Có nhiều khoa học nhiên cứu về trẻ em, mỗi khoa học nghiên
cứu trẻ em theo khía cạnh riêng, với cách riêng của mình. Tâm
lý học trẻ em quan tâm đến quá trình phát triển trẻ em, hình
thành nhân cách, trở thành người lớn như thế nào.
Tâm lý học trẻ em là khoa học nghiên cứu những đặc điểm và
quy luật phát triển tâm lý của trẻ, xem sự hoạt động của trẻ, sự
phát triển các quá trình, phẩm chất tâm lý và sự hình thành nhân
cách của trẻ theo con đường nào, bằng cơ chế nào.
16 trang |
Chia sẻ: ngocly | Lượt xem: 2270 | Lượt tải: 1
Nội dung tài liệu Tâm lý học trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tâm Lý Học Trẻ Em
I. ĐỐI TƯỢNG CỦA TÂM LÝ HỌC TRẺ EM:
Có nhiều khoa học nhiên cứu về trẻ em, mỗi khoa học nghiên
cứu trẻ em theo khía cạnh riêng, với cách riêng của mình. Tâm
lý học trẻ em quan tâm đến quá trình phát triển trẻ em, hình
thành nhân cách, trở thành người lớn như thế nào.
Tâm lý học trẻ em là khoa học nghiên cứu những đặc điểm và
quy luật phát triển tâm lý của trẻ, xem sự hoạt động của trẻ, sự
phát triển các quá trình, phẩm chất tâm lý và sự hình thành nhân
cách của trẻ theo con đường nào, bằng cơ chế nào.
Có thể nói một cách khái quát rằng đối tượng của tâm lý học trẻ
em là sự sự phát triển tâm lý của trẻ; những đặc điểm, những
quy luật đặc trưng cho sự phát triển tâm lý ở mỗi độ tuổi.
II. Ý NGHĨA CỦA TÂM LÝ HỌC TRẺ EM VÀ QUAN HỆ
CỦA NÓ VỚI CÁC KHOA HỌC KHÁC:
Khi nghiên cứu sự phát triển tâm lý của trẻ, tâm lý học trẻ em đã
sử dụng các tài liệu của nhiều khoa học khác và đến lượt mình
nó cũng cung cấp những tài liệu có ý nghĩa quan trọng đối với
các khoa học khác.
Tâm lý học trẻ em dựa trên triết học duy vật biện chứng. Các
luận điểm triết học vạch ra những quy luật chung nhất của sự
phát triển các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Nó chứng minh
rằng tâm lý, ý thức con người do xã hội quyết định. Sự hiểu biết
các quy luật chung giúp cho tâm lý học trẻ em tìm ra cách nhìn
đúng đắn đối với sự phát triển tâm lý của trẻ em.
Ngược lại, việc nghiên cứu tỉ mỉ sự phát triển của trẻ em, nhất là
việc trẻ em nhìn nhận thế giới xung quanh như thế nào sẽ giúp ta
hiểu sâu hơn bản chất chung của nhận thức con người.
Tâm lý học trẻ em dựa trên những tri thức về tâm lý con người
do tâm lý học đại cương cung cấp, đồng thời nó lại cung cấp cứ
liệu cho tâm lý học đại cương, cho những hiểu biết sâu sắc hơn
về những vấn đề tâm lý của người lớn, đặc biệt là những quy
luật nảy sinh và phát triển tâm lý như thế nào.
Tâm lý học trẻ em thường xuyên sử dụng những thành tựu giải
phẫu sinh lý và bệnh học lứa tuổi, nhất là những số liệu về sự
phát triển của hệ thần kinh và hoạt động thần kinh cao cấp của
trẻ.
Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục là bảo đảm sự phát triển của trẻ,
chuẩn bị cho nó bước vào cuộc sống. Để làm tốt việc này, nhà
giáo dục phải nắm vững những đặc điểm và quy luật phát triển
của đứa trẻ, nếu không sẽ phải mò mẫm và dễ bị sai lệch. Trong
lĩnh vực giáo dục mầm non, tâm lý học trẻ em có một vị trí đặc
biệt. Từ việc tổ chức đời sống đến việc hướng dẫn cho trẻ trong
các hình thức hoạt động, muốn đạt được kết quả tốt, người nuôi
dạy cần phải biết những đặc điểm và quy luật phát triển tâm lý
của trẻ. Tâm lý học trẻ em không những giúp cho người nuôi
dạy trẻ có khả năng hiểu trẻ mà còn biết vun trồng và phát triển
tất cả những phẩm chất tốt đẹp của trẻ. Tránh được những thiếu
sót trong công tác giáo dục trẻ.
“Thi đỗ tiểu học rồi thì muốn lên trung học, đỗ trung học rồi thì
muốn lên đại học – riêng về mỗi cá nhân của người học sinh, thì
ý muốn ấy không có gì lạ. Nhưng chung với nhà nước thì ý
muốn ấy thành vô lý; vì bất kỳ ở nước nào số trường trung học
cũng ít hơn trường tiểu học, trường đại học cũng ít hơn trường
trung học."
(Trích bài viết Học sinh và lao động của Chủ tịch Hồ Chí Minh)
“Chọn nghề không nên chỉ căn cứ vào sở thích hay nguyện
vọng. Sở thích (dù là thích đến tột đỉnh) cũng chưa hẳn là sở
trường đích thực. Mặt khác, nếu có sở thích mà chỉ nuôi dưỡng
nó bằng sự đam mê chứ không bằng sự dày công luyện tập và
chí thú học hỏi, thì sớm muộn sở thích đó cũng sẽ bị “giã từ”
Tâm lý con người và tâm lý động vật luôn luôn phát triển. Tuy
nhiên tính chất và nội dung của quá trình phát triển trong thế
giới động vật và ở con người khác nhau. Cơ chế chủ yếu của sự
phát triển tâm lý động vật là sự truyền kinh nghiệm từ thế hệ
trước đến thế hệ sau bằng quy luật di truyền sinh học. Đặc điểm
của các chức năng tâm lý người là chúng được phát triển trong
quá trình trẻ lĩnh hội kinh nghiệm – lịch sử, theo quy luật di
truyền xã hội hay kế thừa văn hoá.
Nên người là quá trình đứa trẻ lĩnh hội kinh nghiệm xã hội – lịch
sử được loài người sáng tạo ra và giữ lại trong nền văn hoá,
bằng hoạt động của chính trẻ em và luôn luôn được người lớn
hướng dẫn – tức là giáo dục. Đây chính là cơ chế của sự phát
triển tâm lý trẻ em.
Phân tích cơ chế này, ta nhận thấy những điều kiện đó là những
mối quan hệ giữa nền văn hoá với sự phát triển của trẻ, giữa
hoạt động của chính trẻ với sự phát triển của nó, giữa những
điều kiện sinh học với sự phát triển của trẻ…
Những mối quan hệ này đều mang tính phổ biến và tính tất yếu
khách quan, vì vậy nó mang tính quy luật.
I. QUAN HỆ GIỮA VĂN HOÁ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN TÂM
LÝ CỦA TRẺ:
Cũng như mọi sinh vật, con người là một bộ phận của vũ trụ,
chịu sự chi phối chặt chẽ của thế giới tự nhiên, nhưng cao hơn
mọi sinh vật khác, con người còn có một thế giới nữa do mình
sáng tạo ra, đó chính là văn hoá. Do đó nói tới văn hoá là nói tới
thế giới tinh thần của con người và những thành tựu đạt được
trong suốt tiến trình lịch sử của nó, để hoàn thiện mình và xã
hội.
Người ta chia văn hoá thành hai hình thái: Văn hoá vật chất và
văn hoá tinh thần. Dù văn hoá vật chất hay văn hoá tinh thần đều
chứa đựng những kinh nghiệm xã hội – lịch sử mà loài người đã
tích luỹ được. Do đó sự phát triển diễn ra trong quá trình trẻ em
lĩnh hội kinh nghiệm loài người trong nền văn hoá.
Ngay từ khi ra đời trẻ đã tiếp xúc với nền văn hoá của loài
người. Nền văn hoá xã hội với những sản phẩm vật chất tinh
thần ngay từ đầu đã là nguồn gốc và nội dung của sự phát triển
tâm lý.
Sự phát triển tâm lý của trẻ chịu sự chi phối bởi những điều kiện
sống, bởi trình độ văn hoá của những người xung quanh, bởi
mức độ phong phú và tinh xảo của những phương tiện sống, bởi
những biến động của xã hội.
Sớm tiếp xúc với một nền văn hoá cao, đó là điều kiện thuận lợi
cho sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
Nền văn hoá chứa đựng kinh nghiệm xã hội-lịch sử của toàn
nhân loại, nhưng ở mỗi dân tộc, mỗi địa phương do những điều
kiện sống khác nhau nên đã hình thành nên những phong tục,
tập quán, truyền thống văn hoá khác nhau, tạo nên nền văn hoá
mang bản sắc dân tộc, bản sắc vùng miền.
Trong quá trình phát triển, trẻ tiếp nhận văn hoá theo hai con
đường:
1. Con đường tự phát: Là sự tiếp nhận một cách tự nhiên của các
yếu tố trong hoàn cảnh sống chủ yếu bằng bắt chước.
Với con đường này, sự phát triển tâm lý của trẻ mang tính chất
tuỳ tiện, những thành đạt nếu có trong bước đường lớn lên đều
mang tính ngẫu nhiên.
2. Con đường tự giác ( tức giáo dục ): Là sự tác động có mục
đích, có kế hoạch của người lớn đối với trẻ nhằm hình thành ở
trẻ những phẩm chất nhân cách đáp ứng những yêu cầu của xã
hội. Nói cách khác, giáo dục dưới dạng chung nhất là sự chuẩn
bị cho trẻ bước vào đời sống xã hội. Đây là con đường chủ yếu
để hình thành nhân cách cho trẻ em và để phát triển xã hội.
Ngày nay, với sự tiến bộ của “ công nghệ giáo dục”, người ta có
thể điều khiển sự phát triển một cách chủ động. Trước hết là
định hướng cho sự phát triển, lựa chọn nội dung và phương pháp
tổ chức hoạt động cho trẻ nhằm lĩnh hội những kinh nghiệm
trong nền văn hoá phù hợp với mỗi trình độ phát triển của trẻ
em.
Như vậy, văn hoá ( trong đó có cả giáo dục ) đóng vai trò cực kỳ
quan trọng đối với sự phát triển tâm lý và hình thành nhân cách
của trẻ em.. Nếu không được sống trong xã hội loài người,
không được tiếp xúc với nền văn hoá nhân loại thì đứa trẻ sẽ
không thể nên Người được.
Đối với trẻ ở lứa tuổi mầm non, văn hoá gia đình giữ vai trò đặc
biệt quan trọng.
Văn hoá gia đình là một môi trường đặc biệt, giúp cho sự phát
triển của trẻ thơ được thuận lợi. Trước hết vì đó là một môi
trường an toàn, trong đó đứa trẻ luôn ở bên cạnh những người
ruột thịt, luôn được thương yêu, ấp ủ nên đã tạo cho đứa trẻ cảm
giác an toàn về tâm lý, về thể chất.
Gia đình còn là một môi trường phong phú. Trong gia đình có
ông bà, cha mẹ, anh chị em, tạo ra những mối quan hệ đa dạng
giữa nhiều người ở độ tuổi khác nhau.Thế giới đồ vật trong nhà
nhiều hình, nhiều vẻ tạo điều kiện cho trẻ làm quen với xung
quanh.
Trong gia đình, trẻ được nuôi dạy theo một phương thức , khác
với phương thức giáo dục nhà trường. Thể hiện ở những đặc
điểm sau đây:
+ Gia đình chăm sóc dạy dỗ trẻ bằng tình thương yêu ruột thịt
+ Người lớn trong gia đình dạy trẻ bằng giao tiếp trực tiếp và
thường xuyên với các em.
+ Gia đình không tiến hành giáo dục đồng loạt đối với các cháu
trong cùng một nhóm. Gia đình chăm sóc, dạy dỗ từng cháu
một, phù hợp với đặc điểm riêng của mỗi cháu.
+ Giáo dục gia đình thường bằng nhiều hình thức mang tính chất
tổng hợp và đượm màu sắc nghệ thuật.
Tuy nhiên hiệu quả của giáo dục gia đình hoàn toàn phụ thuộc
vào trình độ văn hoá của mỗi thành viên, đặc biệt là trình độ văn
hoá của người mẹ.
Cùng với sự phát triển của xã hội gia đình cũng đã biến đổi về
cơ bản. Tuy vậy văn hoá gia đình vẫn luôn luôn đóng vai trò đặc
biệt quan trọng đối với trẻ thơ. Sau này khi lớn khôn, mỗi người
có thể chịu ảnh hưởng từ nhiều phía của nền văn hoá xã hội.
Nhưng những gì mà văn hoá gia đình đã hun đúc nên vẫn được
mang theo trong mỗi người đến suốt đời.
II. QUAN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG VÀ SỰ PHÁT TRIỂN
TÂM LÝ CỦA TRẺ:
Để phát triển, để nên người, đứa trẻ phải tự hoạt động để lĩnh
hội kinh nghiệm xã hội - lịch sử. Hoạt động không chỉ là nơi
tâm lý con người được bộc lộ mà chính là cái hình thành nên
tâm lý của con người.
Muốn phát triển tâm lý và hình thành nhân cách trẻ em thì nhất
thiết phải đưa chúng vào những hoạt động nhất định.Giáo dục
trước hết phải là quá trình tổ chức hoạt động tích cực của trẻ em,
qua đó mà chiếm lĩnh nền văn hoá của dân tộc và của nhân loại.
Những phẩm chất tâm lý được hình thành không chỉ phụ thuộc
vào tính tích cực hoạt động của cá nhân, mà còn phụ thuộc vào
chất lượng hoạt động.
Trong cuộc sống, con người có thể tham gia vào nhiều hoạt
động, song có những dạng hoạt động trong giai đoạn này là chủ
đạo, có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển tâm lý, nhân cách, còn
những hoạt động khác ít có ý nghĩa hơn, chỉ đóng vai trò thứ
yếu.
Ở mỗi giai đoạn phát triển có một hoạt động nhất định đóng vai
trò chủ đạo, hoạt động này có những đặc điểm sau đây:
+ Là hoạt động có đối tượng mới, chưa hề có trước đó. Chính
đối tượng mới này tạo ra những cái mới trong tâm lý, tức là tạo
ra những phát triển.
+ Là hoạt động có khả năng chi phối toàn bộ đời sống tâm lý
của trẻ em và tiếp theo đó những quá trình tâm lý sẽ được cải tổ,
được tổ chức lại bằng hoạt động này.
+ Là hoạt động có khả năng chi phối các hoạt động khác cùng
diễn ra đồng thời trong giai đoạn đó.
Nhờ những đặc điểm này, hoạt động chủ đạo đã tạo ra những nét
đặc trưng trong tâm lý của trẻ ở mỗi giai đoạn phát triển.
Căn cứ vào sự thay đổi cơ bản trong điều kiện sống và hoạt
động của trẻ, căn cứ vào những thay đổi trong cấu trúc tâm lý
của trẻ và sự trưởng thành cơ thể của trẻ em, các nhà tâm lý đã
chia ra một số thời kỳ chủ yếu trong sự phát triển tâm lý trẻ em:
+ Tuổi sơ sinh: mới sinh đến 2 tháng
Hoạt động chủ đạo :
+ Tuổi hài nhi: 2 tháng đến 12 tháng
Hoạt động chủ đạo : Giao tiếp xúc cảm trực tiếp với người lớn
+ Tuổi nhà trẻ ( ấu nhi): 1 tuổi đến 3 tuổi
Hoạt động chủ đạo : Hoạt động với đồ vật
+ Tuổi mẫu giáo: 3 tuổi đến 6 tuổi
Hoạt động chủ đạo : vui chơi ( trung tâm là trò chơi đóng vai
theo chủ đề )
+ Tuổi nhi đồng: 6 tuổi đến 11 tuổi
Hoạt động chủ đạo : Học tập
+ Tuổi thiếu niên: 11 tuổi đến 15 tuổi
Hoạt động chủ đạo : Học tập và giao lưu nhóm bạn thân
+ Tuổi đầu thanh niên: 15 tuổi đến 18 tuổi
Hoạt động chủ đạo : Học tập gắn với xu hướng nghề nghiệp,
hoạt động xã hội.
Tuy nhiên, cần nhớ rằng hoạt động chủ đạo không phải là hoạt
động duy nhất.
III. ĐIỀU KIỆN SINH HỌC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ
CỦA TRẺ:
Điều kiện sinh học bao gồm tất cả những yếu tố tạo nên hình
thái cơ thể con người, trong đó đặc biệt quan trọng là hệ thần
kinh, là cơ sở vật chất để diễn ra hoạt động tâm lý, như một đại
diện của loài người.
Các điều kiện sinh học không quyết định hoàn toàn sự phát triển
tâm lý của trẻ theo con đường di truyền sinh học, nhưng cũng
cần phải xác định rõ vai trò của nó trong sự phát triển ấy.
Ngay từ khi lọt lòng mẹ, trẻ đã kế thừa từ tổ tiên của mình cấu
tạo và chức năng cơ thể, đã có một hệ thần kinh với một bộ não
người có khả năng trở thành cơ quan hoạt động tâm lý cực kỳ
phức tạp mà chỉ con người mới có. Không có bộ não người thì
không thể nảy sinh các phẩm chất tâm lý của con người.
Điều kiện sinh học còn ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý của
trẻ ở những điều sau đây:
+ Những chức năng tâm lý sơ đẳng của con người như các cảm
giác gắn liền với các giác quan. Chất lượng hoạt động của các
giác quan sẽ ảnh hưởng đến các chức năng tâm lý bậc cao.
+ Kiểu hoạt động thần kinh cấp cao ( mạnh hay yếu; cân bằng
hay không cân bằng; linh hoạt hay không linh hoạt). Điều đó
ảnh hưởng đến cách bộc lộ của hoạt động tâm lý, khiến cho
hành vi của mỗi người mang sắc thái riêng.
+ Những độc tố trong cơ thể cha mẹ cũng ảnh hưởng lớn đến sự
phát triển tâm lý của trẻ em, nhất là đến trí tuệ. Chẳng hạn con
cái của những người bị nhiễm chất độc màu da cam, nghiện ma
tuý, nghiện rượu… sẽ làm cho những tế bào của vỏ bán cầu đại
não của con cái hoạt động không bình thường dẫn đến nhiều
khuyết tật trong đời sống tâm lý và thường là chậm phát triển trí
tuệ.
Tóm lại: Những điều kiện sinh học có ảnh hưởng lớn đến sự
phát triển tâm lý của trẻ. Ảnh hưởng đó là ở chỗ nó tạo điều kiện
thuận lợi hay gây trở ngại cho sự phát triển tâm lý với tốc độ
nhanh hay chậm, dễ dàng hay khó khăn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tam_ly_hoc_tre_em.pdf