Giai đoạn chuẩn bị: Giai đoạn này gồm các khâu:
Đặt ra và ý thức rõ ràng mục đích của hành động.
Lập kế hoạch và lựa chọn phương tiện, phương pháp hành động.
Quyết định hành động.
Trong giai đoạn này, con người phải đấu tranh để vượt qua mọi khó khăn trở ngại.
Giai đoạn thực hiện: Trong quá trình thực hiện hành động có thể gặp những khó
khăn trở ngại mà con người chưa lường trước được, đòi hỏi phải nỗ lực ý chí để
vượt qua nhằm thực hiện hành động đạt mục đích đã định.
Giai đoạn đánh giá kết quả hành động: Khi kết thúc hành động con người đối
chiếu kết quả với mục đích đã định. Khi kết quả của hành động phù hợp với mô
hình về mục đích của hành động thì hành động kết thúc.
Các giai đoạn trên có liên quan hữu cơ, tiếp nối nhau, là tiền đề của nhau.
29 trang |
Chia sẻ: ngocly | Lượt xem: 1735 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tâm lý học đại cương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài 1: TÂM LÝ HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC
ĐỐI TƯỢNG CỦA TÂM LÝ HỌC:
1. Tâm lý học là gì?
Tâm lý học là khoa học nghiên cứu tâm lý. Khoa học tâm lý ra đời từ năm 1879, chủ
yếu nghiên cứu đời sống tâm hồn của con người.
2. Đối tượng của tâm lý học:
Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học là toàn bộ đời sống tâm lý của con người như:
cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng, trí nhớ, tình cảm, nhu cầu, hứng thú, năng lực,
khí chất, tính cách…
II. BẢN CHẤT HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ NGƯỜI:
1.Tâm lý có bản chất phản ánh: Tâm lý là hình ảnh của từng người về hiện thực
khách quan.
Tất cả các hiện tượng tâm lý, từ những hiện tượng tâm lý đơn giản đến những thuộc
tính, phẩm chất phức tạp của nhân cách con người đều tồn tại ở trong não dưới dạng
hình ảnh này hay hình ảnh khác với mức độ phức tạp khác nhau. Điều kiện đầu tiên
để có các hình ảnh đó là phải có các hiện tượng, sự vật khách quan của thế giới bên
ngoài tác động tới các giác quan và não bộ bình thường của con người.
Tâm lý mang tính chủ quan của từng người. Tâm lý là phản ánh tồn tại khách quan,
nhưng sự phản ánh tâm lý không máy móc, nguyên xi như phản ánh cơ học, mà tâm lý
là tổng hoà các hình ảnh chủ quan ( hình ảnh tâm lý) về tồn tại khách quan.
2. Bản chất xã hội – lịch sử của tâm lý.
Để tồn tại và phát triển, thế hệ trước đã truyền đạt kinh nghiệm xã hội lịch sử cho thế
hệ sau. Thế hệ sau tiếp thu những kinh nghiệm và sáng tạo nên những giá trị vật chất,
tinh thần mới. Qua đó tâm lý con người được hình thành và phát triển
Con người tiếp thu nền văn minh nhân loại và biến thành tâm lý của bản thân. Tâm lý
mỗi người có cái chung của loài người, của dân tộc, của vùng, của địa phương nhưng
cũng có cái riêng của mỗi con người cụ thể.
Như vậy, mỗi người có một đời sống tâm lý riêng, một tâm hồn riêng. Tâm lý mỗi người
là kinh nghiệm xã hội lịch sử chuyển thành kinh nghiệm của bản thân.
Bài 2: Ý THỨC VÀ VÔ THỨC
I. Ý THỨC:
1.Khái niệm:
Ý thức là một hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ riêng con người mới có. Đó là
khả năng con người hiểu được các tri thức (hiểu biết) mà người đó đã tiếp thu
được.
Có thể ví ý thức như “ cặp mắt thứ hai” soi vào kết quả (các hình ảnh tâm lý) do
“cặp mắt thứ nhất“ (cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, cảm xúc…) mang lại. Với ý
nghĩa đó có thể nói: Ý thức là tồn tại được nhận thức.
2. Đặc điểm của ý thức:
Các hiện tượng tâm lý có ý thức của một người đều được người đó nhận thức.
Nghĩa là, con người biết rõ mình đang làm gì, nghĩ gì, hiểu rõ hành vi của bản thân
đúng hay sai, tốt hay xấu.
Ý thức được biểu hiện bằng ngôn ngữ. Con người dùng ngôn ngữ để nhận xét,
đánh giá phân tích những hiện tượng tâm lý của mình.
Các hiện tượng tâm lý có ý thức của một người thường bao hàm thái độ ít nhiều rõ
rệt của người ấy.
Ở mức độ cao, ý thức thường được kèm theo sự dự kiến trước, tính có chủ định…
và nhờ đó mà dẫn tới hành động.
3. Sự hình thành và phát triển ý thức:
Khác với con vật, con người không chỉ thích ứng một cách thụ động với môi trường
không chỉ lấy những gì có sẵn trong thiên nhiên mà con người chủ yếu tác động
làm biến đổi thiên nhiên để tạo ra những sản phẩm thoả mãn nhu cầu của mình.
Sở dĩ con người làm được như vậy là nhờ lao động. Lao động là một quá trình đòi
hỏi con người phải thấy trước kết quả lao động, có chương trình lao động, có
phương pháp lao động, biết phân tích đánh giá kết quả lao động. Làm như vậy,
chính là ý thức. Như vậy ý thức ra đời trong lao động.
Khi lao động cùng nhau, con người cần phải nói với nhau ý muốn của họ, xác định
mục đích của cả nhóm, cùng nhau bàn bạc… Nhờ đó làm nảy sinh ngôn ngữ. Nhờ
ngôn ngữ con người gọi tên sự vật, hiện tượng, đánh giá hành vi, hành động của
mình hay của cả nhóm. Như vậy ngôn ngữ là một yếu tố hình thành nên ý thức.
Lao động là một dạng hoạt động tập thể. Ngôn ngữ là hiện tượng xã hội. Vì vậy, ý
thức ngay từ đầu là sản phẩm của xã hội và luôn luôn là sản phẩm của xã hội.
Cùng với lao động và ngôn ngữ, xã hội là yếu tố hình thành nên ý thức.
Ở mỗi người, ý thức hình thành bằng hoạt động của bản thân thông qua sản phẩm
của hoạt động, trong quan hệ giữa mình và người khác và sử dụng ngôn ngữ của
mình làm công cụ.
II. VÔ THỨC:
1. Khái niệm:
Trong cuộc sống, cùng với các hiện tượng tâm lý có ý thức, chúng ta thường gặp
những hiện tượng tâm lý chưa có ý thức diễn ra chi phối hoạt động của con người
(người mắc chứng mộng du, người bị thôi miên…). Hiện tượng tâm lý không ý thức,
chưa nhận thức được, trong tâm lý học gọi là vô thức.
Vô thức là các hiện tượng tâm lý mà con người chưa nhận thức được, không diễn
đạt được bằng ngôn ngữ cho mình và cho người khác hiểu.
2. Đặc điểm của vô thức:
Con người không nhận thức được các hiện tượng tâm lý, các hành vi, cảm nghĩ của
mình. Những cảm nghĩ mà con người không nhận ra được, chúng như ẩn náu
trong một “ cõi lòng” tối tăm, nhưng vẫn chi phối hành vi.
Không diễn đạt được bằng ngôn ngữ cho mình và cho người khác hiểu.
Vô thức không bao hàm thái độ của con người. Lúc ở trạng thái vô thức, con người
không nhận xét, đánh giá gì về hành vi, thái độ, ngôn ngữ, cách cư xử của mình.
Vô thức thường không kèm theo sự dự kiến trước, không có chủ định
3. Vai trò của vô thức:
Vô thức đôi khi đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh, điều khiển hành vi
của con người. Qua phân tích các hành vi biểu hiện ở trạng thái vô thức giúp ta
hiểu được các hiệ tượng tâm lý (thái độ, suy nghĩ, quan hệ… của con người)
Toàn bộ đời sống tâm lý trẻ từ lọt lòng đến khoảng 15 – 18 tháng tuổi do vô thức
điều khiển. Một số biểu hiện vô thức trong đời sống tâm lý của trẻ là:
+ Trẻ chưa nhận ra được sơ đồ thân thể của mình, chưa nhận biết mình đau ở
đâu…
+ Chưa biết chủ động hướng âm thanh ngôn ngữ về phía người thân quen.
+ Chưa biết nhận ra mẹ, ra người thân.
+ Chưa sử dụng được âm thanh, lời nói để diễn đạt được nhu cầu sinh lý của
mình.
+ Trẻ làm theo, nói theo, bắt chước hành vi của người lớn một cách không chủ
định…
III. TỰ Ý THỨC:
1.Khái niệm:
Tự ý thức là sự phản ánh bản thân mình theo một mẫu mực nào đó và cố gắng
hoạt động theo đúng khuôn mẫu đó.
Tự ý thức là mức độ phát triển cao của ý thức. Tự ý thức bắt đầu hình thành từ tuổi
lên ba. Thông thường tự ý thức biểu hiện ở các mặt sau:
+ Cá nhân tự nhận thức về bản thân mình từ bên ngoài đến nội dung tâm hồn,
đến vị thế và các quan hệ xã hội.
+ Có thái độ đối với bản thân, tự nhận xét, đánh giá.
+ Tự điều khiển, tự điều chỉnh hành vi theo mục đích tự giác.
+ Có khả năng tự giáo dục, tự hoàn thiện
2. Vai trò của tự ý thức:
Tự ý thức tạo điều kiện cho con người tự điều khiển, điều chỉnh thái độ, hành vi,
hành động của họ.
Giúp con người xác định mục đích phù hợp, đánh giá mục đích hành động trong
mối tương quan với những đặc điểm của bản thân, lựa chọn các phương tiện, biện
pháp hành động phù hợp với khả năng, nhu cầu của bản thân.
Tự ý thức là điều kiện để con người trở thành chủ thể hành động độc lập, trở thành
chủ thể của xã hội.
Bài 3: HOẠT ĐỘNG, GIAO TIẾP VÀ NHÂN CÁCH.
I. HOẠT ĐỘNG:
1.Khái niệm về hoạt động:
Hoạt động là phương thức tồn tại của con người bằng cách tác động vào đối tượng
để tạo ra một sản phẩm tương ứng, nhằm thoả mãn (trực tiếp hay gián tiếp ) nhu
cầu của bản thân, nhóm và xã hội.
2. Cấu trúc của hoạt động:
Tất cả các hoạt động đều có một cấu trúc chung. Cấu trúc đó được nhà tâm lý học
A.N Lêônchiev mô tả như sau:
Động cơ của hoạt động là cái thúc đẩy con người hoạt động. Tuy nhiên động cơ
không hình thành rõ ngay một lúc. Động cơ thường hiện thân trong đối tượng, cùng
biến động theo đối tượng, mà lộ rõ dần dần theo tiến trình của hoạt động.
Hoạt động hợp thành bởi các hành động như là các bộ phận của hoạt động. Cái
mà hành động nhằm tới gọi là mục đích. Có thể coi động cơ là mục đích chung,
còn mục đích mà hành động nhằm tới là mục đích bộ phận. Có thể coi mục đích
chung là động cơ xa và mục đích bộ phận là động cơ gần.
Hành động bao giờ cũng để giải quyết một nhiệm vụ nhằm đạt tới mục đích đề ra
trong những điều kiện cụ thể nhất định, tức là mục đích bộ phận phải được cụ thể
hoá thêm một bước nữa, sự cụ thể hoá này được quy định bởi những điều kiện cụ
thể nơi diễn ra hành động. Nói cách khác là hành động của chủ thể phải hành
động theo một cách nào đó ứng với phương tiện tức là thao tác.
3. Phân loại hoạt động:
Có nhiều cách phân loại hoạt động:
a. Xét về phương diện phát triển cá thể, ta thấy trong đời người có bốn loại
hình hoạt động kế tiếp nhau:
Hoạt động vui chơi
Hoạt động học tập
Hoạt động lao động
Hoạt động nghỉ ngơi
Đối với sự phát triển của từng con người cụ thể, trong mỗi giai đoạn hoặc thời kỳ
phát triển của nhân cách con người, tuy có nhiều loại hình hoạt động trong đó vẫn
có một (hoặc có thể nhiều hơn ) hoạt động đóng vai trò chủ đạo.
b. Xét về phương diện sản phẩm (vật chất hay tinh thần ) người ta chia thành
hai loại hoạt động:
Hoạt động thực tiễn
Hoạt động lý luận
c. Còn có cách phân loại khác, chia hoạt động thành bốn loại:
Hoạt động biến đổi
Hoạt động nhận thức
Hoạt động định hướng giá trị
Hoạt động giao lưu
II. GIAO TIẾP:
1. Khái niệm giao tiếp:
Giao tiếp là quá trình tiếp xúc tâm lý giữa con người và con người nhằm mục đích
trao đổi tư tưởng, tình cảm, vốn sống, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp,
hoàn thiện nhân cách bản thân.
Giao tiếp là phương thức tồn tại của con người, là phương tiện cơ bản để hình
thành nhân cách trẻ.
2. Chức năng của giao tiếp:
Chức năng thông báo, định hướng: Qua quá trình giao tiếp, con người thông báo
cho nhau thông tin, tư tưởng, tình cảm… giúp con người định hướng hoạt động của
mình.
Chức năng điều khiển, điều chỉnh: Qua tiếp xúc, trao đổi thông tin, tư tưởng, tình
cảm, thái độ… con người điều khiển, điều chỉnh hành vi, thái độ, hành động của
mình cho phù hợp yêu cầu hoạt động.
Chức năng liên kết (nối mạch, tiếp xúc ): Nhờ có giao tiếp con người hợp đồng
được cùng nhau để làm việc cùng nhau.
Chức năng đồng nhất: Qua giao tiếp, cá nhân sẽ hoà nhập vào trong các nhóm xã
hội.
3. Các loại giao tiếp:
Có nhiều cách phân loại giao tiếp:
a. Theo phương tiện giao tiếp, có thể có ba loại giao tiếp sau:
Giao tiếp vật chất: giao tiếp thông qua hành động với vật thể.
Giao tiếp bằng tín hiệu: là loại giao tiếp bằng điệu bộ, cử chỉ, nét mặt…
Giao tiếp bằng ngôn ngữ:đây là hình thức giao tiếp đặc trưng của con người, xác
lập và vận hành mối quan hệ người – người trong xã hội.
b. Theo khoảng cách, có thể có hai loại giao tiếp cơ bản:
Giao tiếp trực tiếp: giao tiếp mặt đối mặt, các chủ thể trực tiếp phát và nhận tín hiệu
với nhau.
Giao tiếp gián tiếp: qua thư từ, báo chí truyền hình…
c. Qua quy cách, người ta chia hai loại giao tiếp:
Giao tiếp chính thức: giao tiếp nhằm thực hiện nhiệm vụ chung theo chức trách,
quy định, thể chế.
Giao tiếp không chính thức: giao tiếp giữa những người hiểu biết rõ về nhau, không
câu nệ thể thức, mà theo kiểu thân tình, nhằm mục đích chính là thông cảm, đồng
cảm với nhau.
Các loại quan hệ trên luôn tác động qua lại, bổ sung cho nhau, làm cho mối quan
hệ giao tiếp của con người vô cùng đa dạng, phong phú.
III. HÀNH VI:
1. Khái niệm hành vi:
Trong cuộc sống, không phải lúc nào con người cũng chỉ tiến hành hoạt động,
hành động với ý thức, mục đích động cơ rõ rệt, con người còn có những hành động
mà sự tham gia của ý thức không rõ rệt hoặc không có ý thức tham gia. Đó là
những hành động bản năng và hành động tự động hoá. Những hành động này ta
có thể gọi là hành vi.
Hành vi là toàn bộ những cử chỉ, phản ứng, thao tác trả lời đáp ứng những yêu cầu
tác động của thế giới khách quan hoặc do nhu cầu của con người.
2. Phân loại hành vi:
Theo lịch sử tiến hoá có ba loại hành vi:
a. Hành vi bản năng:
Bản năng là hành vi bẩm sinh, sản phẩm của sự phát triển chủng loại di truyền có
cơ chế sinh lý là phản xạ không điều kiện hoặc chuỗi phản xạ không điều kiện.
Bản năng xuất phát trực tiếp cơ thể và trực tiếp thoả mãn nhu cầu cơ thể. Nhờ bản
năng, mỗi thế hệ không cần được huấn luyện đặc biệt nào vẫn có thể làm được
những cái tổ tiên đã làm.
Ở động vật và trẻ mới sinh bản năng bị chi phối bởi vô thức. Nhưng với người
trưởng thành, do giáo dục, rèn luyện, bản năng con người mang đặc điểm lịch sử
loài người, mang tính chất xã hội.
b. Hành vi kỹ xảo:
Kỹ xảo là các thao tác hành động, cơ thể tự tạo nên bằng cách luyện tập, lặp đi lặp
lại nhiều lần đến mức thuần thục.
Cơ sở sinh lý của kỹ xảo là các phản xạ có điều kiện. Các kỹ xảo được hình thành
ở tất cả các động vật. Tuy nhiên ở người kỹ xảo chứa đựng nhiều yếu tố trí tuệ hơn
và quá trình luyện tập để hình thành kỹ xảo ở người có sự tham gia của ý chí và ý
thức với mức độ khác nhau.
c. Hành vi trí tuệ:
Hành vi trí tuệ là hành vi đặc trưng cho các động vật bậc cao. Hành vi trí tuệ là kiểu
hành vi mềm dẻo và hợp lý nhất trong những điều kiện sống luôn biến đổi.
IV. NHÂN CÁCH:
1. Khái niệm về nhân cách:
Nhân cách là tổng hoà những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý được nảy sinh
hình thành và phát triển trong các mối quan hệ xã hội. Mỗi con người có nhân cách
là thành viên của các mối quan hệ xã hội, chịu sự chi phối của các mối quan hệ đó.
2. Cấu trúc tâm lý của nhân cách:
Có nhiều quan điểm khác nhau về cấu trúc tâm lý của nhân cách. Ở đây chúng ta
xem xét cấu trúc tâm lý của nhân cách theo quan điểm coi nhân cách gồm có các
thành tố sau:
a. Tính cách và khí chất:
Tính cách:
Tính cách là thái độ của con người, thể hiện mối quan hệ của người đó đối với thế
giới xung quanh, biểu lộ ra bên ngoài bằng những phương thức hành vi quen thuộc.
Tính cách của con người là một chỉnh thể không thể chia cắt, ta có thể xem xét tính
cách qua những biểu hiện đặc trưng từng mặt được gọi là những nét tính cách như:
Những nét tính cách biểu hiện quan hệ của con người đối với xã hội, đối với nhóm
và những người xung quanh. Ví dụ: Tinh thần giúp đỡ bạn bè, lòng nhân ái, tính cởi
mở …
Những nét tính cách biểu hiện quan hệ của con người đối với lao động. Ví dụ: Yêu
lao động, tính kỷ luật, tinh thần tiết kiệm…
Những nét tính cách biểu hiện quan hệ của con người đối với chính mình. Ví dụ:
Tính khiêm tốn, tự trọng, tự ti…
Những nét tính cách biểu hiện ý chí của con người. Ví dụ: Tính mục đích, tính độc
lập, tính tự kiềm chế…
Khi xem xét, đánh giá tính cách của trẻ, giáo viên cần chú đến từng nét tính cách
trong mối quan hệ lẫn nhau.
Khí chất:
Khí chất là thuộc tính tâm lý phức hợp của cá nhân, biểu hiện cường độ, tiến độ,
nhịp độ của các hoạt động tâm lý thể hiện sắc thái của hành vi, cử chỉ, cách nói
năng của cá nhân.
Các kiểu khí chất:
+ Kiểu khí chất linh hoạt: Những trẻ thuộc loại khí chất này thường năng động, linh
hoạt, ham thích tìm tòi cái mới. Các em thường nhạy cảm, vui vẻ, nhưng xúc cảm
không bền vững, sâu sắc. Các em dễ tiếp xúc, dễ hoà nhập vào nhóm bạn, dễ tiếp
thu cái mới nhưng cũng dễ di chuyển chú ý, chóng quên, khó ngồi yên một chỗ.
Nếu có phương pháp giáo dục thích hợp thì trẻ sẽ hăng say học tập, có lòng vị tha,
quan tâm bạn bè… ngược lại, nếu phương pháp giáo dục không tốt trẻ sẽ dễ bị nhẹ
dạ, nông nổi, vô tâm, không thực hiện công việc đến nơi đến chốn…
+ Kiểu khí chất bình thản: Trẻ thuộc loại này thường điềm tĩnh, chậm chạp, không
hiếu động, khó quen với hoàn cảnh mới. Trong vui chơi, sinh hoạt thường kiên trì,
cố gắng hoàn thành công việc. Nếu biết động viên, lôi kéo trẻ vào hoạt động của
nhóm thì sẽ dễ hình thành những nét tính cách tốt như chuyên cần, kiên trì, chắc
chắn. Ngược lại sẽ dễ phát triển tính ỳ, thụ động, thờ ơ, lãnh đạm…
+ Kiểu khí chất nóng nảy: Trẻ thuộc loại này thường dễ xúc động, hành động
nhanh nhưng không bền vững. Xúc cảm mạnh, dễ thay đổi, dễ cáu, tính tình nóng
nảy. Nếu giáo viên nhẹ nhàng, tế nhị, không quát tháo, trẻ sẽ nhiệt tình, hăng say,
có sáng kiến. Ngược lại, trẻ dễ thô lỗ, cục cằn, dễ bị kích động.
+ Kiểu khí chất ưu tư: Trẻ thuộc loại này các quá trình tâm lý diễn ra chậm chạp,
khó đáp ứng với những kích thích mạnh, kéo dài, khó thích nghi với môi trường mới.
Trẻ dễ lo sợ, xúc cảm xuất hiện muộn nhưng sâu sắc, bền vững. Nếu giáo viên tế
nhị, luôn động viên, khuyến khích trẻ sẽ tạo cho trẻ tính kiên trì, tế nhị, nhạy cảm.
Ngược lại sẽ làm trẻ nhút nhát, xa lánh bạn bè.
Bốn kiểu khí chất trên không có kiểu nào là tốt và xấu, mỗi kiểu đều có mặt tích
cực và tiêu cực. Dù trẻ thuộc bất kỳ kiểu khí chất nào, ta đều có thể giáo dục, hình
thành ở trẻ những nét tính cách tích cực, những phẩm chất tốt của nhân cách.
b. Xu hướng và năng lực:
Xu hướng:
Xu hướng xác định mục đích mà cá nhân hướng tới, xác định động cơ tương ứng
với hoạt động của con người.
Các mặt biểu hiện của xu hướng:
+ Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý biểu thị mối quan hệ tích cực của cá nhân đối
với hoàn cảnh, là sự đòi hỏi tất yếu mà cá nhân cần thoả mãn để tồn tại và phát
triển.
+ Hứng thú: Là thái độ đặc biệt của cá nhân với một đối tượng nào đó vừa có ý
nghĩa đối với cuộc sống, vừa mang lại một khoái cảm cho cá nhân trong quá trình
hoạt động.
+ Lý tưởng: Là một mục tiêu cao đẹp được phản ánh vào đầu óc con người dưới
hình thức một hình ảnh mẫu mực và hoàn chỉnh có tác dụng lôi cuốn mạnh mẽ
toàn bộ cuộc sống của cá nhân trong thời gian tương đối lâu dài vào hoạt động
nhằm vươn tới mục tiêu cao đẹp đó.
+ Thế giới quan: Là hệ thống quan điểm của mỗi người về thế giới.
Niềm tin: Là cái kết tinh, đọng lại thành chân lý vững bền, không thay đổi trong
nhận thức và tình cảm của mỗi người.
Năng lực:
Năng lực là những đặc điểm tâm lý cá nhân đáp ứng được đòi hỏi của hoạt động
nhất định nào đó và là điều kiện để thực hiện có kết quả hoạt động đó.
Tiền đề tự nhiên của sự phát triển năng lực gọi là tư chất.
Sự xuất hiện sớm (lúc tuổi còn nhỏ ) của năng lực ở mức độ cao gọi là năng khiếu.
3. Các yếu tố chi phối sự hình thành và phát triển nhân cách:
a. Yếu tố bẩm sinh di truyền:
Các yếu tố bẩm sinh di truyền như đặc điểm hoạt động của hệ thần kinh, cấu tạo
của não, cấu tạo và hoạt động của các giác quan…Những yếu tố này sinh ra đã có
do được bố mẹ truyền lại hoặc tự nảy sinh do biến dị (bẩm sinh ).
Các yếu tố bẩm sinh, di truyền đóng vai trò tiền đề tự nhiên trong sự phát triển
nhân cách.
b. Môi trường:
Môi trường tự nhiên và xã hội có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển nhân
cách trẻ.
Môi trường xã hội bao gồm: môi trường chính trị, kinh tế, văn hoá … có vai trò rất
quan trọng trong sự phát triển nhân cách.
Đối với trẻ em, môi trường gia đình, nhà trường, bạn bè, hàng xóm và những
phương tiện thông tin đại chúng… có tác động trực tiếp và mạnh mẽ đối với sự phát
triển nhân cách các em.
Giáo dục của nhà trường, gia đình và xã hội nếu được tổ chức đúng đắn, có cơ sở
khoa học, đóng vai trò chủ đạo đối với sự phát triển nhân cách trẻ.
Tuy nhiên nếu trẻ không tham gia vui chơi với bạn bè, không bắt chước những
hành vi, cách xử sự của người lớn, không học tập thì trẻ sẽ không thể phát triển đầy
đủ những phẩm chất và năng lực của nhân cách. Vì vậy, người lớn cần phải hướng
dẫn, tổ chức và lôi kéo trẻ tham gia tích cực vào các hoạt động để giúp hình thành
và phát triển nhân cách trẻ.
Bài 4 : CHÚ Ý
I. KHÁI NIỆM VỀ CHÚ Ý:
1. Định nghĩa chú ý :
Chú ý là sự tập trung vào một hay một nhóm đối tượng, sự vật nào đó để định
hướng hoạt động, bảo đảm điều kiện thần kinh – tâm lý cần thiết cho hoạt động
tiến hành có kết quả.
2. Vai trò của chú ý :
Chú ý là điều kiện cần thiết để tiến hành hoạt động. Do tính chọn lọc của chú ý,
nên nó giúp cho hoạt động tâm lý ở người tập trung vào đối tượng này mà bỏ qua
hoặc xao lãng đối tượng khác. Nhờ vậy, hoạt động tâm lý có ý thức hơn, các hoạt
động tập trung hơn, kết quả hoạt động sẽ cao hơn.
II. PHÂN LOẠI CHÚ Ý: Có 3 loại chú ý:
1. Chú ý không chủ định:
Là loại chú ý không có mục đích đặt ra trước, không cần sự nỗ lực của bản thân.
Chú ý không chủ định chủ yếu do tác động bên ngoài gây ra, phụ thuộc vào đặc
điểm của vật kích thích như :
Độ mới lạ của kích thích.
Cường độ kích thích.
Độ hấp dẫn của kích thích.
Loại kích thích này thường nhẹ nhàng, ít căng thẳng nhưng kém bền vững, khó
duy trì lâu.
2. Chú ý có chủ định :
Là loại chú ý có mục đích định trước và phải có sự nỗ lực của bản thân. Do đã xác
định mục đích của hoạt động nên chủ thể vẫn tập trung vào đối tượng hoạt động,
vẫn tiến hành hoạt động không phụ thuộc vào các đặc điểm của kích thích.
3. Chú ý sau chủ định :
Là chú ý lúc đầu do mục đích định trước, về sao do hứng thú với hoạt động mà
chú ý có chủ định đã phát triển đến mức chủ thể không cần nỗ lực ý chí vẫn tập
trung vào đối tượng hoạt động.
Loại chú ý này giúp cho hoạt động của con người giảm được căng thẳng thần kinh,
giảm được tiêu hao năng lượng. Nó bộc lộ ở trạng thái say sưa công việc của con
người.
III. CÁC THUỘC TÍNH CỦA CHÚ Ý:
1. Sức tập trung của chú ý : Là khả năng chú ý đến một phạm vi đối tượng tương
đối hẹp, cần thiết cho hoạt động lúc đó và không để ý đến mọi chuyện khác. Số
lượng các đối tượng mà chú ý hướng tới gọi là khối lượng chú ý.
2. Cường độ của chú ý : Là sự tiêu hao năng lượng thần kinh để thực hiện hoạt
động.
3. Sự bền vững của chú ý : Là khả năng duy trì lâu dài chú ý vào một hoặc một số
đối tượng. Ngược với tính bền vững của chú ý là sự phân tán chú ý. Tính bền vững
của chú ý có liên quan mật thiết với những điều kiện khách quan của hoạt động và
những đặc điểm của mỗi cá nhân.
4.Sự di chuyển chú ý : Là khả năng chuyển chú ý từ đối tượng này sang đối
tượng khác.
5. Sự phân phối chú ý : Là khả năng chú ý đồng thời tới một số đối tượng với mức
độ rõ ràng như nhau.
Bài 5: NGÔN NGỮ
I. KHÁI NIỆM NGÔN NGỮ:
Cần phân biệt khái niệm ngữ ngôn và ngôn ngữ.
1. Ngữ ngôn:
Ngữ ngôn là một thứ tiếng của một dân tộc. Ngữ ngôn bao gồm một hệ thống các
ký hiệu, từ, ngữ và hệ thống các quy tắc ngữ pháp. Ngữ ngôn là đối tượng nghiên
cứu của ngôn ngữ học.
2. Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ là quá trình mỗi cá nhân sử dụng một thứ ngữ ngôn để giao tiếp, để
truyền đạt để lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội – lịch sử, hoặc để kế hoạch hoá
hoạt động của mình. Ngôn ngữ là đối tượng của tâm lý học.
Như vậy, ngữ ngôn là phương tiện hay công cụ để giao tiếp, truyền đạt và lĩnh hội
kinh nghiệm… còn ngôn ngữ chính là quá trình sử dụng ngữ ngôn để giao tiếp,
truyền đạt, lĩnh hội kinh nghiệm.
II. CHỨC NĂNG CỦA NGÔN NGỮ:
Ngôn ngữ có bốn chức năng cơ bản là:
Chức năng chỉ nghĩa:
Là quá trình dùng một từ, một câu để chỉ một nghĩa nào đó, tức là quá trình gắn từ
đó, câu đó… với một sự vật hiện tượng.
Chức năng chỉ ý:
Mỗi từ, câu… có chức năng chỉ “nghĩa” của nó đối với riêng người nói từ ấy, câu
ấy, tức là chúng có ý riêng của từng người.
Chức năng thông báo:
Mỗi quá trình ngôn ngữ đều chứa đựng một nội dung thông tin, sự biểu cảm dùng
để truyền đạt từ người này đến người kia, hay tự nói với bản thân mình.
Chức năng điều khiển, điều chỉnh:
Ngôn ngữ có chức năng thiết lập và giải quyết các nhiệm vụ của các hoạt động
(trong đó có hoạt động trí tuệ). Nó bao gồm kế hoạch hoá hoạt động, thực hiện
hoạt động và đối chiếu kết quả hoạt động với mục đích đã đề ra.
III. PHÂN LOẠI NGÔN NGỮ:
Có nhiều cách phân chia các loại ngôn ngữ. Thông thường, người ta đề cập đến
hai dạng ngôn ngữ. Ngôn ngữ bên ngoài, ngôn ngữ bên trong.
1. Ngôn ngữ bên ngoài:
Ngôn ngữ bên ngoài là ngôn ngữ chủ yếu hướng vào người khác, nhằm mục đích
giao tiếp. Ngôn ngữ bên ngoài bao gồm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
Ngôn ngữ nói: là thứ ngôn ngữ có trước. Ngôn ngữ nói biểu hiện bằng âm thanh và
được tiếp thu bằng cơ quan thính giác. Có hai loại ngôn ngữ nói: ngôn ngữ đối
thoại và ngôn ngữ độc thoại.
Ngôn ngữ đối thoại nhằm trao đổi thông tin giữa hai hay một số người với nhau.
Ngôn ngữ độc thoại là loại ngôn ngữ trong đó một người nói và những người khác
nghe.
Ngôn ngữ viết: ngôn ngữ viết ra đời muộn hơn ngôn ngữ nói. Ngôn ngữ viết là ngôn
ngữ được biểu hiện bằng ký hiệu, tín hiệu, chữ viết.
2. Ngôn ngữ bên trong:
Đây là một dạng đặc biệt của ngôn ngữ, nó hướng vào bản thân chủ thể. Ngôn
ngữ bên trong là vỏ từ ngữ của tư duy, của ý thức, giúp con người tự điều khiển, tự
điều chỉnh mình. Ngôn ngữ bên trong có thể biểu hiện qua ngôn ngữ thầm không
phát ra âm thanh hoặc ngôn ngữ bên trong thực sự dành cho bản thân.
BÀI 6: NHẬN THỨC CẢM TÍNH
Nhận thức cảm tính là mức độ nhận thức đầu tiên bao gồm cảm giác và tri giác.
I. ĐỊNH NGHĨA CẢM GIÁC VÀ TRI GIÁC:
1. Cảm giác:
Cảm giác là quá trình nhận thức phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính của
sự vật, hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào giác quan.
2. Tri giác:
Tri giác là quá trình nhận thức phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính của sự
vật hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động vào các giác quan.
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA CẢM GIÁC VÀ TRI GIÁC:
1. Đặc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tam_ly_hoc_dai_cuong_0788.pdf