Tận dụng phế phẩm cá tra và vỏ dứa để sản xuất phân bón lá

Mục tiêu của nghiên cứu này là sử dụng phụ phế phẩm dứa để thủy phân phế phẩm cá tra (đầu,

xương, da, nội tạng) tạo phân bón lá, nhằm tận dụng các nguồn phế liệu từ phế liệu này, giảm

nguồn chất thải ra môi trường thay thế phân hóa học trong sản xuất nông nghiệp. Kết quả nghiên

cứu cho thấy: Khả năng thủy phân của dịch ép từ vỏ dứa tương đương với enzyme bromelain

công nghiệp. Sử dụng enzyme có trong vỏ dứa để thủy phân cá tra theo tỷ lệ phế phẩm cá:vỏ dứa

là 1:5,6 (w/w) hay phụ phẩm cá:dịch ép từ vỏ dứa là 1:1,5 (w/v), tối ưu trong điều kiện pH 5,5,

nhiệt độ 50oC thời gian thủy phân là 150 phút. Sản phẩm phân bón sinh học từ các nguồn phụ phế

phẩm này cho hiệu quả kích thích sinh trưởng của cây trồng tương đương với phân bón lá hóa

học trên thị trường.

pdf13 trang | Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 20/05/2022 | Lượt xem: 329 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tận dụng phế phẩm cá tra và vỏ dứa để sản xuất phân bón lá, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cái 2 3.500 7.000 Tổng chi (đồng/lít) 13.185,7 Tổng thu (đồng/lít) 150.000 Lợi nhuận 149.814,3 Ghi chú: Chi phí chưa tính khâu hao thiết bị và công lao động Hội nghị Khoa học An toàn dinh dưỡng và An ninh lương thực lần 2 năm 2018 379 Khảo nghiệm chế phẩm phân bón lá cho cải xanh trồng ngoài đồng. Bảng 3.6: Ảnh hưởng của chế phẩm phân bón lá trên cải xanh trồng ngoài đồng Công thức Chiều cao cây (cm) ở các giai đoạn Số lá/cây ở các giai đoạn (lá) Khối lượng trung bình (g/cây) Năng suất lý thuyết (kg/m2) Năng suất thực thu (kg/m2) Sau trồng 26 ngày (cm) Phun nước (ĐC) 22,443 ±0,204E 7,233 ±0,153C 35,783 ±0,862D 2,147 ±0,052D 1,593 ±0,213D Dịch thủy phân 5% 27,297 ±0,245D 8,267 ±0,153B 50,267 ±0,729C 3,016 ±0,044C 2,390 ±0,145C Dịch thủy phân 10% 28,500 ±0,202C 9,000 ±0,100A 64,950 ±0,841B 3,887 ±0,034B 2,897 ±0,112B Chế phẩm 5% 29,217 ±0,130B 9,000 ±0,100A 65,333 ±1,178B 3,947 ±0,082B 2,957 ±0,093B Chế phẩm 10% 30,623 ±0,099A 9,100 ±0,300A 82,883 ±1,351A 4,973 ±0,081A 4,013 ±0,150 A Phân bón lá Grow 6-6-6 30,583 ±0,031A 9,133 ±0,153A 83,133 ±1,284A 4,988± 0,078A 4,067 ±0,163A CV (%) 0,599 2,009 1,676 1,687 5,054 Ghi chú: Các giá trị trung bình trong cùng một cột có cùng ký tự không khác biệt có nghĩa ở mức xác xuất p < 0,05 Qua theo dõi chiều cao cây ở các thời kỳ được trình bày ở bảng 3.6 cho thấy sau trồng 26 ngày chiều cao cây đã cao hơn rõ rệt khoảng từ 5-8cm so với phun bằng nước. Như vậy, với công thức sử dụng chế phẩm có liều lượng 10% đạt hiệu quả cao nhất 30,623±0,099cm nhưng không có sự khác biệt so với tưới bằng phân bón lá Grow 6-6-6. Số lá của rau cải qua các giai đoạn trình bày ở bảng 3.6 cho thấy sau trồng 26 đã có sự khác biệt rõ rệt. Việc phun bổ sung dịch thủy phân và chế phẩm đều cho số lá trên cây cao hơn đối chứng phun nước, đối chứng và dịch thủy phân 5% ít hơn từ 1–3 lá so với các công thức khác. So sánh giữa các công thức thì phun dịch thủy phân 10% và chế phẩm 5, 10% đều cho số lá/cây không sai khác so với loại phân bón lá sử dụng trên thị trường. Kết quả bảng 3.6 cho thấy, việc phun bổ sung dịch thủy phân hoặc chế phẩm đều là tăng trọng lượng cây cải cũng như năng suất lý thuyết và năng suất thực thu so với phun bằng nước lã. Phun dịch thủy phân 10% cho năng suất tương đương với phun chế phẩm 5% và thấp hơn so với phun phân bón lá thương phẩm. Tuy nhiên, nếu phun chế phẩm 10% thì năng suất tương đương với phun phân bón lá thương phẩm đang bán trên thị trường. Hội nghị Khoa học An toàn dinh dưỡng và An ninh lương thực lần 2 năm 2018 380 Khảo nghiệm chế phẩm phân bón lá cho đậu bắp trồng ngoài đồng Bảng 3.7: Ảnh hưởng của chế phẩm phân bón lá trên cây đậu bắp trồng ngoài đồng Công thức Ngày ra hoa đầu tiên (ngày) Ngày thu hoạch đầu tiên (ngày) Chiều cao cây (cm) Số lượng quả trung bình (quả/cây) Trọng lượng trung bình quả (g/quả) Năng suất cây đậu bắp (kg/m2) Phun nước (ĐC) 62,330 ±0,500A 69,053 ±0,254A 63,333 ±3,819D 5,943 ±0,196C 24,307 ±1,339C 0,289 ±0,021C Dịch thủy phân 5% 55,727 ±2,103B 62,833 ±2,184B 77,780 ±3,154C 10,667 ±0,726B 28,717 ±1,170B 0,611 ±0,016B Dịch thủy phân 10% 55,610 ±1,018B 62,610 ±1,018B 82,777 ±6,473C 12,277 ±1,845B 29,923 ±0,154AB 0,734 ±0,107B Chế phẩm 5% 48,390 ±0,256C 55,557 ±0,196C 115,557 ±6,354B 19,610 ±2,262A 30,120 ±0,344AB 1,181 ±0,135A Chế phẩm 10% 47,667 ±0,335C 54,667 ±0,335C 128,333 ±8,698A 20,890 ±2,178A 30,497 ±0,232A 1,274 ±0,138A Phân bón lá Grow 6- 6-6 47,610 ±0,629C 54,610 ±0,629C 118,887 ±4,193AB 20,223 ±3,376A 30,150 ±0,668A 1,219 ±0,197A CV (%) 1,935 1,727 5,907 13,729 2,750 13,701 Ghi chú: Các giá trị trung bình trong cùng một cột có cùng ký tự không khác biệt có nghĩa ở mức xác xuất p < 0,05 Kết quả ở bảng 3.7 cho thấy, đậu bắp khi được phun dịch thủy phân và chế phẩm ra hoa sớm hơn khi phun bằng nước từ 7–15 ngày. Ngoài ra, đậu bắp ở công thức phun chế phẩm 5, 10% không sai khác so với phun bằng phân bón lá Grow 6-6-6 (khoảng 48 ngày). Tương tự ở ngày thu hoạch, đậu bắp được phun dịch thủy phân thu hoạch sớm hơn 7 ngày (thu hoạch ở ngày thứ 69), còn phun chế phẩm và phân bón thương mại thu hoạch đậu bắp sớm hơn nửa tháng (thu hoạch ở ngày thứ 55 khi phun chế phẩm 5%, ngày thứ 54 ở chế phẩm 10% và phân bón thương mại). Sự chênh lệch rõ rệt về số ngày ra hoa và ngày thu hoạch ở các công thức cho thấy với công thức sử dụng chế phẩm lần lượt là 5% và 10% đạt hiệu quả cao nhất (sớm hơn đối chứng khoảng 15 ngày). Qua theo dõi chiều cao cây ở bảng 3.7 cho thấy, chiều cao ở các công thức có sự khác biệt rõ rệt khoảng từ 14–65cm so với phun bằng nước. Ngoài ra, đậu bắp ở công thức phun chế phẩm 5% có chiều cao (115,557±6,354cm) không sai khác so với phun bằng phân bón lá Grow 6-6-6 (118,887±4,193cm), nhưng đạt hiệu quả cao nhất là ở công thức sử dụng chế phẩm có liều lượng 10% cho chiều cao cây đậu bắp là 128,333±6,354cm. Hội nghị Khoa học An toàn dinh dưỡng và An ninh lương thực lần 2 năm 2018 381 Kết quả ở bảng 3.7 cho thấy, số quả/cây và trọng lượng trung bình quả có sự khác biệt khi sử dụng dịch thủy phân và chế phẩm phân bón ở các nồng độ khác nhau. Tuy nhiên, số lượng quả/cây và trọng lượng trung bình quả không có sự khác biệt lớn khi phun bằng chế phẩm với liều lượng 5% và 10% so với khi phun bằng phân bón thương mại. Trong đó, có hiệu quả tốt nhất là khi sử dụng chế phẩm với nồng độ 10%. Kết quả bảng 3.7 cho thấy khi tăng nồng độ sử dụng ở các công thức thì năng suất đậu bắp tăng dần, đạt cao nhất ở công thức 4 và 5 (khoảng 1,2 kg/m2) và khác hơn hẳn so với đối chứng (0,289 kg/m2). KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ Kết luận Có thể tận dụng vỏ dứa để thủy phân phụ phẩm cá tra thay thế cho enzyme bromelain công nghiệp. Điều kiện tối ưu để thủy phân phụ phẩm cá tra bằng enzyme từ vỏ dứa theo tỷ lệ phế phẩm cá : vỏ dứa là 1 : 5,6 (w/w) hay phụ phẩm cá : dịch ép từ vỏ dứa là 1 : 1,5 (w/v), nhiệt độ 500C, pH là 5,5, với thời gian thủy phân là 150 phút. Dịch thủy phân có thể ổn định bằng sorbic acid với nồng độ là 0,75%. Phun chế phẩm phân bón lá từ phế phẩm cá tra và vỏ dứa với nồng độ 10% có khả năng làm tăng năng suất của cải bẹ xanh và đậu bắp tương đương với phân bón lá thương mại trên thị trường. Đề nghị – Tạo phân bón lá từ dịch thủy phân phụ phẩm cá tra. – Nghiên cứu ủ compost từ phế phẩm sau thủy phân. – Nghiên cứu quá trình loại bỏ m� cá tra cho sản xuất ở dạng quy mô lớn. – Thử nghiệm phân bón lá từ phụ phẩm cá tra trên một số loại cây trồng khác. – Phân tích chỉ tiêu chế phẩm để đưa ra hàm lượng phối trộn phân bón hợp lý. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Berge JP. For a better use of marine by-products and wastes, FAO. Fisheries Report. 2007; 819:103-110. [2] Nguyễn Bá Mùi (2002). Nghiên cứu phụ phẩm dứa ủ chua làm thức ăn gia súc, Luận án tiến sĩ nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp, Hà Nội. [3] Lại Thị Ngọc Hà (2009). Nghiên cứu tách và tạo chế phẩm bromelain từ phụ phế phẩm dứa, Tạp chí khoa học và phát triển: tập 7, số 2: 203 – 211. [4] Phạm Đình Dũng, Trần Văn Lâm (2013). Nghiên cứu ứng dụng dung dịch thủy phân từ phụ phẩm cá bằng enzym làm phân bón cho một số loại rau trong nhà màng, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM. Hội nghị Khoa học An toàn dinh dưỡng và An ninh lương thực lần 2 năm 2018 382 [5] Nguyễn Công Hà, Lê Nguyễn Đoan Duy, Nguyễn Thị Thủy, Nguyễn Thị Bích Phượng (2015). Khảo sát khả năng thủy phân ptrotein từ phụ phẩm cá tra (pangasius hypophthalmus) bằng enzyme bromelain, Tạp chí Hội nghị khoa học chăn nuôi - Thú Y toàn quốc, trang 437 – 422. REUSING CATCH FISH AND PINEAPPLE BY-PRODUCT TO PRODUCE FOLIAR FERTILIZER ABSTRACT The aime of this study was reusing bromelain from pineapple by-product for hydrolysating catch fish waste (head, skin, bones, viscera) to produce foliar fertilizer, reduce environmental pollution and replace chemical fertilizer in agriculture. The results showed that, the hydrolysis capability of pineapple peel extract was equivalent to industrial bromelain. Using enzyme from pineapple peel extract for hydrolysis of catch fish with the rate of catch fish : pineapple peels as 1 : 5,6 (w/w) or catch fish : pineapple peel extract as 1 : 1,5 (w/v), optimum activity at pH 5,5, temperature of 50oC and hydrolysis time of 150 minutes. The effect on plant growth of biofoliar fertilizer that produced from these by- product as good as commercial chemical fertilizer. Keywords: catch fish waste, pineapple by-product, hydrolysis, biofoliar fertilizer.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftan_dung_phe_pham_ca_tra_va_vo_dua_de_san_xuat_phan_bon_la.pdf