Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát  393
TẦN SUẤT VÀ YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA BIẾN CHỨNG  
HÔ HẤP SỚM SAU PHẪU THUẬT UNG THƯ ĐƯỜNG TIÊU HOÁ 
Lê Công Duy*, Đào Duy Phương*, Lê Hữu Thiện Biên** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Biến chứng hô hấp (BCHH) sau phẫu thuật là một vấn đề đáng quan tâm trên bệnh nhân hậu 
phẫu. Phẫu thuật ung thư đường tiêu hoá  là một phẫu  thuật  lớn,  thực hiện  trên bệnh nhân  lớn  tuổi có kèm 
những bệnh lý nội khoa có thể làm tăng nguy cơ bị BCHH sau phẫu thuật. 
Mục tiêu: Xác định tần suất và yếu tố nguy cơ của BCHH sau phẫu thuật trên các bệnh nhân phẫu thuật 
chương trình trình ung thư đường tiêu hoá. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả phân tích trên những bệnh nhân 
hậu phẫu ung thư đường tiêu hóa tại bệnh viện Đại học Y dược. 
Kết quả: Trong năm 2012, có 426 bệnh nhân được phẫu thuật chương trình do ung thư dạ dày, đại‐trực 
tràng. BCHH sau phẫu thuật xảy ra trên 35 bệnh nhân (8,2%), trong đó gồm viêm phổi 72,5%, xẹp phổi 17,5% 
và suy hô hấp 10%. BCHH làm tăng thời gian điều trị 7,3 ± 1,9 lên 8,9 ± 3,2 ngày (p < 0,001). Các yếu tố nguy 
cơ của BCHH sau phẫu thuật gồm: tiền căn COPD (OR 23,4; p < 0,001), tiền căn đái tháo đường (OR 6,35; p 
0,002) và phẫu thuật mở (OR 3,5; p 0,003). 
Kết luận: BCHH khá thường gặp ở những bệnh nhân phẫu thuật chương trình ung thư đường tiêu hoá. 
Các yếu tố nguy cơ có thể điều chỉnh cần được quan tâm trong chuẩn bị bệnh nhân trước phẫu thuật và lựa chọn 
phương pháp phẫu thuật. 
Từ khóa: biến chứng hô hấp, ung thư đường tiêu hoá 
ABSTRACT 
INCIDENCE AND RISK FACTORS FOR EARLY POSTOPERATIVE PULMONARY 
COMPLICATIONS AFTER GASTROINTESTINAL CANCER SURGERY 
Le Cong Duy, Dao Duy Phuong, Le Huu Thien Bien  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 393 – 399  
Background:  Postoperative  pulmonary  complications  (PPCs)  is  a  serious  issue  in  surgical  patients. 
Surgical  treatment  for  gastrointestinal  cancer  are  major  procedures,  performed  in  aged  patients  with 
comorbidities can increase PPCs. 
Objectives: Identify incidence and risk factos for early postoperative pulmonary complications in patients 
performed elective surgical for gastrointestinal cancer.  
Method: Cross‐sectional  study  on  the  postoperative  patients with  gastrointestinal  cancer  at University 
medical center. 
Results: In 2012, 426 patients performed elective surgery for gastric and colorectal cancer. PPCs occurred 
in 35 patients (8.2%), including pneumonia 72.5%, atelectasis 17.5% and postoperative respiratory failure 10%. 
PPCs  increased hospital  length of stay (LOS) after surgery  from 7.3 ± 1.9 to 8.9 ± 3.2 days (p < 0.001). Risk 
Khoa Hồi Sức Cấp Cứu, bệnh viện Đại Học Y Dược  
** Bộ Môn Hồi Sức Cấp Cứu Chống Độc, Khoa Y, Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: ThS. Lê Hữu Thiện Biên  ĐT: 0903 644 931 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 394
factors for PPCs were history of COPD (OR 23.4; p < 0.001), history of diabetes (OR 6.35; p 0.002) and open 
surgery (OR 3.5; p 0.003).  
Conclusion:  PPCs  occurred  rather  often  after  elective  surgery  for  gastrointestinal  cancer.  Identify 
modifiable risk factors may improve pre‐op treatment of select appropriate surgical approach.  
Keywords: pulmonary complications, gastrointestinal cancer 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Biến  chứng  hô  hấp  (BCHH)  là một  biến 
chứng nguy hiểm  sau phẫu  thuật  đường  tiêu 
hoá. Mặc  dù  ít  được  quan  tâm  như  các  biến 
chứng  tim mạch, nhưng BCHH  thậm  chí  còn 
thường gặp hơn biến chứng tim mạch(5) và làm 
gia  tăng đáng kể  thời gian điều  trị và  tỷ  lệ  tử 
vong(5).  
Tần suất BCHH sau phẫu thuật thay đổi tuỳ 
theo  loại phẫu  thuật và  tiêu  chuẩn  chẩn  đoán. 
Canet  ghi  nhận  BCHH  sau  phẫu  thuật  xảy  ra 
trong  5%  trường  hợp  phẫu  thuật  (không  kể 
phẫu  thuật  sản  khoa)(3). Trong  đó  số  đó, phẫu 
thuật tim‐lồng ngực và phẫu thuật cấp cứu có tỷ 
lệ BCHH sau phẫu thuật cao nhất. Đối với phẫu 
thuật đường tiêu hoá, BCHH xảy ra vào khoảng 
7,2‐22,5%(2,3). Sự khác biệt  rất nhiều về  tần  suất 
BCHH sau phẫu thuật một phần do tiêu chuẩn 
chẩn đoán chưa được  thống nhất. Nếu chỉ  tính 
đặt  lại  nội  khí  quản  hoặc  suy  suy  hô  hấp  sau 
phẫu  thuật  thì  tần  suất BCHH  sau phẫu  thuật 
chỉ vào khoảng 1‐2%(7,15). Trong khi đó, nếu tính 
cả xẹp phổi, viêm phổi  thì  tần  suất BCHH  sau 
phẫu thuật tăng lên rất nhiều(2).  
Trên  các  bệnh  nhân  phẫu  thuật  khâu  lỗ 
thủng dạ dày‐tá tràng, các tác giả trong nước ghi 
nhận  biến  chứng  viêm  phổi,  suy  hô  hấp  sau 
phẫu  thuật  là 0‐0,9%(9,13). Tuy nhiên  các nghiên 
cứu này không ghi nhận  tất  cả  các BCHH  sau 
phẫu  thuật cũng như không nêu  rõ  tiêu chuẩn 
chẩn đoán các biến chứng này.  
Ung thư đường tiêu hoá là một bệnh ngày 
càng  thường gặp, phẫu  thuật ung  thư đường 
tiêu hoá là những phẫu thuật phức tạp, do đó 
kỳ vọng của phẫu thuật viên về một giai đoạn 
hậu  phẫu  không  biến  chứng  là  rất  cao.  Tuy 
nhiên đa số bệnh nhân đều có bệnh nội khoa 
đi kèm và đồng thời gần đây việc áp dụng thủ 
thuật  nạo  hạch  làm  kéo  dài  thời  gian  phẫu 
thuật  là  những  yếu  tố  làm  tăng  nguy  cơ  bị 
BCHH sau phẫu thuật(12).  
Một  số  yếu  tố  liên  quan  đến  phẫu  thuật 
hoặc  liên quan đến bệnh nhân  làm  tăng nguy 
cơ  bị  BCHH  sau  phẫu  thuật(3,11).  Tuy  nhiên 
chưa có nghiên cứu nào tại Việt Nam đánh giá 
tần suất biến chứng này trên bệnh nhân phẫu 
thuật ung  thư đường  tiêu hoá. Ngoài  ra, việc 
áp dụng kỹ thuật phẫu thuật nội soi ngày càng 
rộng rãi trong phẫu thuật ung thư đường tiêu 
hoá tại nước ta cũng có thể  làm thay đổi tỷ  lệ 
BCHH sau phẫu thuật.  
Vì vậy chúng  tôi  tiến hành nghiên cứu này 
nhằm  đánh  giá  tần  suất  các  BCHH  sau  phẫu 
thuật trên bệnh nhân phẫu thuật ung thư đường 
tiêu hoá đồng  thời  tìm các yếu  tố nguy cơ của 
các biến chứng này.  
Mục tiêu nghiên cứu  
Mục tiêu chung 
Xác  định  tần  suất  chung  của  BCHH  sau 
phẫu  thuật ung  thư đường  tiêu hoá  trong giai 
đoạn 5 ngày đầu sau phẫu thuật.  
Mục tiêu cụ thể 
Xác định tần suất của các biến chứng suy hô 
hấp, xẹp phổi, viêm phổi sau phẫu thuật. 
So  sánh  thời gian  điều  trị và  tỷ  lệ  tử vong 
của nhóm bệnh nhân có và không có BCHH sau 
phẫu thuật.  
Xác định các yếu tố nguy cơ của BCHH sau 
phẫu thuật. 
Phương pháp nghiên cứu 
Hồi cứu mô tả cắt ngang. 
Cỡ mẫu được tính theo công thức: 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát  395
Trong đó p = 0.072  theo Canet,  tính ra n ≥ 
199. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Bệnh  nhân  phẫu  thuật  ung  thư dạ dày  và 
ung  thư đại‐trực  tràng  tại bệnh viện Đại học Y 
dược TP.HCM trong năm 2012. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
(1) bệnh nhân được phẫu  thuật  lại vì biến 
chứng của lần phẫu thuật trước, (2) bệnh nhân 
được  giúp  thở  xâm  lấn  hoặc  không  xâm  lấn 
trong vòng 24 giờ  trước phẫu  thuật,  (3) phẫu 
thuật cấp cứu. 
Các  số  liệu  của bệnh nhân  được hồi  cứu 
trong  5  ngày  đầu  tiên  sau  phẫu  thuật  để  ghi 
nhận các biến chứng gồm: 
- Suy hô hấp sau phẫu thuật do bất kỳ nguyên 
nhân nào nếu bệnh nhân bị  đặt  lại nội khí 
quản hoặc thở máy xâm lấn/không xâm  lấn 
hơn 48 giờ. 
- Viêm phổi được chẩn đoán  theo  tiêu chuẩn 
của Trung  tâm  kiểm  soát  bệnh  tật Hoa  kỳ 
khi có các triệu chứng: sốt > 38o3 C, bạch cầu 
máu  >  10.000/μL, X  quang  có  thâm  nhiễm 
mới xuất hiện. Hình  ảnh Xquang do bác  sĩ 
chuyên khoa chẩn đoán hình ảnh đọc. 
- Xẹp phổi khi có các tiêu chuẩn: (1) hình mờ 
đồng nhất  trên X quang phổi kèm kéo  lệch 
khí  quản/trung  thất,  (2)  cần  thở  oxy  qua 
mask hoặc thông khí hỗ trợ trên 48 giờ. Các 
yếu tố nguy cơ được nghiên cứu gồm. 
Các biến số khác như: giới  tính,  tuổi, dhỉ 
số khối cơ thể (BMI), điểm ASA, tiền căn COPD, 
phân  suất  tống  máu  (EF:  ejection  fraction), 
Hemoglobin  trước  phẫu  thuật,  albumine  trước 
phẫu  thuật,  creatinine,  thời  gian  phẫu  thuật, 
phương  pháp  phẫu  thuật  nội  soi  hoặc  phẫu 
thuật hở,  truyền máu và số đơn vị máu  truyền 
trong phẫu  thuật, giảm đau sau phẫu  thuật (có 
hoặc không có dùng opioid toàn thân) được ghi 
nhận theo theo hồ sơ bệnh án. 
Các biến liên tục (tuổi, điểm ASA, thời gian 
phẫu  thuật, hemoglobin,  thời gian điều  trị) sẽ 
được  so  sánh bằng phép kiểm  t Student giữa 
nhóm  bệnh  nhân  có  và  không  có  BCHH  sau 
phẫu  thuật.  Các  biến  định  tính  (phẫu  thuật 
mở/nội soi,  tiền căn COPD,  truyền máu  trong 
phẫu  thuật,  tỷ  lệ  tử  vong)  sẽ  được  so  sánh 
bằng phép kiểm Chi bình phương giữa nhóm 
bệnh  nhân  có  và  không  có  BCHH  sau  phẫu 
thuật. Các yếu tố nguy cơ sau đó sẽ được phân 
tính đơn và đa biến để  tìm ra yếu  tố nguy cơ 
thật  sự  có ý nghĩa. Tuỳ  theo  tỷ  số  chênh  của 
từng yếu tố nguy cơ, thiết lập thang điểm tiên 
đoán nguy cơ BCHH sau phẫu thuật. p < 0,05 
được xem như có ý nghĩa thống kê. 
KẾT QUẢ 
Trong  năm  2012  có  500  bệnh  nhân  được 
phẫu  thuật ung  thư  đường  tiêu hoá  tại  bệnh 
viện Đại học Y dược. Trong đó 74 bệnh nhân bị 
loại ra khỏi nghiên cứu vì:  (1) phẫu  thuật cấp 
cứu 55  trường hợp,  (2) phẫu  thuật  lại vì biến 
chứng của lần phẫu thuật trước 15 trường hợp, 
(3) giúp thở trong vòng 24 giờ trước khi phẫu 
thuật 4 trường hợp. 
Số bệnh nhân còn  lại trong nghiên cứu  là 
426 người với tuổi trung bình 56,84 ±13,3 với gần 
60% bệnh nhân  là nam giới. Phẫu  thuật cắt dạ 
dày gồm 185 trường hợp chiếm tỷ  lệ 43,4%. Đa 
số bệnh nhân có điểm ASA 2, chứng tỏ có bệnh 
nội khoa kèm theo. Thời gian phẫu thuật trung 
bình  là 3,5 giờ và  thời gian nằm viện sau phẫu 
thuật trung bình là 7 ngày (bảng 1). 
BCHH  sau  phẫu  thuật  xảy  ra  trên  là  35 
bệnh nhân (chiếm tỷ lệ 8,2%), trong đó 31 bệnh 
nhân có 1 BCHH, 3 bệnh nhân có 2 BCHH và 1 
bệnh  nhân  có  3 BCHH. Trong  các  BCHH  thì 
thường gặp nhất  là viêm phổi sau phẫu  thuật 
(72,5%), sau đó  là xep phổi  (17,5%) và suy hô 
hấp (10%).  
Phân  tích  đơn biến  cho  thấy nhóm bệnh 
nhân có BCHH sau phẫu thuật có tuồi cao hơn 
và có tiền căn CODP, đái tháo đường nhiều hơn. 
Tuy nhiên không có sự khác nhau về chỉ số khối 
cơ  thể,  phân  suất  tống máu,  tình  trạng  thiếu 
máu,  suy dinh dưỡng và  suy  thận  trước phẫu 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 396
thuật  giữa  nhóm  bệnh  nhân  có  và  không  có 
BCHH. Ngoài  ra  tỷ  lệ  BCHH  sau  phẫu  thuật 
cũng không khác nhau giữa  các bệnh nhân  có 
điềm ASA 3 và các bệnh nhân có điểm ASA thấp 
hơn. Các yếu  tố nguy cơ  trước phẫu  thuật  của 
BCHH sau phẫu thuật trình bày trong bảng 2.  
Bảng 1. Đặc điểm dân số nghiên cứu  
Tổng số BN (%) 426 (100) 
Nam, n(%) 253 (59,4) 
Tuổi trung bình 56.8 ± 13,3 
Chỉ số BMI 21,3 (19,1 – 23,7) 
Bệnh lý nền, n (%) 
COPD 
Đái tháo đường type 2 
18 (4,2) 
19 (4,5) 
Các loại phẫu thuật, n (%) 
 Cắt dạ dày 
 Cắt đại tràng 
 Phẫu thuật Miles 
185 (43,4) 
203 (47,7) 
38 (8,9) 
Phương pháp phẫu thuật, n (%) 
Nội soi 
Phẫu thuật hở 
253 (59,4) 
173 (40,6) 
Thời gian phẫu thuật* 214,8 ± 57,4 
Thời gian hậu phẫu (ngày) 7,4 (4 – 16) 
Bảng 2. Các yếu tố nguy cơ trước phẫu thuật 
Các yếu tố BCHH sau phẫu thuật OR (95% KTC) p 
Không n (%) Có n (%) 
Tuổi 56,3 ± 13,3 63,3 ± 10,7 0,0028 
Nhóm 
tuổi 
≥60 
<60 
161 (41,2) 
230 (58,8) 
23 (65,7) 
12 (34,3) 
2,74 (1,26 – 6,2) 0,03 
Giới Nam 
Nữ 
228 (58,3) 
163 (41,7) 
25 (71,4) 
10 (28,6) 
1.79 (0,8 – 4,28) 0,13 
ASA 1-2 
 3 
333 (85,2) 
58 (14,8) 
27 (77,1) 
8 (22,9) 
 0,21 
Tiền căn 
COPD. 
Có 
Không 
7 (1,8) 
384 (94,1) 
11 (61,1) 
24 (5,9) 
25,1 (7,9 – 82,3) <0,001 
Tiền căn 
ĐTĐ 
Có 
Không 
13(3,3) 
377(96,7) 
6(16,7) 
30(83,3) 
5.8 (2,1 – 16,35) <0,001 
Albumin 4,1 ± 0,4 3,9 ± 0,5 0,1 
Creatinin 0,91 ± 0,24 0,94 ± 0,24 0,39 
BMI 21,6 ± 3,8 20,7 ± 3,8 0,24 
Hgb 12,2 ± 1,95 12 ± 1,7 0,74 
Các  thông  số  tuổi,  albumin,  creatinine, 
BMI, Hgb trình bày dưới dạng trung bình ± lệch 
chuẩn. Các  thông  số giới  tính,  tiền  căn COPD, 
tiền căn ĐTĐ trình bày dưới dạng số ca/tỷ lệ. 
Phân  tích  đơn  biến  các  yếu  tố  nguy  cơ 
trong và sau phẫu thuật cho thấy phương pháp 
phẫu  thuật mở  có  tỷ  lệ BCHH  sau phẫu  thuật 
cao  hơn.  Trong  khi  đó  thời  gian  phẫu  thuật, 
đường phẫu  thuật  trên  rốn,  truyên máu  trong 
phẫu thuật và phương pháp giảm đau sau phẫu 
thuật ảnh hưởng không có ý nghĩa thống kê đến 
tần suất BCHH sau phẫu thuật. Các yếu tố nguy 
cơ  trong/sau  phẫu  thuật  của  BCHH  trình  bày 
trong bảng 3. 
Bảng 3. Các yếu tố nguy cơ trong và sau phẫu thuật 
Các yếu tố BCHH sau phẫu thuật OR (95 % KTC) p 
Không n (%) Có n (%) 
Phương pháp 
phẫu thuật 
Phẫu thuật mở 
Nội soi 
151 (38,6) 
240 (61,4) 
22 (62,9) 
13 (37,1) 
2,69 (1,3-5,98) 0,005 
Đường phẫu 
thuật mở 
Trên rốn 
Dưới rốn 
143 (88,8) 
18 (11,2) 
11 (91,7) 
1 (8,3) 
0,72 (0,08- 5,93) 0,6* 
Thời gian phẫu thuật 213,7 ± 56,4 226,6 ± 67 0,2 
Giảm đau sau 
phẫu thuật 
Toàn thân 
Ngoài MC 
153 (39,1) 
238 (60,9) 
10 (28,6) 
25 (71,4) 
1,6 (0,75 - 3,4) 0,218 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát  397
* phép kiểm chính xác Fisher’s  
Tuy  không  có  tử  vong  trong  các  bệnh 
nhân nghiên  cứu, nhưng BCHH  làm  tăng  thời 
gian nằm viện sau phẫu thuật từ 7,3 ± 1,9 lên 8,9 
± 3,2 ngày (p < 0,001). 
Phân tích đa biến cho thấy tuổi bệnh nhân 
không phải là một yếu tố nguy cơ độc lập, các 
yếu  tố nguy  cơ  độc  lập  của BCHH  sau phẫu 
thuật  là  tiền  căn  COPD,  tiền  căn  ĐTĐ  và 
phương pháp phẫu thuật (phẫu thuật mở). Tỷ 
số chênh của các yếu tố nguy cơ độc lập trình 
bày trong bảng 4.  
Bảng 4: Tỷ số chênh của các yếu tố nguy cơ BCHH 
sau phẫu thuật 
Yếu tố nguy cơ OR 95%KTC p 
Tuổi >60 1,52 0,654 – 3,53 0,331 
Tiền căn COPD 23,42 7,32 – 74,97 0,000 
Tiền căn ĐTĐ 6,35 1,96 – 20,55 0,002 
Phương pháp phẫu thuật 3,5 1,53 – 8 0,003 
BÀN LUẬN 
Biến chứng hô hấp mặc dù không  rầm  rộ 
như  biến  chứng  tim mạch,  nhưng  cũng  khá 
thường gặp và làm tăng đáng kể thời gian nằm 
viện và tỷ lệ tử vong. Do đó việc xác định tần 
suất BCHH và các yếu tố nguy cơ, nhất  là các 
yếu  tố nguy  cơ  có  thể  can  thiệp  được  là một 
vấn đề rất quan trọng. Kết quả nghiên cứu này 
cho  thấy  tần  suất  BCHH  sau mổ  là  7%. Các 
nghiên  cứu  nước  ngoài  ghi  nhận  tần  suất 
BCHH  thay  đổi  từ  1%  đến  22,5%.  Tần  suất 
BCHH thay đổi khá nhiều giữa các nghiên cứu 
chủ yếu do loại phẫu thuật và tiêu chuẩn chẩn 
đoán  biến  chứng  hô  hấp  sau mổ  khác  nhau. 
Nếu xem BCHH sau mổ chỉ là suy hô hấp phải 
đặt  lại nội khí quản hoặc giúp  thở  trên 48 giờ 
thì  tần  suất  BCHH  sau  mổ  vào  khoảng  1‐
2%(6,15). Tuy nhiên nếu  chẩn  đoán biến  chứng 
hô hấp sau mổ dựa vào cả các triệu chứng lâm 
sàng như ho  đám,  rale phổi  thì  tần  suất biến 
chứng hô hấp sau mổ tăng lên đến 22,5%(2).  
Các nghiên cứu  trong nước  trên bệnh nhân 
phẫu  thuật  đường  tiêu  hoá  ghi  nhận  tần  suất 
BCHH  sau mổ  thấp hơn 1%(9,13). Tuy nhiên  các 
nghiên  cứu này không nêu  rõ  tiêu  chuẩn  chẩn 
đoán biến chứng hô hấp sau mổ. Trong nghiên 
cứu này chúng  tôi sử dụng  tiêu chuẩn của Hội 
bác  sĩ  phẫu  thuật Hoa  kỳ  là  tiêu  chuẩn  được 
chấp  nhận  rộng  rãi  hiện  nay. Tần  suất BCHH 
sau mổ  trong nghiên cứu này  tương  tự với  tần 
suất BCHH  trên bệnh nhân phẫu  thuật  đường 
tiêu hoá  của Canet  (7,2%)(3),  tuy nhiên  cao hơn 
của  tần suất BCHH  trên bệnh nhân phẫu  thuật 
ung thư đại‐ trực tràng của Owen 3%(14). 
Tuổi bệnh nhân  là yếu  tố nguy cơ được đề 
cập đến nhiều nhất. Nhiều nghiên cứu ghi nhận 
tuổi  cao  làm  tăng  đáng  kể  BCHH  sau mổ(3,17). 
Trong  nghiên  cứu  này,  tuổi  trên  60  làm  tăng 
nguy cơ bị BCHH lên gần ba lần. Tuy nhiên, khi 
phân tích đa biến thì tuổi không còn là một yếu 
tố nguy  cơ độc  lập. Có  lẽ do  đa  số bệnh nhân 
đều có bệnh nội khoa kèm theo, do đó làm giảm 
ý nghĩa của tuổi trong tiên đoán BCHH sau mổ. 
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính làm thay đổi 
cả cấu trúc và chức năng của hệ hô hấp(19) do đó 
làm  tăng  biến  chứng  hô  hấp  sau  mổ. 
Azozullah(1)  ghi  nhận  gia  tăng  tần  suất  viêm 
phổi sau mổ và Gupta(6) ghi nhận gia tăng biến 
chứng hô hấp sau mổ trên bệnh nhân có tiền căn 
bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.Trong nghiên cứu 
này  tỷ  lệ  bệnh  nhân COPD  có  biến  chứng  hô 
hấp sau mổ rất cao (61%) mặc dù không có bệnh 
nhân mổ cấp cứu và đa số bệnh nhân đã được 
điều trị hô hấp trước mổ. Từ đó có thể nhận thấy 
là các bệnh nhân phẫu thuật ung thư đường tiêu 
hoá có  tiền sử COPD cần được điều  trị hô hấp 
trước và sau mổ tích cực hơn nữa. 
Tăng  đường  máu  hoặc  kiểm  soát  đường 
máu  kém  làm  tăng  biến  chứng  sau  mổ  trên 
nhiều  loại  phẫu  thuật  khác  nhau(4,8).  Một  số 
nghiên cứu trước đây không chứng minh được 
đái tháo đường là yếu tố nguy cơ của BCHH sau 
mổ(3,17). Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy, đái tháo 
đường  là một  yếu  tố  nguy  cơ  quan  trọng  của 
BCHH sau mổ. Sự khác biệt này có lẽ phần nào 
do  viêm  phổi  chiếm  đến  gần  70%  BCHH  sau 
mổ, mà  đái  tháo  đường  chủ yếu  làm  tăng  các 
biến chứng nhiễm trùng sau phẫu thuật. 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 398
Có  nhiều  nguyên  nhân  liên  quan  đến 
phẫu thuật làm tăng nguy cơ biến chứng hô hấp 
sau mổ. Các yếu  tố được  đề  cập  đến như  thời 
gian mổ, phương pháp mổ (nội soi hay mổ hở), 
đường mổ trên rốn hay dưới rốn, đau sau mổ và 
các yếu tố này có liên hệ mật thiết với nhau(14). 
Trên  bệnh  nhân  phẫu  thuật  cắt  túi mật, 
Ravimohan ghi nhận mổ nội soi ít làm thay đổi 
chức năng hô hấp và ít gây xẹp phổi sau mổ hơn 
mổ mở(16). Trên bệnh nhân cắt đại  tràng, Owen 
ghi nhận mặc dù mổ nội soi làm tăng thời gian 
phẫu thuật nhưng vẫn  ít gây BCHH sau mổ so 
với mổ mở. Trong nghiên  cứu này mổ nội  soi 
không những không  làm kéo dài mà còn giảm 
thời gian phẫu thuật (205,1±59,6 phút/mổ nội soi 
so  với  228,9±50,9  phút/mổ mở  )  và  giúp  giảm 
gần ba lần BCHH sau mổ và gợi ý nên lựa chọn 
phương pháp mổ nội soi cho các trường hợp có 
tăng nguy cơ bệnh  tật và  tử vong, với điểm số 
ASA cao, lớn tuổi, ung thư(14). 
Khi  so  sánh  thời gian  cuộc mổ  anh hưởng 
lên biến chứng hô hấp, nghiên cứu của chúng tôi 
không tìm thấy sự khác biệt giữa hai nhóm. Có 
thể do  thời gian phụ  thuộc vào  tính chất phức 
tạp của cuộc mổ (dạ dày so với đại tràng) hơn là 
một yếu tố nguy cơ độc lập thực sự(2). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, các đường 
mổ mở trên rốn chiếm 93%, đa số là mổ ung thư 
dạ dày. Các trường hợp mổ chương trình u đại 
tràng có đường mổ dưới rốn phần lớn là chuyển 
từ nội soi sang mổ mở khi phẫu thuật viên thám 
sát ổ bụng và đánh giá khối u khó có thể cắt trọn 
qua nội soi, trong nghiên cứu này có 19 trường 
hợp chiếm 7%.  
Nghiên cứu của chúng tôi không tìm thấy sự 
khác biệt  giữa  các phương  thức  giảm  đau  sau 
mổ  hay  đường mổ  trên  rốn/dưới  rốn  đối  với 
nguy cơ biến chứng hô hấp. Điều này có thể giải 
thích  bằng  xu  hướng  lựa  chọn  phương  thức 
giảm đau: trong nghiên cứu này, bệnh nhân mổ 
mở, đặc biệt là mổ mở trên rốn thường được sử 
dụng giảm  đau ngoài màng  cứng hơn  là giảm 
đau toàn thân 
 Loại giảm đau OR (95% p 
Toàn 
thân 
Ngoài màng 
cứng 
KTC) 
Phẫu thuật mở
Trên rốn 
Dưới rốn 
37 (78,7)
10 (21,3)
117 (92,9) 
9 (7,1) 
0,285 
(0,108 – 
0,753) 
0,00
8 
Tổng quan tài liệu của Liu và Wu năm 2007 
nhấn mạnh  vai  trò  quan  trọng  của  giảm  đau 
ngoài màng cứng làm giảm 1/3 đến hơn ½ nguy 
cơ viêm phổi, suy hô hấp trên bệnh nhân được 
mổ phình động mạch chủ bụng, bắc cầu vành và 
phẫu thuật vùng bụng(10). 
Bên  cạnh  những  kết  quả  nói  trên,  nghiên 
cứu này cũng có nhiều hạn chế: (1) nghiên cứu 
thực hiện tại một trung tâm với cỡ mẫu nhỏ, (2) 
việc đánh giá các yếu tố nguy cơ trước mổ chủ 
yếu  dựa  vào  phiếu  khám  tiền mê  chứ  không 
theo một biểu mẫu  thống nhất  có  thể dẫn  đến 
việc ghi nhận không đầy đủ các yếu tố nguy cơ, 
(3) chẩn đoán các BCHH sau mổ hoàn toàn dựa 
vào  hồ  sơ  bệnh  án  có  thể  dẫn  đến  ghi  nhận 
không đầy đủ các BCHH sau mổ.  
KẾT LUẬN 
Nghiên cứu này cho thấy BCHH khá thường 
gặp trên bệnh nhân phẫu thuật ung thư đường 
tiêu hoá được phẫu thuật chương trình. Các yếu 
tố nguy cơ của BCHH được xác định qua nghiên 
cứu này trong chừng mực nào đó đều là những 
yếu tố nguy cơ có thể điều chỉnh được, qua đó 
nói lên vai trò điều trị nội khoa trước phẫu thuật 
hoặc  lựa chọn phương pháp phẫu thuật hợp  lý 
nhằm làm giảm các biến chứng này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Arozullah  AM,  Khuri  SF, Henderson WG,  Daley  J  (2001). 
Development and validation of a multifactorial risk index for 
predicting postoperative pneumonia  after major noncardiac 
surgery. Ann Intern Med 2001,135:847–857. 
2. Brooks‐Brunn  JA  (1997).  Predictors  of  postoperative 
pulmonary  complications  following  abdominal  surgery. 
Chest 1997,111:564. 
3. Canet  J,  Gallart  L,  Gomar  C  et  al  (2010).  Prediction  of 
postoperative  pulmonary  complications  in  a  population‐
based surgical cohort. Anesthesiology 2010,113:1338. 
4. Dronge AS,  Perkal  MF,  Kancir  S,  et  al  (2033).  Long‐term 
glycemic  control  and  postoperative  infectious 
complications. Arch Surg 2006,141(4):375‐380 
5. Fleischmann  KE,  Goldman  L,  Young  B,  Lee  TH  (2003). 
Complications  in  patients  undergoing  noncardiac  surgery: 
outcomes  and  effects  on  length  of  stay.  Am  J  Med 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát  399
2003,115:515.  
6. Gupta H et al (2011). Development and Validation of a Risk 
Calculator  Predicting  Postoperative  Respiratory 
Failure. CHEST 2011,140:1207‐1215 
7. Hall  JC, Tarala RA, Hall  JL  (1996). Respiratory  insufficiency 
after abdominal surgery. Respirology 1996,1:133.  
8. Lauruschkat AH, Arnrich B, Albert AA, Amann B, Rosendahl 
UP, Alexander  T,  Ennker  J  (2008).  Journal  of  thoracic  and 
cardiovascular surgery 2008, 135(5): 1047–1053 
9. Lê  Bá  Thảo,  Chung  Hoàng  Phương,  Nguyễn  Anh  Dũng 
(2010). Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi điều trị thủng ổ 
loét dạ dày‐tá tràng tại bệnh viện Nhân dân Gia định. Y học 
TP. Hồ Chí Minh 2010, tập 14 (phụ bản số 4):16. 
10. Liu  S & Wu C  (2007).  Effect  of  postoperative  analgesia  on 
major postoperative complications: A systemic update of the 
evidence. Anesthesia & Analgesia March 2007, Vol. 104, No. 3 
: 689‐702. 
11. Mc Allister FA, Bertsch K, Man J (2005). Incidence of and risk 
factors for pulmonary complications after nonthoracic sugery. 
Am J Respir Crit Care Med 2005,171:514. 
12. McCulloch,  Ward  J,  Tekkis  PP  (2003).  Mortality  and 
morbiditiy  in gastro‐esophageal cancer surgery:  initial result 
of ASCOT multicentre prospective  cohort  study. BMJ  2003, 
327:1192. 
13. Nguyễn Hữu Kỳ Phương, Trần Thiện Trung (2010). Các yêu 
tố tiên lượng sau phẫn thuật khâu thủng loét dạ dày‐tá tràng. 
Y học TP. Hồ Chí Minh 2010; tập 14 (phụ bản số 4):57. 
14. Owen RM, Perez SD, Lytle N et al (2013). Impact of operative 
duration  on  postoperative  pulmonary  complications  in 
laparoscopic  versus  open  colectomy  (2013).  Surg  Endosc 
(2013) 27:3555‐3563. 
15. Ramachandran SK, Nafiu OO, Gahferi A (2011). Independent 
predictors and outcomes of unanticipated early postoperative 
tracheal  intubation  after  nonemergent,  nonthorcic  surgery. 
Anethesiology 2011;115:44. 
16. Ravimohan M, Lileswar K, Ravul J, Singh R, Jindal R (2005). 
Postoperative  pulmonary  function  in  laparoscopic  versus 
open  cholecystectomy:  a  prospective,  comparative  study. 
Indian J Gastroenterol 2005;24:6–8. 
17. Smetana GW, Lawrence VA, Cornell JE, American College of 
Physicians  (2006). Preoperative pulmonary  risk stratification 
for  noncardiothoracic  surgery:  systematic  review  for  the 
American  College  of  Physicians.  Ann  Intern  Med  2006, 
144:581. 
18. Spieth  PM,  Guldner  A,  deAbreu  MG  (2012).Chronic 
obstructive  pulmonary  disease. Curr  Opin  Anaesthesiol 
2012, 25:24‐29. 
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014