Tăng huyết áp là yếu tố nguy
cơ chính của bệnh lý tim mạch và
bệnh thận. Ngược lại, bệnh thận mạn
là nguyên nhân phổ biến nhất của tăng
huyết áp thứ phát và được xem là yếu
tố nguy cơ độc lập của bệnh lý tim
mạch và tử vong. Tỷ lệ gia tăng bệnh
thận mạn được củng cố nhiều hơn kể
từ khi Hiệp Hội Thận Học Thế Giới
ban hành tiêu chuẩn phân độ suy thận
dựa vào mức độ lọc cầu thận (GFR:
Glomerular Filtration Rate) và có hay
không có bằng chứng về tổn thương
thận. Những bệnh nhân bệnh thận
mạn giai đoạn 1 (GFR ≥ 90mL/phút)
và 2 (GFR 60-89 mL/phút) cần có
bằng chứng tổn thương thận (ví dụ:
protein niệu). Giai đoạn 3, 4, và 5
tương ứng với GFR 30-59, 15-29 và
<15 mL/phút thì không cần bằng
chứng của tổn thương thận. Ước tính
khoảng 10-13% người Mỹ trưởng
thành mắc các giai đoạn của bệnh
thận mạn.
11 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 580 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Tăng huyết áp trong bệnh thận mạn: vai trò của bằng chứng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TĂNG HUYẾT ÁP TRONG BỆNH THẬN MẠN:
VAI TRÒ CỦA BẰNG CHỨNG
Ths. Bs. Lê Thị Tiến, Ths. Bs. Đặng Anh Đào
Theo F. M. Tedla et al, International Journal of Hypertension 2012
I. GIỚI THIỆU
Tăng huyết áp là yếu tố nguy
cơ chính của bệnh lý tim mạch và
bệnh thận. Ngược lại, bệnh thận mạn
là nguyên nhân phổ biến nhất của tăng
huyết áp thứ phát và được xem là yếu
tố nguy cơ độc lập của bệnh lý tim
mạch và tử vong. Tỷ lệ gia tăng bệnh
thận mạn được củng cố nhiều hơn kể
từ khi Hiệp Hội Thận Học Thế Giới
ban hành tiêu chuẩn phân độ suy thận
dựa vào mức độ lọc cầu thận (GFR:
Glomerular Filtration Rate) và có hay
không có bằng chứng về tổn thương
thận. Những bệnh nhân bệnh thận
mạn giai đoạn 1 (GFR ≥ 90mL/phút)
và 2 (GFR 60-89 mL/phút) cần có
bằng chứng tổn thương thận (ví dụ:
protein niệu). Giai đoạn 3, 4, và 5
tương ứng với GFR 30-59, 15-29 và
<15 mL/phút thì không cần bằng
chứng của tổn thương thận. Ước tính
khoảng 10-13% người Mỹ trưởng
thành mắc các giai đoạn của bệnh
thận mạn.
Bằng chứng từ số lượng lớn các
nghiên cứu lâm sàng đã chứng minh
rõ hiệu quả của điều trị huyết áp tốt
làm cải thiện đáng kể những hậu quả
của nó. Thật không may, hầu hết
những nghiên cứu đều không dựa trên
bệnh nhân mắc bệnh thận mạn, và
những thử nghiệm này thường tập
trung vào đối tượng bệnh thận mạn
tiên phát và chú ý đến tiến triển của
bệnh thận như là điểm kết thúc lâm
sàng đầu tiên. Trong phần này, chúng
tôi giới thiệu bệnh nguyên và phương
pháp điều trị tăng huyết áp trên bệnh
thận mạn và đánh dấu những bằng
chứng có giá trị.
2. SINH BỆNH HỌC
Guyton đã khẳng định thận
đóng vai trò rất quan trọng trong điều
hòa huyết áp lâu dài, và chứng minh
rằng sự ổn định huyết áp không thể
thiếu vai trò của thận đặc biệt là điều
hòa Natri. Thật vậy, gần như tất cả
các dạng tăng huyết áp ở người và
trên thực nghiệm đã chỉ ra rằng có sự
rối loạn bài tiết Natri do thận ở thời
điểm huyết áp bình thường. Trong
nghiên cứu của Guyton trên số lượng
lớn động vật và tách biệt các thận
được truyền dịch, Guyton đã cho thấy
có sự tăng huyết áp cấp tính dẫn đến
tăng tiết nồng độ Natri một cách
nhanh chóng và sự bình thường hóa
huyết áp. Ngược lại, quá tải Natri chỉ
làm tăng huyết áp khi bài tiết natri ở
thận bị kìm hãm lại bởi sự giảm thiểu
70% khối lượng thận hoặc sự hoạt
động của angiotensin hoặc
aldosterone. Trong bối cảnh này, tăng
huyết áp là hậu quả gián tiếp của tăng
thể tích dịch ngoại bào (ECF), mặc dù
có giảm sức đề kháng ngoại vi. Tại
giai đoạn này, sự gia tăng huyết áp là
gián tiếp của tăng thể tích tuần hoàn;
và điều này ưu thế là tăng huyết áp
tâm thu. Tuy nhiên, theo thời gian thể
tích dịch ngoại bào và cung lượng tim
bình thường trở lại và tăng huyết áp
trong giai đoạn này là do tăng sức đề
kháng ngoại vi, chính là làm tăng
huyết áp tâm trương.
Vai trò của quá tải thể tích
trong tăng huyết áp liên quan ở bệnh
thận mạn được kiểm soát bởi hiệu quả
của siêu lọc hoặc lợi tiểu trong kiểm
soát huyết áp ở bệnh nhân bệnh thận
mạn. Lọc máu 8h trong 3 lần/ tuần
hoặc lọc máu ngắn hạn đã cho thấy
chỉ một số nhỏ bệnh nhân cần điều trị
thuốc tăng huyết để kiểm soát huyết
áp. Quan sát này đã chứng minh sự
cải thiện về tỷ lệ tử vong và phì đại
thất trái ở nhóm lọc máu thường
xuyên và đã được FHN Daily Trial
khẳng định điều này. Tương tự, kiểm
soát tốt thể tích và huyết áp có thể đạt
được trong lọc màng bụng, hoặc sử
dụng lợi tiểu quai ở giai đoạn sớm của
suy thận mạn.
Cân bằng muối dương có ảnh
hưởng lớn nhưng không phải là yếu tố
duy nhất trong sự hình thành tăng
huyết áp ở bệnh thận mạn. Như đã
chú thích ở trên, bằng chứng thực
nghiệm đã chứng minh rõ rằng tăng
huyết áp liên quan đến sự giữ muối và
nước đã được duy trì bằng cách tăng
sự đề kháng ngoại biên. Bảng 1 cho
thấy các yếu tố gây tăng huyết áp
trong bệnh thận mạn cùng với cơ chế
tương ứng.
Bảng 1: Các yếu tố có thể gây tăng huyết áp ở bệnh thận mạn
Yếu tố Cơ chế chủ đạo
-Rối loạn bài tiết sodium -Giãn nở thể tích tuần hoàn
-Hoạt hóa hệ RAS
(renin-angiotensin system)
-Co mạch trực tiếp
Hoạt hóa hệ giao cảm
-Hoạt hóa hệ giao cảm -Co mạch trực tiếp
Tăng tiết renin
-Mất cân bằng của các prostaglandin
hoặc kinin
-Co mạch
-Endothelin -Co mạch trực tiếp
Tổn thương thận
-Giảm nitric oxide -Giảm hiệu quả của yếu tố giãn mạch
Sự hoạt động của hệ thống
Renin-angiotensin (RAS) đã được
chứng minh ở bệnh nhân lọc máu
không kiểm soát tốt huyết áp mặc dù
đã được tối ưu hóa siêu lọc. Điều trị ở
những bệnh nhân này với phẫu thuật
cắt bỏ thận hai bên hoặc ức chế hệ
RAS đã cho thấy kiểm soát được
huyết áp, gợi ý cho thấy suy thận sản
xuất lượng lớn renin. Chính điều này
đã dẫn đến kết quả tăng huyết áp trực
tiếp, sự hoạt hóa của hệ thống RAS
làm tăng huyết áp ở bệnh thận mạn
bằng cách kích thích hệ thần kinh giao
cảm. Trong các nghiên cứu hình ảnh
vi thần kinh, cho thấy bệnh nhân với
bệnh thận mạn tăng hoạt tính hệ thần
kinh giao cảm để đáp ứng lại với ức
chế men chuyển angiotensin (ACE)
hoặc phẫu thuật cắt bỏ 2 thận. Kể cả
khi chức năng thận được bảo tồn, sự
hoạt hóa hệ RAS là yếu tố quan trọng
trong bệnh sinh của tăng huyết áp ở
bệnh lý thận đa nang, và nó được cho
là chèn ép các mạch máu thận do sự
phì đại các nang. Những yếu tố khác
được đưa ra để giải thích về tình trạng
gia tăng sự đề kháng mạch máu trong
bệnh thận mạn bao gồm gia tăng sản
xuất Endothelin và dẫn chất giống
digitalis nội sinh; giảm sản xuất yếu
tố giãn mạch như nitric oxide và các
kinin; và sự mất cân bằng giữa yếu tố
giãn mạch và prostaglandin co mạch.
Trong khi vai trò của stress oxy hóa
trong tăng huyết áp và bệnh thận mạn
chưa được rõ ràng, thì nó thường là sự
phối hợp của những rối loạn trên và
góp phần vào vai trò bệnh sinh tăng
huyết áp.
Chức năng mảnh ghép là yếu tố
tiên lượng quan trọng của tăng huyết
áp sau khi ghép thận. Thêm vào đó,
ức chế calcineurin (tacrolimus và
cyclosporine) và glucocorticoids cũng
góp vai trò vào cơ chế bệnh sinh của
tăng huyết áp ở người được ghép
thận. Ức chế calcineurin có vai trò
gây co mạch, nhưng cơ chế chính xác
của nó thì chưa được biết đến nhiều.
Sự rối loạn về sinh học của các chất
hoạt mạch như đã nêu trên và hiệu
quả trên chuyển hóa calci của cơ trơn
đã được mô tả. Hẹp động mạch thận
ghép, hoặc động mạch đầu gần với
đoạn nối động mạch, điều này ít xảy
ra nhưng vẫn có thể là nguyên nhân
ngược lại gây tăng huyết áp sau khi
ghép thận.
4. ĐIỀU TRỊ TĂNG HUYẾT ÁP TRONG BỆNH THẬN MẠN
Bệnh nhân mắc bệnh thận mạn
thường dễ tử vong phần lớn là do
bệnh lý tim mạch, hơn là do lọc máu.
Một khi đã tiến triển đến bệnh thận
giai đoạn cuối (ESRD), bệnh nhân lọc
máu tăng tỷ lệ tử vong lên 8 lần so với
dân số cùng độ tuổi, trong đó nguyên
nhân tử vong do tim mạch chiếm trên
50%. Chính vì vậy, điều quan trọng là
kiểm soát các yếu tố nguy cơ có thể
thay đổi ở nhóm nguy cơ cao.
4.1. MỤC TIÊU HUYẾT ÁP
Hướng dẫn quốc gia mới nhất
từ JNC về dự phòng, phát hiện, đánh
giá và điều trị tăng huyết áp VII (JNC
VII) và K/DOQI (Kidney Disease
Outcomes Quality Initiative) khuyến
cáo huyết áp <130/80 mmHg là mục
tiêu của bệnh thận mạn. Có nhiều
bằng chứng xác định rằng đạt được
mục tiêu huyết áp này làm chậm trễ
sự tiến triển bệnh thận ở bệnh nhân
suy thận mạn và protein niệu. Tuy
nhiên, câu hỏi được đặt ra là liệu mục
tiêu huyết áp này có thể áp dụng cho
tất cả bệnh nhân mắc bệnh thận mạn
hay không. Đầu tiên, ở những bệnh
nhân tiểu protein chưa đạt mức ý
nghĩa, không có dữ liệu nào chứng
minh kiểm soát huyết áp theo mức
khuyến cáo tốt hơn các bệnh nhân
tăng huyết áp không có bệnh thận
mạn (<140/90). Thứ hai, sự an toàn
của điều trị huyết áp tích cực ở bệnh
nhân trên 70 tuổi chưa được thiết lập,
dù những đối tượng này đã có nhiều
thử nghiệm lâm sàng tìm ra hiệu quả
của kiểm soát huyết áp. Thứ ba, phân
tích thứ yếu của nghiên cứu tiến cứu
cho thấy những bệnh nhân mắc bệnh
thận mạn có nguy cơ cao đột quỵ khi
huyết áp tâm thu dưới thấp hơn
120mmHg, hoặc nhồi máu cơ tim khi
huyết áp tâm trương dưới 80mmHg.
Hiệu quả của điều trị tăng huyết áp
tâm thu đơn thuần ở bệnh nhân suy
thận mạn chưa được thử nghiệm lâm
sàng. Tăng huyết áp tâm thu ở chương
trình dành cho người lớn tuổi, bao
gồm bệnh nhân suy chức năng thận,
đã cho thấy điều trị tăng huyết áp tâm
thu giảm tỉ lệ mắc bệnh và tỉ lệ tử
vong; tuy nhiên, điều quan trọng là
huyết áp tâm thu trung bình đạt được
khi điều trị tích cực là 143mmHg. Kể
từ khi bệnh nhân suy thận mạn có
khuynh hướng già hơn và gia tăng các
yếu tố nguy cơ tim mạch, vì vậy điều
trị cá nhân hóa là thích hợp ở những
bệnh nhân này, đặc biệt những bệnh
nhân không có protein niệu ở mức ý
nghĩa.
Hầu hết những thử nghiệm lâm
sàng đã cho thấy sự kiểm soát tốt
huyết áp ở những bệnh nhân suy thận
mạn trên bệnh thận tiến triển như là
những biến cố chính, và phân tầng
quần thể nghiên cứu bởi mức độ
protein niệu hoặc nguyên nhân của
bệnh thận. Trong sự phân tầng này,
các bằng chứng của hiệu quả điều trị
huyết áp sẽ được bàn luận độc lập
dành cho bệnh thận đái tháo đường,
những bệnh lý thận khác có protein
niệu, và bệnh lý thận không có protein
niệu.
Bảng 2: Tóm tắt điều trị tăng huyết áp ở bệnh thận mạn
Rối loạn
Mục tiêu huyết
áp (mmHg)
Nhóm thuốc khuyến cáo
Bệnh thận đái tháo đường <130/80 ACEI/ARB
Bệnh thận có protein niệu không do
đái tháo đường
<130/80 ACEI/ARB
Bệnh thận không có protein niệu <140/90 Bất kì nhóm thuốc nào
Ghép thận Không rõ Bất kì nhóm thuốc nào,
cẩn trọng với verapamil
hoặc diltiazem
4.2. ĐIỀU TRỊ TĂNG HUYẾT ÁP TRONG BỆNH THẬN ĐÁI THÁO
ĐƯỜNG
Điều trị tăng huyết áp ở bệnh
thận đái tháo đường thường bao gồm
ức chế men chuyển (ACEI:
angiotensin-converting-enzyme
inhibitor) hoặc ức chế thụ thể
angiotensin (ARBs: angiotensin
receptor blockers) để đạt được mục
tiêu huyết áp nhỏ hơn 130/80mmHg.
Hầu hết, nhưng không phải là tất cả,
những thử nghiệm lâm sàng đã cho
thấy sự tác động của nhóm thuốc hạ
áp đặc biệt trên sự tiến triển xấu của
protein niệu hoặc chức năng thận ở
bệnh nhân bị bệnh thận đái tháo
đường đã cho thấy ACEI hoặc ARBs
là nhóm thuốc bảo vệ thận. Ở những
bệnh nhân đái tháo đường thể 1, điều
trị captopril làm chậm tiến triển
microalbumin niệu (albumin niệu
hàng ngày 30-300mg) đến protein
niệu đại thể, và từ bệnh lý cầu thận
diễn tiến đến bệnh thận giai đoạn
cuối. Hai thử nghiệm lâm sàng lớn đã
cho thấy rằng việc sử dụng irbesartan
và losartan (thuộc nhóm ARBs) làm
chậm tiến triển bệnh thận ở những
bệnh nhân đái tháo đường thể 2 có
bệnh thận đái tháo đường.
Hiệu quả đạt được ở mức
khuyến cáo huyết áp mục tiêu <
130/80 mmHg đã không được thử
nghiệm lâm sàng trực tiếp ở những
đối tượng mắc bệnh thận đái tháo
đường. Phân tích thứ cấp của những
thử nghiệm đã có, tuy nhiên, khuyến
cáo rằng nếu duy trì mức huyết áp
thấp hơn mức khuyến cáo trên có thể
làm xấu đi kết cục của bệnh lý thận và
tim mạch. Nghiên Cứu Đái Tháo
Đường Tiến Cứu của Vương Quốc
Anh (UKPDS) đã so sánh hiệu quả
của mức huyết áp thấp hơn mức
150/85 và 180/85mmHg ở bệnh nhân
đái tháo đường thể 2 có tăng huyết áp.
Loại trừ những bệnh nhân có bệnh lý
võng mạc đái tháo đường cần điều trị
lazer và có nồng độ creatinin huyết
thanh > 2mg/dl; huyết áp trung bình
đạt được ở nhóm kiểm soát chặt chẽ
và nhóm kiểm soát thông thường là
144/82 và 152/87 mmHg, và hơn 80%
bệnh nhân có protein niệu < 50mg/dl.
Ibersartan trong thử nghiệm
bệnh cầu thận đái tháo đường (IDNT)
đánh giá hiệu quả bảo vệ thận khi sử
dụng irbesartan, amlodipine, hoặc giả
dược. Cả 3 nhóm này đều có protein
niệu trung bình là 1.9 g, được điều trị
irbesartan, amlodipine, và giả dược có
mức huyết áp lần lược là 140/77,
141/77 và 144/80mmHg. Phân tích
thứ cấp của IDNT cho thấy sự tiến
triển huyết áp tâm thu xuống thấp
mức 120mmHg có khả năng chống lại
các biến cố tim mạch và chống lại sự
suy giảm chức năng thận, nhưng giảm
huyết áp nhiều hơn có thể là có hại;
tương tự xu hướng huyết áp tâm
trương 85mmHg có thể kiểm soát
được các biến cố tim mạch nhưng
không tốt cho thận.
Như những tóm tắt đã nêu ở
trên, cần thận trọng khi xem xét các
dữ liệu về mức huyết áp khuyến cáo
dưới 130/80 mmHg ở những bệnh
nhân mắc bệnh thận đái tháo đường;
hầu hết những nghiên cứu không đạt
được mức kiểm soát huyết áp này.
Điều này thật sự đã được làm sáng tỏ
dựa vào kết quả nghiên cứu của Hành
Động Để Kiểm Soát Nguy cơ Tim
Mạch ở Bệnh Nhân Đái Tháo Đường
Có Tăng Huyết Áp (ACCORD BP).
Nghiên cứu này dựa trên bệnh nhân
đái tháo đường có bệnh lý tim mạch
phối hợp hoặc có ít nhất 2 yếu tố nguy
cơ bệnh lý tim mạch đi kèm, nhằm
đánh giá sự tác động của hạ huyết áp
tâm thu xuống thấp dưới mức 120
hoặc 140mmHg. Những người tham
gia nghiên cứu này có mức creatinine
huyết thanh trung bình là 0.9mg/dL và
protein niệu không có hoặc ở mức
thấp. Mặc dù huyết áp tâm thu đạt
được là 119 và 135 mmHg ở nhóm
kiểm soát tích cực và nhóm thông
thường, không có sự khác biệt giữa
điểm kết thúc khởi đầu (không có đột
tử, không tử vong do nhồi máu cơ
tim, hoặc chết do biến cố tim mạch)
hoặc tất cả nguyên nhân tử vong giữa
2 nhóm này. Nhóm kiểm soát huyết
áp tích cực có nguy cơ đột quỵ thấp
hơn nhưng tỷ lệ cao các tác dụng phụ
nghiêm trọng.
4.3. ĐIỀU TRỊ BỆNH CẦU THẬN CÓ PROTEIN NIỆU KHÔNG DO ĐÁI
THÁO ĐƯỜNG
Bằng chứng từ những thử
nghiệm lâm sàng có kiểm soát cho
thấy rằng kiểm soát huyết áp làm hạn
chế sự tiến triển của bệnh thận có
protein niệu không do đái tháo đường.
Nghiên cứu MDRD, khuyến cáo mức
độ protein niệu xác định hiệu quả từ
kiểm soát huyết áp chặt chẽ. Mặc dù
không có hiệu quả cộng thêm nào từ
việc sử dụng ACEI được tìm thấy
trong nghiên cứu MDRD, những thử
nghiệm ngẫu nhiên sau này đã ủng hộ
việc sử dụng ACEI để bảo vệ thận,
đặc biệt là những bệnh nhân có
protein niệu ở mức ý nghĩa (protein
niệu bài tiết hàng ngày từ 1g trở lên).
Kể từ khi những thử nghiệm không
đạt được mức huyết áp < 130/80,
bằng chứng có giá trị nhất để đạt được
mức huyết áp mục tiêu dưới ngưỡng
này đã đạt được từ những phân tích
các phân nhóm của nghiên cứu
MDRD. Dữ liệu về việc sử dụng
ARBs ở bệnh nhân mắc bệnh thận
không do đái tháo đường có protein
niệu vẫn còn bị giới hạn, nhưng ARBs
thường được tin rằng có tác dụng
tương đương ACEI. Không giống như
hiệu quả bảo vệ thận, những nghiên
cứu này không cung cấp đầy đủ dữ
liệu trên việc tác động của kiểm soát
huyết áp trên biến cố tim mạch.
4.4. ĐIỀU TRỊ BỆNH CẦU THẬN KHÔNG CÓ PROTEIN NIỆU
Lợi ích của việc kiểm soát
huyết áp chặt chẽ < 140/90 mmHg,
hoặc sử dụng ACEI hoặc ARBs ở
những bệnh nhân mắc bệnh cầu thận
không có protein niệu đã không được
thiết lập. Trong nghiên cứu người Mỹ
gốc Phi về Bệnh Thận và Tăng Huyết
Áp (AASK), bệnh nhân đã được phân
nhóm ngẫu nhiên để điều trị ramipril,
amlodipine, hoặc metoprolol và làm
giảm và mục tiêu huyết áp thông
thường. Sử dụng amlodipine đã kết
thúc sớm bởi vì phân tích tạm thời
cho thấy kết cục xấu hơn những thuốc
khác với ramipril. Ước lượng khoảng
2/3 người tham gia nghiên cứu có
mức tỷ lệ protein niệu/creatinine nhỏ
hơn 0.22 (tương đương 300 mg/ngày)
so với mức cơ bản. Mức huyết áp đạt
được ở nhóm huyết áp giảm và nhóm
huyết áp thông thường là 128/78 và
141/85 mmHg. Không có sự khác biệt
về tỷ lệ tiến triển của bệnh thận giữa 2
nhóm, nhưng ramipril có hiệu quả
hơn amlodipine hay metoprolol trong
làm giảm tiến triển của bệnh thận,
bệnh thận giai đoạn cuối, hoặc tử
vong. Không có hiệu quả nào từ việc
kiểm soát huyết áp tích cực hoặc sử
dụng ACEI được tìm thấy ở những
bệnh nhân mắc bệnh thận đa nang.
4.5. LIỆU PHÁP PHỐI HỢP
Hầu hết những bệnh nhân mắc
bệnh thận mạn đòi hỏi nhiều loại hạ
áp phối hợp để điều trị tăng huyết áp.
Lựa chọn thuốc huyết áp có cơ chế
hoạt động bổ sung hoặc dựa vào các
tình trạng bệnh lý phối hợp để tối ưu
hóa liệu pháp điều trị và hạn chế tối
thiểu tác dụng phụ. Lợi tiểu quai
thường rất cần thiết để điều trị quá tải
thể tích tuần hoàn hoặc tăng kali máu.
Sự tác động kép của ACEI và ARBs
làm giảm protein niệu ở mức đáng kể
hơn là sử dụng đơn thuần một nhóm,
nhưng không được khuyến cáo để bảo
vệ chức năng thận hay cải thiện biến
cố tim mạch. Trong bối cảnh của gia
tăng nguy cơ các biến cố bất lợi được
quan sát trong Thử Nghiệm Kết Cục
Toàn Cầu Về Việc Sử Dụng
Telmisartan Đơn Độc và Kết Hợp Với
Ramipril (ONTARGET). Trong thử
nghiệm lớn này những bệnh nhân có
nguy cơ cao về bệnh lý mạch máu, có
nồng độ creatinin huyết thanh được
ước tính khoảng 1.1mg/dl, 1/3 người
tham gia nghiên cứu có huyết áp bình
thường, và chỉ 13% bệnh nhân có
microalbumin niệu, tác động ức chế
kép có liên quan đến chức năng thận
xấu đi và tăng kali máu, và không có
sự khác biệt có ý nghĩa về biến cố tim
mạch và tỷ lệ tử vong. Sự phối hợp
giữa kháng aldosterone với ức chế hệ
Renin-Angiotensine (RA), mặc dù có
hiệu quả cộng thêm là ức chế protein
niệu, nhưng thiếu bằng chứng lâm
sàng về tính hiệu quả và gia tăng nguy
cơ tác dụng phụ.
Vai trò và tính an toàn của sự
phối hợp ức chế của hệ RA bao gồm
ức chế trực tiếp renin ở bệnh nhân
mắc bệnh thận mạn chưa được làm
sáng tỏ hoàn toàn. Thử nghiệm
Aliskiren về sự Tiến Triển Protein
Niệu ở Bệnh Nhân Đái Tháo Đường
(AVOID) nghiên cứu trên nhóm bệnh
nhân có GFR > 30ml/phút/1.73m2 và
không có bằng chứng tăng kali máu;
bổ sung aliskiren vào losartan đã được
dung nạp tốt và làm giảm albumin
niệu.
5. TÓM TẮT
Điều trị tăng huyết áp ở bệnh
nhân mắc bệnh thận mạn cần phải
xem xét nguyên nhân nền của bệnh lý
thận. Những bệnh nhân có bệnh thận
đái tháo đường hoặc bệnh thận không
do đái tháo đường có protein niệu đạt
được hiệu quả khi điều trị ACEI hoặc
ARBs để đạt được huyết áp mục tiêu
< 130/80mmHg, nếu như có dung
nạp. Mức huyết áp <140/90 mmHg
được chấp nhận cho những bệnh nhân
mắc bệnh thận mạn khác. Ức chế kép
hay 3 của hệ RA cần được tránh sử
dụng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tha_b_nh_th_n_m_n_746.pdf