) cho thế giới thống nhất ở “tồn tại”. Mác- Ăngghen phê phán và chỉ ra: nếu thế giới thống nhất ở “tồn tại” thì chưa phân biệt được sự khác nhau giữa các sự vật và hiện tượng, chưa phân biệt được người duy vật và duy tâm, vì thượng đế, “chúa” cũng tồn tại.
Triết học duy vật cổ đại cho thế giới thống nhất là thống nhất ở một dạng vật chất cụ thể nào đó như “nước” (Talét), “không khí” (Anaximen), “lửa” (Hêraclit), “ nguyên tử” (Đêmôcrit). Nhưng những vật cụ thể không thể bao quát hết sự phong phú, đa dạng của thế giới.
5.2. Quan điểm triết học Mác- Lênin
Xuất phát từ quan điểm thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Ngoài nó ra không có một thế giới nào khác tồn tại khách quan, vận động, phát triển không ngừng. Sự thống nhất đó được biểu hiện :
+ Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức. Thế giới vật chất vô tận, vô hạn, không sinh, không diệt. Trong thế giới đó không có gì khác ngoài vật chất đang vận động, chuyển hoá lẫn nhau, tất cả đều là nguyên nhân, kết quả của nhau và đều là vật chất.
+ Mỗi lĩnh vực của thế giới (tự nhiên, xã hội) đều là những dạng cụ thể của thế giới vật chất, nên chúng đều có nguồn gốc, quan hệ, liên hệ vật chất; đều có tổ chức, kết cấu vật chất và đều chịu sự chi phối bởi những quy luật khách quan của thế giới vật chất.
Sự thống nhất vật chất của thế giới còn được chứng minh bởi khoa học, những phát minh của khoa học tự nhiên, đặc biệt là ba phát minh lớn thế kỷ XIX: học thuyết tế bào, học thuyết tiến hoá và bảo tồn năng lượng.
Học thuyết tiến hoá các loài đã chứng minh thế giới là một chỉnh thể thống nhất. Hơn nữa những tri thức khoa học hiện đại của thế kỷ XX như vật lý, hoá học, sinh học; tự động hoá ngày càng chứng tỏ rằng: thế giới vật chất liên hệ mật thiết với nhau làm tiền đề tồn tại cho nhau, trong sự vận động phát triển không ngừng. Như vậy, thế giới là sự thống nhất ở tính vật chất của nó.
Trên lĩnh vực triết học với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã đóng vai trò quan trọng chứng minh thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Lý luận của Ăngghen về vai trò lao động trong quá trình chuyển hoá vượn thành người đã chứng tỏ rằng xã hội loài người có nguồn gốc từ tự nhiên, là một dạng tự nhiên đặc biệt.
Ý nghĩa của nguyên lý:
+ Nguyên lý bản chất thế giới là vật chất và thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó, đòi hỏi con người trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phảI xuất phát từ hiện thực khách quan, lấy đó làm điều kiện cơ sở cho hoạt động của mình. Đó là một trong những nguyên tắc cơ bản của phương pháp luận duy vật. Nó đòi hỏi phảI xuất phát từ hiện thực khách quan, từ bản thân sự vật mà phân tích, xem xét rút ra kết luận cần thiết, không thể xem xét chủ quan để áp đặt cho sự vật.
+ Những mục đích, chủ trương, kế hoạch và cả những biện pháp tổ chức thực hiện không thể rút ra từ nguyện vọng, mong muốn chủ quan mà phảI được xây dung từ hiện thực khách quan phản ánh những nhu cầu chín muồi và tất yếu của đời sống xã hội, mới có khả năng hiện thực.
Mác- Lênin cho rằng, ý thức ra đời có hai nguồn gốc: nguồn gốc tự nhiên và nguồn
IV. Ý THỨC, MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Khái niệm, kết cấu và nguồn gốc của ý thức.
a. Khái niệm và kết cấu của ý thức.
Triết học Mác - Lênin cho rằng, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, hay ý thức chẳng qua chỉ là hình ảnh của thế giới khách quan được di chuyển vào đầu óc con ngưòi và được cải biến đi.
Vì mang tính chủ quan nên ý thức mỗi cá nhân khác nhau, do trinh độ, năng lực, tâm,sinh lý. . . quy định. Vì mang tính sáng tạo lại, nên ý thức không bao giờ tự bằng lòng với tự nhiên, mà nó tự nhào nặn chế tác, sáng tạo giới tự nhiên cho ta.
b. Nguồn gốc ý thức.
- Nguồn gốc tự nhiên có hai
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ct_90_t_ph_1_5462.doc