Đói nghèo là m ột vấn đ ề x ã h ội mang tính to àn c ầu, mục tiêu xoá đói gi ảm ngh èo không ch ỉ có ở n ước ta m à còn nhi ều
n ước trong khu vực v à trên th ế giới.
Nghèo đó i không ch ỉ l àm cho hàng triệu ng ư ời không có c ơ h ội được hưởng thụ th ành qu ả v ă n minh tiến bộ của lo ài người
mà còn gây ra những hậu quả nghi êm trọng về vấn đ ề kinh tế x ã h ội đ ối với sự phát triển, sự t àn phá môi tr ường sinh thái. Vấn
đ ề ngh èo đói không được giải quyết th ì không m ột mục ti êu nào mà c ộng đ ồng quốc tế cũng nh ư qu ốc gia đ ịnh ra nh ư t ăng
trưởng kinh tế, cải thiện đ ời sống, ho à bình ổn đ ịnh, đ ảm bảo các quyền con ng ười được thực hiện. Đặc biệt ở n ước ta, quá tr ình
chuyển sang kinh tế thị tr ường với xuất phát đ i ểm ngh èo nàn và lạc hậu th ì tình tr ạng đói nghèo càng không th ể t ránh kh ỏi. Theo
số liệu thống kê m ới nhất, hiện nay cả n ước có khoảng tr ên 2 triệu hộ ngh èo đói chi ếm 11% tổng số hộ trong cả n ước. Có nhiều
nguyên nhân d ẫn đ ến ngh èo đói nh ưng phải kể h ơn cả l à thiếu vốn v à k ỹ thuật l àm ăn.
Vốn cho ngư ời nghèo đ ang là m ộ t ngh ị sự nóng hổi tr ên di ễn đàn kinh t ế. Giải quyết vốn cho người nghèo đ ể thực hiện
mục tiêu xoá đó i gi ảm ngh èo đ ã được Đảng v à Nhà n ước hết sức quan tâm.
Trong các nă m qua, tuy đ ã có nhiều biện pháp hỗ trợ vốn cho ng ười nghèo nh ưng thực trạng mà đánh g iá v ốn chuyển tải
đ ến người ngh èo ch ưa được là bao nhiêu và hiệu quả sử dụng ch ưa cao. Tuy v ậy nh ìn t ổng thể v à trước những yêu c ầu đ ặt ra th ì
quả thực còn nhiều mặt cần được đ ề cập đ ể đ i đ ến đưa ra nh ững giải pháp c ơ b ản, lâu d ài cho vi ệc hỗ trợ vốn l àm ăn tới ngư ời
nghèo ở nước ta.
106 trang |
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1170 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tạo lập và sử dụng vốn cho người nghèo, thực trạng - Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Đói nghèo là một vấn đề xã hội mang tính toàn cầu, mục tiêu xoá đói giảm nghèo không chỉ có ở nước ta mà còn nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới.
Nghèo đói không chỉ làm cho hàng triệu người không có cơ hội được hưởng thụ thành quả văn minh tiến bộ của loài người
mà còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng về vấn đề kinh tế xã hội đối với sự phát triển, sự tàn phá môi trường sinh thái. Vấn
đề nghèo đói không được giải quyết thì không một mục tiêu nào mà cộng đồng quốc tế cũng như quốc gia định ra như tăng
trưởng kinh tế, cải thiện đời sống, hoà bình ổn định, đảm bảo các quyền con người được thực hiện. Đặc biệt ở nước ta, quá trình
chuyển sang kinh tế thị trường với xuất phát điểm nghèo nàn và lạc hậu thì tình trạng đói nghèo càng không thể tránh khỏi. Theo
số liệu thống kê mới nhất, hiện nay cả nước có khoảng trên 2 triệu hộ nghèo đói chiếm 11% tổng số hộ trong cả nước. Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến nghèo đói nhưng phải kể hơn cả là thiếu vốn và kỹ thuật làm ăn.
Vốn cho người nghèo đang là một nghị sự nóng hổi trên diễn đàn kinh tế. Giải quyết vốn cho người nghèo để thực hiện
mục tiêu xoá đói giảm nghèo đã được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm.
Trong các năm qua, tuy đã có nhiều biện pháp hỗ trợ vốn cho người nghèo nhưng thực trạng mà đánh giá vốn chuyển tải
đến người nghèo chưa được là bao nhiêu và hiệu quả sử dụng chưa cao. Tuy vậy nhìn tổng thể và trước những yêu cầu đặt ra thì
quả thực còn nhiều mặt cần được đề cập để đi đến đưa ra những giải pháp cơ bản, lâu dài cho việc hỗ trợ vốn làm ăn tới người
nghèo ở nước ta.
Sau một thời gian thực tập tại vụ bảo trợ xã hội - Bộ Lao động Thương binh và xã hội, được sự tận tình hướng dẫn của thầy giáo
Phạm Văn Liên và các đồng chí lãnh đạo, tập thể cán bộ vụ bảo trợ xã hội, kho bạc Nhà nước Trung ương, Ngân hàng phục vụ
người nghèo, uỷ ban dân tộc miền núi... với ý thức mong muốn góp phần tích cực vào phát triển kinh tế của đất nước. Em mạnh
dạn lựa chọn đề tài "Tạo lập và sử dụng vốn cho người nghèo, thực trạng - giải pháp". Là vô cùng cần thiết.
1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở phân tích những vấn đề cơ bản: kinh tế thị trường và tính tất yếu nghèo đói trong nền kinh tế, vốn cho người
nghèo và các kênh hỗ trợ vốn cho người nghèo về mặt lý luận cũng như thực tiễn ở nước ta thời gian vừa qua. Trên cơ sở đó đưa
ra các giải pháp về vốn hỗ trợ người nghèo ở nước ta hiện nay.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài lấy vấn đề về vốn và sự vận động của vốn cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo ở nước ta làm đối tượng nghiên cứu.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử có kết hợp với
phương pháp phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh, xử lý hệ thống mô hình hoá, thực chứng và các phương pháp khác của nghiên
cứu khoa học kinh tế.
4. Kết cấu đề tài: ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được trình trong 3 chương.
Chương 1 - Kinh tế thị trường và các kênh hỗ trợ vốn cho người nghèo ở nước ta.
Chương 2 - Thực trạng việc tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ cho người nghèo ở nước ta trong thời gian vừa qua.
Chương 3 - Một số giải pháp tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ người nghèo trong giai đoạn hiện nay.
Chương I Kinh tế thị trường và các kênh hỗ trợ vốn cho người nghèo ở nước ta
1.1. Kinh tế thị trường và những ưu khuyết tật của nó.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá đã phát triển tới trình độ cao, khi mà các quan hệ tiền tệ, giá cả, thị trường trở
thành yếu tố chủ đạo cấu thành cơ chế vận hành của nền kinh tế và kể cả xã hội; ở đây quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá
được vận động tự do bởi thống trị của nguyên tắc tự do cạnh tranh.
Có thể nói kinh tế thị trường là sản phẩm cao cấp của sự tiến hoá lịch sử nhân loại. Quả thật trong lịch sử phát triển kinh
tế, kinh tế thị trường đã phát huy đến mức cao nhất mọi tiềm năng, tiền vốn, công nghệ để sản xuất một cách có hiệu quả cao.
Với tư cách đó, nó chứa đựng nhiều ưu điểm so với các hình thái và tổ chức kinh tế trước nó. Phải kể đến là các ưu điểm sau.
Một là: Kinh tế thị trường với điều kiện tồn tại các chủ thể kinh tế độc lập là tạo khả năng chủ động lựa chọn mô hình sản
xuất kinh doanh khả dĩ, nếu xét tổng quát nền kinh tế lâu dài thì đây là yếu tố nội sinh thúc đẩy hiệu quả kinh tế toàn xã hội và
từng cá nhân tăng lên.
Hai là: Kinh tế thị trường với điều kiện trình độ phân công lao động xã hội tăng lên, theo đó làm tăng trình độ xã hội hoá
nền sản xuất và thúc đẩy hiệu quả sản xuất tăng lên
Ba là: Kinh tế thị trường với mục đích tối thượng là lợi nhuận trong mọi hoạt động kinh tế, theo đó tự nó đã thúc đẩy sản
xuất mạnh mẽ so với các nền kinh tế trước đó. Bởi vì để giải quyết được 3 vấn đề (sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản
xuất cho ai) trong sản xuất của nền kinh tế thị trường, buộc từng chủ thể kinh tế phải tăng cường cải tiến kỹ thuật, công nghệ sản
xuất phải thoả mãn nhu cầu của xã hội...
Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm trên, kinh tế thị trường tuyệt nhiên không phải là một công cụ vạn năng để giải quyết
hữu hiệu tất cả mọi vấn đề của nền kinh tế, mà kinh tế thị trường luôn hàm chứa trong đó không ít khuyết tật, cụ thể là:
Thứ nhất: Kinh tế thị trường khi mà mục đích tối thượng là lợi nhuận, thì các chủ thể kinh tế chỉ quan tâm tới hiệu quả sản
xuất thuần tuý như "người dùng chanh chỉ biết vắt hết nước" thì có thể gây ra một hậu quả nghiêm trọng đối với tiến trình
phương pháp kinh tế, xã hội lâu dài. Điều này đã được minh chứng rõ khi con người khai thác tài nguyên, chặt cây, phá rừng đến
một mức như huỷ diệt thì sự trả giá là không nhỏ tý nào từ môi trường sinh thái cân bằng cho sự phát triển đã trở thành môi
trường đang bị huỷ diệt.
Thứ hai: Sự cạnh tranh tự do vốn có của nền kinh tế thị trường sẽ dẫn đến độc quyền và chính sự độc quyền là nguyên nhân
lũng đoạn nền kinh tế theo hướng thu lợi riêng quá mức trên những tổn hại chung của xã hội. Cạnh tranh tự do (hơn nữa là tự
phát) là nguồn gốc tự nhiên, trực tiếp của tình trạng phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội...
Đối với nước ta nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường đã tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp và cá nhân có tiền
vốn kỹ thuật... làm ăn có hiệu quả, được khuyến khích làm giàu chính đáng, tuy nhiên, cạnh tranh nảy sinh trong cơ chế thị
trường có thể dẫn đến những hậu quả xấu, nếu không có sự điều tiết của Nhà nước, cạnh tranh sẽ dẫn đến tìm mọi mánh khoé làm
ăn theo hướng "mạnh được, yếu thua" thậm chí "cá lớn nuốt cá bé" từ đó dẫn đến kinh doanh trốn thuế, mua bán ép giá, lừa gạt,
triệt tiêu lẫn nhau... đều làm cho thị trường tăng rối loạn. Cạnh tranh như thế, một số giàu lên nhanh chóng, song cũng không ít
người rơi vào làm ăn thua lỗ, phá sản cơ nghiệp làm cho nền kinh tế bị kìm hãm và thất nghiệp, phân hoá thu nhập... và giàu
nghèo cũng có nguồn gốc từ đây.
Như vậy, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường luôn tồn tại hai thái cực: một bên là tích cực đã thúc đẩy kinh tế xã
hội phát triển, một bên là tiêu cực sẽ kìm hãm phát triển kinh tế xã hội và phân hoá đời sống các tâng lớp dân cư. Để thúc đẩy
mặt tích cực, đồng thời hạn chế mặt tiêu cực thì đòi hỏi phải có vai trò điều tiết của Nhà nước.
1.2. Vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế thị trường.
Như trên đã phân tích, về thực chất, cơ chế thị trường tự nó không đủ khả năng điều chỉnh, khắc phục những khuyết tật do
nó gây ra. Đó là lý do cần phải có sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình vận hành của hệ thống thị trường trong mọi giai đoạn
phát triển của nó. Đương nhiên sự can thiệp của Nhà nước phải có một định hướng rõ ràng, hơn nữa được thể hiện trên các chức
năng nhất định. Chúng ta có thể nhìn nhận chức năng của Nhà nước thông qua các vấn đề sau (1)
Một là: Với các công cụ chính sách, Nhà nước thực hiện điều tiết các quá trình kinh tế vĩ mô, tạo lập môi trường vĩ mô cho
phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội. Thuộc hệ công cụ chính sách này như: chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, chính
sách đầu tư, chính sách phát triển nông thôn, chính sách xoá đói giảm nghèo...
Hai là: Nhà nước tạo tập và duy trì một hành lang pháp lý để điều chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực hiện
chức năng này Nhà nước có thể hạn chế những tiêu cực trong hoạt động kinh tế xã hội do cạnh tranh hoặc độc quyền gây ra.
Ba là: Với tư cách là bộ máy quyền lực tập trung để điều chỉnh sự phát triển của xã hội thì Nhà nước không thể không có
chức năng định hướng kinh tế để hướng hoạt động thị trường vào cơ cấu kinh tế và mục tiêu theo hướng đã chọn. Bởi vì chỉ có sự
can thiệp của Nhà nước thông qua các định hướng phát triển và có giải pháp để thực hiện chúng thì nền kinh tế mới có thể phát
triển đạt hiệu quả cao và lâu bền.
Bốn là: Nhà nước có chức năng điều tiết và phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Đây không chỉ là chức năng
kinh tế mà cả chức năng xã hội của Nhà nước. Điều này được lý giải bởi: bên cạnh những vấn đề kinh tế, nền kinh tế thị trường
còn phát sinh nhiều vấn đề xã hội to lớn cần được giải quyết như tình trạng phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng về tài sản, thu
nhập mà còn có kéo theo phân hoá xã hội như học vấn, văn hoá, lối sống, tệ nạn xã hội... nếu không có sự hạn chế bằng điều tiết
của Nhà nước thì nó ngày một gia tăng hơn. Chỉ có Nhà nước, với tư cách là cơ quan quyền lực tối cao của xã hội mới đủ khả
năng điều chỉnh thông qua sử dụng các công cụ chính sách của m ình. Tuy nhiên sự tác động của Nhà nước có hiệu quả đến mức
độ nào còn tuỳ thuộc vào tính hữu hiệu của các công cụ, chính sách đã đề ra. Song trong điều kiện nền kinh tế thị trường thì tác
động của Nhà nước để đạt tới sự bình đẳng và công bằng tuyệt đối là khó có được, nếu không muốn nói đó là "giấc mơ". Kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa hay kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì tình trạng thất nghiệp và đói nghèo vẫn
luôn bám chặt trong cơ thể "xã hội". Tỷ lệ đói nghèo gia tăng hay giảm xuống phụ thuộc nhiều yếu tố, song chỉ có kết quả khi có
bài thuốc đủ liều của Nhà nước.
1.3. Sự tồn tại khách quan của đói nghèo và nguyên nhân dẫn đến nghèo đói.
1.3.1. Sự tồn tại khách quan của nghèo đói trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.
Nghèo đói là một hiện tượng phổ biến của nền kinh tế thị trường và tồn tại khách quan đối với mỗi quốc gia trong quá trình
phát triển. Cho dù phát triển là một thách thức cấp bách trước loài người và nhờ phát triển có thể tạo ra những cơ hội tăng
trưởng, song hiện nay vẫn còn có 1,12tỷ người đang sống ở mức nghèo khổ. Đặc biệt đối với nước ta quá trình chuyển sang nền
kinh tế thị trường với xuất phát điểm nghèo nàn lạc hậu thì tình trạng đói nghèo càng không thể tránh khỏi, đến nay nước ta còn
khoảng trên 2 triệu hộ thuộc diện nghèo đói và chiếm 11% tổng số hộ trong cả nước. So với bình quân thế giới có tỷ lệ nghèo đói
tập trung ở nông thôn trên 70% thì ở nước ta điều đó lại càng cao hơn, chiếm khoảng 90% (3). Mặc dù từ sau Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI đến nay nhất là từ sau khi có nghị quyết 10, hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ đã thúc đẩy sản
xuất nông nghiệp đạt được kết quả cao hơn hẳn những thời kỳ trước đó. Nhờ vậy đời sống người nông dân và kinh tế nông thôn
nước ta dần đ i vào thế ổn định và phát triển. Tuy nhiên thừa nhận và khuyến khích các hộ phát triển sản xuất hàng hoá, tất yếu
dẫn đến phát triển không đồng đều giữa các hộ mà trước đây bị che đậy mờ đi bởi cơ chế tập trung bao cấp. Tình trạng đói nghèo
không chỉ còn là cá biệt mà đã trở thành hiện tượng phổ biến và có xu hướng gia tăng ở nông thôn và các vùng khó khăn. Ngay
cả những vùng đô thị, tình trạng thất nghiệp do thiếu vốn và thiếu điều kiện làm ăn đã và đang làm phát sinh một bộ phận hộ gia
đình nghèo túng. Khoảng chênh lệch thu nhập giữa các phân tầng xã hội ngày một nới rộng. Cùng với công cuộc đổi mới, thực
hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh" do Đảng ta khởi xướng, một bộ phận dân cư vươn lên làm ăn có hiệu quả trong cơ chế thị
trường và trở nên giàu có. Song bên cạnh đó không ít người do nhiều nguyên nhân đã chấp nhận vào ngưỡng nghèo đó. Mục tiêu
của Đảng và Nhà nước ta là liên tục phấn đấu đưa toàn xã hội đến "công bằng văn minh", vì vậy Nhà nước đã và đang tập trung
chỉ đạo thực hiện bằng nhiều biện pháp tác động khác nhau để những vùng nghèo, dân cư có đời sống khó khăn vươn lên đạt tới
sự công bằng nhất định trong xã hội. Song sự tác động của Nhà nước không bao giờ đạt được như mong muốn. Tình trạng nghèo
đói ở nước ta vẫn tồn tại, thậm chí đã trở thành hiện tượng xã hội gay gắt.
Đã đến lúc các quốc gia, hơn nữa toàn thế giới coi giải quyết vấn đề nghèo đói như một chiến lược toàn cầu. Bước vào
thiên niên kỷ mới, đói nghèo vẫn là một trong những thách thức lớn nhất của nhân loại. Hướng tới tương lai, tại khoá họp đặc
biệt của Đại hội đồng Liên hợp quốc về phát triển xã hội, tháng 6/2000 ở Giơnevơ (Thuỵ Sĩ), cộng đồng quốc tế tiếp tục cam kết
thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, phấn đấu đến năm 2015 giảm 1/2 số người nghèo trên thế giới. Hội nghị cũng kêu gọi
cộng đồng quốc tế đẩy mạnh chiến dịch "tấn công vào đói nghèo" và khuyến nghị các quốc gia cần có chiến lược toàn diện về
xoá đói giảm nghèo. Đặc biệt tại hội nghị thiên niên kỷ đầu tháng 9/2000 của Liên Hợp quốc tại Oasinhtơn (Mỹ), một lần nữa
khẳng định chống đói nghèo là một trong những mục tiêu ưu tiên của cộng đồng quốc tế trong thế kỷ XXI. Tại hội nghị này, chủ
tịch Trần Đức Lương, trưởng đoàn đại biểu Việt Nam đã đề nghị lấy thập niên đầu tiên của thế kỳ XXI làm thập niên dành ưu
tiên cho xoá đói giảm nghèo trên phạm vi toàn thế giới và đã được hội nghị đồng tình cao (4)
Như vậy rõ ràng, giải quyết vấn đề nghèo đói ở nước ta không chỉ là đòi hỏi về mặt xã hội (bao gồm chính trị, xã hội, đạo
đức) mà còn đòi hỏi của vấn đề kinh tế. Bởi vì nền kinh tế không thể tăng trưởng một cách bền vững, mỗi khi trong xã hội vẫn
tồn tại lớp người nghèo đói khá đông.
1.3.2. Những nguyên nhân dẫn đến đói nghèo.
Để có những giải pháp xoá đói giảm nghèo hữu hiệu thì trước hết phải tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến nghèo đói. Cũng như
thầy thuốc muốn "bốc thuốc" đúng, trị được bệnh thì trước hết phải "chuẩn đoán bệnh" cho đúng. Nếu xét về nguồn gốc th ì nghèo
đói do nhiều nguyên nhân dẫn đến, có nguyên nhân tác động trực tiếp nhưng cũng có nguyên nhân chỉ là tác nhân gián tiếp gây ra
nghèo đói mà thôi. Trong "chuỗi" nguyên nhân gây ra nghèo đói phải kể đến các nguyên nhân sau:
1.3.2.1. Nguyên nhân do thiếu vốn, thiếu kiến thức và kỹ thuật làm ăn
Vốn, kỹ thuật và kiến thức làm ăn là chìa khoá để người nghèo vượt khỏi ngưỡng nghèo đói. Do không đáp ứng đủ vốn
nhiều người rơi vào thế luẩn quẩn, làm không đủ ăn phải đi làm thuê, vay nặng lãi, bán lúa non mong đảm bảo cuộc sống tối
thiểu hàng ngày nhưng nguy cơ nghèo đói vẫn thường xuyên đe doạ họ. Mặt khác do thiếu kiến thức làm ăn nên họ chậm đổi mới
tư duy làm ăn, bảo thủ với phương pháp sản xuất kém hiệu quả. Thiếu kiến thức và kỹ thuật làm ăn là một lực cản lớn nhất hạn
chế tăng thu nhập và cải thiện đời sống của hộ gia đình nghèo.
1.3.2.2. Nguyên nhân do sinh đẻ nhiều nhưng đất đai canh tác lại ít
Mặc dù đã có cuộc vận động thực hiện chương trình sinh đẻ có kế hoạch nhưng nhìn chung ở vùng nông thôn, miền núi,
vùng dân tộc tỷ lệ sinh đẻ giảm xuống không đáng kể, thậm chí có nơi không giảm và tiếp tục gia tăng. Sinh đẻ nhiều dẫn đến
trong một hộ gia đình người làm thì ít mà người ăn theo thì nhiều do đó thu nhập bình quân thấp, đời sống khó khăn lại càng khó
khăn hơn. Mặt khác diện tích đất canh tác có hạn, hệ số sử dụng đất ở các vùng núi, vùng thiên tai không được nâng lên sản
lượng thu hoạch bình quân có xu hướng giảm xuống thì điều tất yếu sẽ dẫn đến nghèo đói.
1.3.2.3. Nguyên nhân do thiếu việc làm.
Thiếu việc làm bao giờ cũng là yếu tố tiềm ẩn dẫn đến nghèo đói. Đặc biệt đối với các vùng đô thị thì thất nghiệp là đồng
hành với sự nghèo đói. Nói như vậy không có nghĩa là tình trạng thiếu việc làm trở thành căn nguyên nghèo đói không xảy ra ở
nông thôn. Mà thiếu việc làm theo mùa và không đủ công ăn việc làm cho nông dân đang luôn là mối đe doạ một bộ phận hộ gia
đình sản xuất nông nghiệp tụt xuống bờ vực nghèo đói. Bởi vậy tạo ra việc làm mới bằng các nghề phụ ở nông thôn nếu được giải
quyết sẽ làm tăng thu nhập cho dân cư và tất yếu là sẽ giảm được nghèo đói.
Đối với nước ta nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN hay giả
định một định hướng hoàn mỹ hơn nhiều thì khuyết tật của cơ chế thị trường, tự nó không thể mất đi được, thậm chí vẫn thể hiện
rất gay gắt. Ngay trên thị trường sức lao động, nếu như trước đây con người sinh ra hầu như đã được đảm bảo về việc làm, thì
ngày nay muốn có việc làm phải qua cạnh tranh. Những người không có khả năng cạnh tranh do sức khoẻ, tàn tật, già yếu, thiếu
kiến thức... thì chắc chắn sẽ rơi vào tình trạng không có lối thoát và những người "gặt hái" chiến bại trong cạnh tranh cũng phải
chịu đựng cuộc sống bếp bênh, nghèo đói. Sự tồn tại của thất nghiệp, nhất là trong lứa tuổi thanh niên không những là nguyên
nhân gây nghèo đói cho gia đình mà còn có thể gây nhiều tiêu cực cho xã hội.
Tình trạng thiếu việc làm đang là thách thức cho mọi quốc gia trong việc thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. ở nước ta
để thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo do Đảng ta khởi xướng thì giải quyết việc làm đang là vấn đề kinh tế xã hội luôn nằm
trong chương trình nghị sự của chính phủ.
1.3.2.4. Nguyên nhân từ sức khoẻ.
Sức khoẻ yếu và do đó thiếu sức lao động với tình trạng đói nghèo thường có mối quan hệ tỷ lệ thuận. Nghèo nàn đói rách
làm cho sức khoẻ suy giảm, ngược lại sức khoẻ yếu và thiếu sức lao động là nguyên nhân của sự nghèo khổ. Một khi con người
không đủ sức lao động, thường dẫn đến khó khăn trong cuộc sống và tất yếu nghèo đói sẽ diễn ra. Đến lượt nó khi nghèo đói đã
ngự trị thì không thể cải thiện được sức khoẻ tốt hơn. Cái vòng luẩn quẩn giữa sức khoẻ và nghèo đói đòi hỏi phải giải quyết cả
hai vấn đề là: giảm nghèo đói và cải thiện sức khoẻ. Để cải thiện được sức khoẻ của cộng động đặc biệt là đối với người có thu
nhập thấp, gia đình khó khăn thì mạng lưới y tế và Bảo hiểm xã hội có vai trò quyết định.
1.3.2.5. Nguyên nhân do hạ tầng cơ sở nông thôn được cải thiện chậm.
Do hậu quả chiến tranh kéo dài, thiên tai liên tiếp xảy ra ở nhiều vùng nên phần lớn đường xá nông thôn bị tàn phá và
xuống cấp, trong khi đó nguồn kinh phí luôn thiếu vì vậy giao thông nông thôn nhiều nơi vẫn đang trong tình trạng khó khăn,
không có khả năng để tu bổ hoặc làm mới.
Nhiều cơ sở dịch vụ nông nghiệp trước đây do hợp tác xã nông nghiệp đảm nhận cung cấp. Song vị trí hợp tác xác nông
nghiệp ngày nay đã và đang hạn chế khả năng này bởi nguồn vốn tạo lập của hợp tác xã rất khó khăn. Nhìn chung hợp tác nông
nghiệp ngày này là thiếu kinh phí và thường không đủ khả năng cung cấp các dịch vụ nông nghiệp cho dù họ có thu phí. Hạ tầng
cơ sở nông thôn đặc biệt quan trọng với các vùng khí hậu khắc nghiệt, thiên tai thường xuyên xảy ra. Do trạm bơm và kênh
mương thuỷ lợi chưa đáp ứng được, nên một số vùng lụt, mất mùa xảy ra thường xuyên. Vì vậy những vùng này thiếu ăn vẫn
triền miên hết năm này qua năm khác.
1.3.2.6. Nguyên nhân do có người trong gia đình mắc tệ nạn xã hội.
Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực đáng kể th ì những mặt tiêu cực cũng ngày
càng rõ nét. Một trong những mặt tiêu cực đó là số người mắc tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng như nghiện hút, cờ bạc, rượu
chè... bên cạnh đó là tình trạng thương mại hoá tràn lan xâm nhập vào lĩnh vực y tế, văn hoá, giáo dục làm cho đời sống xã hội
có những biểu hiện xuống cấp, đạo đức xa sút, tâm lý hưởng thụ tăng lên... Đó là những thói hư tật xấu luôn tiềm tàng và phát
sinh đối với những người lười nhác lao động, ăn tiêu không có kế hoạch, không có ý thức vươn lên. Vì vậy nếu họ xuất thân
trong gia đình khó khăn nghèo túng thì gia đình đó ngày càng khó khăn hơn, còn nếu họ xuất thân trong gia đình khá giả thì gia
đình họ ngày càng đi xuống. Đó chính là con đường dẫn đến phá sản cơ nghiệp, chấp nhận cảnh bần cùng đói rách. Đau đớn hơn
nó là sự huỷ hoại ghê gớm đạo đức, nhân văn của con người và gây ám ảnh sự sợ hãi cho toàn xã hội.
1.3.2.7. Một số nguyên nhân khác.
Hậu quả của cuộc chiến tranh lâu dài đã làm cho hàng triệu gia đình ít nhiều phải lâm vào cảnh đói nghèo, bệnh tật (chất
độc mầu da cam, bom mìn dưới đất...)
Do ở nơi xa xôi, hẻo lánh, rừng sâu, núi cao, đảo xa thường không có đường ô tô và các phương tiện giao thông thuận tiện
cho việc giao lưu kinh tế, văn hoá, xã hội. Mặt khác do không có hoặc thiếu, chậm thông tin về các hoạt động kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội (Kể cả ở địa phương, khu vực, quốc gia và quốc tế). Trong khi đó, phong tục tập quán và những hủ tục lạc hậu
còn khá nghiêm trọng.
Trình độ dân trí, trình độ văn hoá thấp, số người chưa biết chữ còn nhiều, hạn chế khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật,
cách làm ăn mới.
Các cơ chế và chính sách đối với người nghèo chưa đồng bộ, còn chồng chéo với chính sách xoá đói giảm nghèo, đặc biệt
là chưa thực hiện được chính sách xã hội hoá trong việc thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo.
Từ những nguyên nhân trên cho thấy việc xoá đói giảm nghèo không chỉ tiến hành riêng rẽ một hai giải pháp nào đó mà
phải xử lý đồng thời tất cả các giải pháp trọng tâm, trọng điểm.
1.4. Khái nhiệm và những chuẩn mực về đói nghèo.
Có nhiều quan niệm khác nhau về đói nghèo. Quan niệm chung nhất cho rằng: Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư
không có đủ những nhu cầu cơ bản tối thiểu của cuộc sống như ăn, mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục... Tình trạng đói nghèo ở mỗi
quốc gia đều có sự khác nhau về mức độ và số lượng, thay đổi theo không gian và thời gian. Người nghèo của quốc gia này có
thể có mức sống cao hơn mức sống trung bình của quốc gia khác. Bởi vậy nh ìn nhận và tổ chức thực hiện vấn đề xoá đói giảm
nghèo một cách đầy đủ và có căn cứ cần tham khảo khái niệm, chỉ tiêu, chuẩn mực đánh giá đói nghèo của thế giới.
1.4.1. Khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá nghèo đói của thế giới
1.4.1.1. Khái niệm đói nghèo của thế giới.
Thế giới thường dùng khái niệm nghèo khổ mà không dùng khái niệm đói nghèo như ở Việt Nam và nhận định nghèo khổ
theo 4 khía cạnh là thời gian, không gian, giới và môi trường.
Về thời gian: Phần lớn người nghèo khổ có mức sống dưới mức "chuẩn" trong một thời gian dài. Cũng có người nghèo khổ
"tình thế" chẳng hạn như những người thất nghiệp, những người mới nghèo do suy thoái kinh tế hoặc do thiên tai, tệ nạn xã hội,
rủi ro.
Về không gian: Nghèo đói diễn ra chủ yếu ở nông thôn nơi có 3/4 dân số sinh sống. Tuy nhiên tình trạng đói nghèo ở thành
thị, trước hết là ở các nước đang phát triển cũng có xu hướng gia tăng.
Về giới: Người nghèo là phụ nữ đông hơn nam giới. Nhiều hộ gia đình nghèo nhất do phụ nữ là chủ hộ. Trong các hộ
nghèo đói do đàn ông làm chủ thì phụ nữ khổ hơn nam giới.
Về môi trường: Phần lớn người thuộc diện đói nghèo đều sống ở những vùng sinh thái khắc nghiệt mà ở đó tình trạng đói
nghèo và sự xuống cấp về môi trường đều đang ngày càng trầm trọng thêm.
Từ nhận dạng trên, Liên Hiệp Quốc đưa ra hai khái niệm chính về đói nghèo như sau:
Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng những nhu cầu cơ bản tối thiểu để duy trì cuộc sống.
Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng đầy đủ những nhu cầu cơ bản tối thiểu. Nhu cầu cơ
bản tối thiểu cho cuộc sống là những đảm bảo ở mức tối thiểu về ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục... Ngoài những đảm bảo trên, cũng có
ý kiến cho rằng, nhu cầu tối thiểu bao gồm có quyền được tham gia vào các quyết định của cộng đồng.
1.4.1.2. Chỉ tiêu đánh giá đói nghèo của thế giới.
Ch ỉ tiêu đánh giá sự đói nghèo của một quốc gia bắt đầu từ việc vạch ra giới hạn đói nghèo. Khi đánh giá nước giàu, nước
nghèo, giới hạn đói nghèo được biểu hiện bằng chỉ tiêu chính là thu nhập quốc dân bình quân đầu người (GDP).
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, chỉ căn cứ và chỉ tiêu thu nhập thì chưa đủ để đánh giá. Vì vậy bên cạnh chỉ tiêu này, tổ
chức hội đồng phát triển hải ngoại (ODC) đưa ra chỉ số chất lượng vật chất của cuộc sống (PQLI). Căn cứ để đánh giá chỉ số
PQLI bao gồm 3 chỉ tiêu cơ bản đó là: tuổi thọ, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, tỷ lệ xoá mù chữ.
Gần đây tổ chức UNDP đưa ra thêm chỉ số phát triển con người (HDI) bao gồm 3 chỉ tiêu sau: Tuổi thọ, tình trạng biết chữ
của người lớn, thu nhập.
Căn cứ vào 3 chỉ tiêu này UNDP đánh giá Việt Nam đứng thứ 121/175 nước trên thế giới (Tài liệu công bố năm 1997).
Như vậy chỉ tiêu đánh giá nước giàu, nước nghèo của các quốc gia vẫn căn cứ vào chỉ tiêu thu nhập quốc dân bình quân đầu
người là chính.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_va_gp_tao_lap_va_su_dung_von_cho_ng_ngheo_6773.pdf