Quản trị nhân lực (Human Resources Management - HRM) là một
tên gọi khá mới trong chuỗi khái niệm và thông lệ liên quan đến
quản lý con người. Thực ra, trong suốt hơn 50 năm qua, thuật
ngữ này đã được sử dụng phổ biến ở Mỹ để thay thế cho thuật
ngữ quản lý nhân sự (Personnel Management). Càng về sau này,
HRM được nhiều nước trên thế giới áp dụng, đặc biệt là Úc, các
nước vùng Scandivania và Nam Phi. HRM được đánh giá là một
khâu hết sức quan trọng trong quá trình sản xuất. Nó được xem
là một hướng tiếp cận chiến lược liên kết vấn đề quản lý nhân sự
với việc đạt được các mục tiêu kinh doanh. Như Storey J. đã giới
thiệu trong cuốn Quản trị nhân lực: Một vấn đề quan trọng
(Human Resources Management: A Critical Text, 2001), thật khó
có thể tưởng tượng được rằng mới chỉ một thập niên trước đây,
thuật ngữ HRM rất ít được sử dụng, ít nhất là ngoài nước Mỹ, thế
mà giờ đây nó đã trở nên quá quen thuộc và phổ biến trên phạm
vi toàn cầu và mỗi tuần qua đi lại có một cuốn sách hay ấn bản về
chủ đề HRM ra đời.
6 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1349 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Tầm quan trọng của quản trị nhân lực, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tầm quan trọng của quản
trị nhân lực
Quản trị nhân lực (Human Resources Management - HRM) là một
tên gọi khá mới trong chuỗi khái niệm và thông lệ liên quan đến
quản lý con người. Thực ra, trong suốt hơn 50 năm qua, thuật
ngữ này đã được sử dụng phổ biến ở Mỹ để thay thế cho thuật
ngữ quản lý nhân sự (Personnel Management). Càng về sau này,
HRM được nhiều nước trên thế giới áp dụng, đặc biệt là Úc, các
nước vùng Scandivania và Nam Phi. HRM được đánh giá là một
khâu hết sức quan trọng trong quá trình sản xuất. Nó được xem
là một hướng tiếp cận chiến lược liên kết vấn đề quản lý nhân sự
với việc đạt được các mục tiêu kinh doanh. Như Storey J. đã giới
thiệu trong cuốn Quản trị nhân lực: Một vấn đề quan trọng
(Human Resources Management: A Critical Text, 2001), thật khó
có thể tưởng tượng được rằng mới chỉ một thập niên trước đây,
thuật ngữ HRM rất ít được sử dụng, ít nhất là ngoài nước Mỹ, thế
mà giờ đây nó đã trở nên quá quen thuộc và phổ biến trên phạm
vi toàn cầu và mỗi tuần qua đi lại có một cuốn sách hay ấn bản về
chủ đề HRM ra đời.
Cũng theo Storey, mặc dù đã có một số lượng lớn sách, báo, hội
nghị, v.v... bàn về HRM, tuy nhiên nó vẫn đang trong giai đoạn
khởi đầu và do vậy vẫn còn tồn tại nhiều điều mâu thuẫn, trái
ngược. Các vấn đề như bản chất và lĩnh vực HRM, các đặc tính
của hoạt động nhân sự, phạm vi, căn nguyên cũng nhu kết quả
và ảnh hưởng của hoạt động nhân sự.
Cùng với các tác giả về HRM khác, Storey chỉ rõ các yếu tố đầu
vào từ một lĩnh vực rộng hơn đã nâng cao tầm quan trọng của
HRM, bao gồm:
- Lý thuyết dựa vào nguồn lực của doanh nghiệp.
- Tổ chức học hỏi (Learning Organisation.
- Quản trị kiến thức (Knowledge Management).
Đứng trên góc độ quy trình kinh doanh, Cakar và Bititci (2001)
viết:
"Có thể tổng kết rằng những năm 1980 là thập niên của tự động
hoá. Trong ngành sản xuất công nghiệp nặng, FMS, FAS, Robot,
AGV's, v.v... đã trở nên quá quen thuộc. Thập niên 90 dành cho
con người và bằng chứng là việc đưa ra khái niệm 'quản lý chất
lượng tổng hợp' (Total Quality Management - TQM) chú trọng tới
phân công lao động, huy động sự tham gia, tăng cường tính sở
hữu kết hợp với nhóm làm việc theo chức năng, xây dựng nhóm
làm việc tự quản, v.v... 'Mô hình kinh doanh đặc thù châu Âu'
(European Business Excellence Model - EFQM) cùng với những
sáng kiến khác như 'đầu tư vào con người' (Investor in People)
của Anh đã đưa vai trò và tầm quan trọng của con người cũng
như nhu cầu cần có những quy trình quản lý con người bền vững
lên một mức cao hơn bao giờ hết."
"HRM (hay còn gọi là People Management - Quản lý con người)
là một yếu tố đầu vào hết sức cần thiết nhằm tăng hiệu quả kinh
doanh. Theo mô hình EFQM, tiêu chí HRM đề cập đến các yếu tố
như quy hoạch, quản lý và nâng cao năng lực nguồn nhân lực;
xác định, phát triển và duy trì kiến thức và năng lực của người lao
động; khuyến khích sự tham gia và trao quyền cho người lao
động. Tất cả các yếu tố này đều có tác động tới kết quả kinh
doanh bởi nhân lực là một loại tài sản cố định chính của doanh
nghiệp. HRM có tác động đặc biệt to lớn trong hoạt động của các
ngành sản xuất chế tạo."
"Ngoài ra, các quy trình kinh doanh cũng là chủ đề chính ở thập
niên 90. Kể từ khi Hammer và Champy cho ra đời công trình
nghiên cứu đầu tiên về vấn đề này năm 1993, cho đến nay đã có
rất nhiều công trình đi sâu khám phá và nghiên cứu các mô hình
và cấu trúc quy trình kinh doanh. Cấu trúc quy trình kinh doanh
CIM-OSA (Maul và các tác giả khác, 1995 và ESPRIT Consortium
AMICE, 1991) phân loại các quy trình kinh doanh thành (1) quy
trình quản lý, (2) quy trình hoạt động và (3) quy trình hỗ trợ.
Trong cấu trúc này, HRM được đánh giá là một quy trình hỗ trợ
cùng với tài chính và công nghệ thông tin. Do đó, HRM cần được
hiểu là một quy trình kinh doanh nhằm mục đích tăng cường hiệu
quả sản xuất."
Quan điểm trên tất nhiên có thể áp dụng với các ngành dịch vụ,
ngành phi lợi nhuận cũng như các cơ quan hành chính.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tam_quan_trong_cua_quan_tri_nhan_luc_5014.pdf