Tạo mọi điều kiện cho trẻ phát triển tốt là mối
quan tâm hàng đầu của người lớn. Sự phát triển của
trẻ bao gồm nhiều mặt, có thể quy về hai mặt chính:
phát triển về sinh lí và tâm lí. Bản thân hai mặt này lại
có liên quan rất chặt chẽ với nhau và có quan hệ mật
thiết với môi trường sống của trẻ. Trong quá trình phát
triển, trẻ em có thể có những phát triển không bình
thường hoặc có rối loạn, nói cách khác là có bệnh, cả
về thực thể lẫn tâm lí. Chăm sóc trẻ không thể chỉ về
mặt thực thể mà còn cần phải chăm sóc cả về mặt tâm
lí. Phát hiện sớm những bệnh chứng tâm lí của trẻ để
có những can thiệp kịp thời là rất cần thiết, có lợi cho
sự phát triển
307 trang |
Chia sẻ: phuongt97 | Lượt xem: 1671 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tâm bệnh học trẻ em lứa tuổi mầm non - Nguyễn Thị Như Mai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i loạn sự ngon miệng, lúc thì chán ăn lúc
thì háu ăn, đái dầm, ra đùn. Trẻ có thể nhạy cảm đặc
biệt với sự chia li, tăng cường tìm kiếm quan hệ,
không ngừng tìm cách làm vui lòng người lớn. Thường
có mặc cảm tội lỗi tưởng tượng và tìm cách làm cho
người lớn trừng phạt nên bị coi là ngu ngốc.
c. Tiến triển
Trầm cảm ở trẻ em được giảm nhẹ chút ít
một cách tự nhiên theo thời gian. Khác với tuổi thanh
thiếu niên và người lớn, trầm cảm ở trẻ hiếm khi dẫn
đến tự sát Những hành vi hung tính có thể trở thành
kiểu tự vệ quen thuộc của trẻ, một hình thức tính cách
che dấu trầm cảm.
Kết quả nghiên cứu tiền sử bệnh trầm cảm ở
người lớn và những nghiên cứu theo quá trình phát
triển của trẻ chỉ ra rằng trầm cảm thường diễn ra trong
suốt tuổi trẻ em cho tới tuổi thiếu niên và người lớn.
Trầm cảm nặng của người mẹ thường là nguyên nhân
của những trường hợp này.
d. Chữa trị
Chữa trị trầm cảm có thể là cho chính trẻ
hoặc cả cho gia đình của trẻ. Sẽ thuận lợi hơn nếu tình
trạng trầm cảm không kèm theo những rối loạn kiểu
khác. Nếu trẻ trầm cảm mà lại có rối loạn như không
ổn định tâm vận động, hung tính, cáu giận hoặc mất
ngủ thì việc xác định tình trạng trầm cảm sẽ khó khăn
hơn nhiều. Trường hợp này sự thể hiện tự nhiên bị
giảm đi, đứa trẻ chơi ít, vẽ theo một kiểu... ít thể hiện
những đặc điểm đặc trưng. Có thể dùng các trắc
nghiệm phóng chiếu để chẩn đoán tình trạng của trẻ.
Đánh giá tình trạng gia đình là rất quan trọng
đối với việc chữa trị. Trầm cảm của cha hoặc mẹ,
những chia li trong gia đình, những xung đột... là
nguyên nhân và đồng thời góp phần duy trì sự trầm
cảm của trẻ.
Trị liệu tâm lí cho trẻ được sử dụng nhưng
phải tùy thuộc vào độ tuổi và những điều kiện cụ thể
của nhà trị liệu, điều kiện sống của trẻ. Cũng có thể
dùng trị liệu về nhận thức, kịch tâm lí, hỗ trợ chữa trị lấy
cơ thể làm trung gian. Đối với trẻ nhỏ, những giúp đỡ
dành cho cha mẹ giữ vai trò rất quan trọng. Chữa trị
cặp đôi mẹ và bé đặc biệt cần thiết và hiệu quả đối với
trẻ từ 2 - 6 tuổi.
Trong trường hợp môi trường sống của trẻ có
vấn đề (thiếu hụt nặng, cha mẹ chết, chia li cha mẹ
tạm thời, lo sợ bị bỏ rơi tưởng tượng...), là nguyên
nhân của trầm cảm của trẻ thì phải tùy thuộc vào từng
trường hợp để xử lí. Lúc này can thiệp chữa trị nhằm
mục đích thay đổi cho tốt hơn quan hệ mẹ và bé hoặc
tạo cho trẻ một môi trường tốt hơn ngoài gia đình.
Thuốc rất hiếm khi được dùng và chỉ dùng
cho những bệnh rất nặng trong một thời gian ngắn.
2.4. Tự kỉ
Những nghiên cứu về bệnh tự kỉ góp phần to
lớn vào việc hiểu biết sự phát triển ban đầu của tâm lí
trẻ em. Những kết quả thu được từ việc quan sát hội
chứng này và những rối loạn có liên quan rất có ích đối
với việc giải thích nhiều lĩnh vực của tâm lí bình thường
và bệnh lí.
a. Những nghiên cứu mô tả ban đầu về tự kỉ
Kanner năm 1943 đã mô tả 11 trường hợp trẻ
em thể hiện những đặc điểm tâm lí đặc biệt được các
nhà tâm bệnh lí và tâm lí học quan tâm bởi vì đã làm rõ
đặc trưng về mặt lâm sàng tâm lí trẻ em. Sự mô tả của
ông chính xác và đầy đủ đến mức mà từ đó đến nay chỉ
có ít yếu tố khác được đưa thêm vào.
Theo Kanner, dấu hiệu rõ nhất và cơ bản nhất
của những trẻ này là không có khả năng tạo dựng các
mối quan hệ với con người. Ông đề cập đến hai hội
chứng khác nhau: tự kỉ và không chịu được những thay
đổi.
- Tự kỉ là cái mà ông cho là ưu thế của đời
sống bên trong và lưu ý rằng đó không phải là một rối
loạn giống như tâm thần phân liệt ở người lớn.
- Không chịu được sự thay đổi là nhu cầu duy
trì sự giống nhau của môi trường và tôn trọng sự
không thay đổi quy trình trong các hoạt động của trẻ.
Cũng trong năm đó, độc lập với Kanner,
Asperger cũng miêu tả những trẻ biểu hiện cùng một
hội chứng như Kanner đã nói đến nhưng ít sâu sắc và
trầm trọng hơn và ông coi đó là những trẻ nhân cách
bệnh kiểu tự kỉ.
b. Khái niệm
Theo cách phân loại CIM-10, DSM-IV, tự kỉ
thuộc vào những rối loạn phát triển lan tỏa. Tự kỉ luôn
có những đặc điểm sau:
- Bất thường về khả năng giao tiếp.
- Bất thường trong quan hệ tương tác xã hội.
- Hành vi, hứng thú, hoạt động lặp lại và định
hình.
Được biểu hiện rõ từ 30 - 36 tháng nhưng
những dấu hiệu ban đầu có thể được nhận thấy ngay
trong năm đầu tiên. Tỉ lệ mắc trung bình là 5/10.000 trẻ
(Fombonne, 1995) và tỉ lệ trai gái là 3 / 1.
Trong số các trẻ mắc tự kỉ chỉ có khoảng có
chỉ số khôn (QI/IQ) lớn hơn hoặc bằng 70, 2 /3 chậm trí
tuệ vừa và nặng (QI < 50).
c. Mô tả lâm sàng
- Hội chứng tự kỉ điển hình
Được hình thành dần dần, hội chứng biểu
hiện rõ ràng lúc 2 -3 tuổi và có những đặc điểm đặc
trưng sau:
* Rối loạn quan hệ
Không có khả năng thiết lập các quan hệ. Suy
giảm quan hệ tương tác xã hội làm cho trẻ đơn độc.
Trẻ từ chối hoặc trốn tiếp xúc bằng mắt, thiếu biểu hiện
bằng nét mặt và không trao đổi bằng điệu bộ cử chỉ,
không có sự tiếp xúc và trao đổi bằng trương lực cơ.
Trẻ tự kỉ không tìm cách để giao tiếp, không tìm cách
để làm cho người khác chú ý, không dõi theo bằng
mắt, không bắt chước. Trẻ không biểu lộ sự hài lòng,
vui thích, không chia sẻ sự quan tâm hứng thú, không
có hành động chỉ chỏ mà dùng người khác như là một
phần của cơ thể mình, ví dụ không chỉ vào các đồ vật
muốn lấy mà kẻo người lớn đến nơi lấy. Trẻ có ánh
nhìn trống rỗng, xa lạ, dửng dưng.
Nếu người khác có ý định tăng cường quan
hệ, trẻ chạy trốn, biểu hiện sự kích động và kêu lên. Cô
độc, nó tỏ ra dửng dưng, căng thẳng, không thỏa mãn.
Không tìm kiếm sự an ủi của cha mẹ khi bị đau ốm,
thường có cảm tưởng rằng trẻ dửng dưng với đau
đớn.
Thiếu quan hệ tình cảm với cha mẹ tương
phản với hứng thú mà trẻ có đối với nhìn ngắm đồ vật
hoặc với các cảm giác của bản thân.
* Rối loạn giao tiếp và ngôn ngữ
Ngôn ngữ không phát triển ở tuổi thông
thường và cũng không có bất kì ý định giao tiếp bằng
cử chỉ hoặc điệu bộ nào. Không chơi trò chơi đóng vai,
trò chơi bắt chước.
Khi có ngôn ngữ thì cũng có những khác biệt:
không chỉ chậm mà còn có hiện tượng lặp lại lời
người đối thoại như tiếng vang, âm điệu lời nói rất đơn
điệu, giật cục, thiếu tự nhiên, lẫn lộn khi dùng đại từ
nhân xung, câu cú nghèo nàn, không biểu hiện cảm
xúc. Nếu mức độ thông hiểu ngôn ngữ tốt hơn mức độ
thể hiện ngôn ngữ thì vẫn có những bất thường: trẻ
chủ yếu chỉ hiểu những từ cụ thể những câu đơn giản.
Nếu người nói dùng ngôn ngữ phức tạp hơn như là
dùng từ trừu tượng để chỉ cảm xúc, câu hài hước,
phỏng vấn... sẽ làm trẻ lúng túng và từ chối giao tiếp.
* Cách phản ứng lạ và hứng thú bị hạn chế
Phản ứng lo hãi, hung tính hoặc giận dữ có
thể xảy ra đột ngột nhân việc thay đổi môi trường (thay
đổi đồ đạc trong phòng, thay đổi đường đi, mất đồ
chơi, đổi kiểu tóc...) hoặc do trẻ bị bất ngờ (tiếng động
bất ngờ, có người lạ...). Những biểu hiện giận dữ, lo
hãi hoặc bất lực này cũng có thể là cách trẻ đáp lại
hẫng hụt, cấm đoán hoặc lôi kéo người lớn giao tiếp.
Những thói quen và nghi thức làm cho cuộc
sống của trẻ có tính bất biến và máy móc. Hứng thú bị
hạn chế và vận động có tính định hình, lặp lại: đập tay,
vặn tay, đu đưa người, đi bằng mũi chân, quay vòng,
vận động cả cơ thể. Sử dụng những đồ vật đặc biệt
(viên đá, sợi dây thép, một mẩu đồ chơi) và thay đổi
chức năng của đồ vật (quay liên tục bánh xe ôm đồ
chơi...).
Thích thú với một phần nào đó của vật (ví dụ
như thích mùi và có hành động đánh hơi, thích những
đồ vật sần sùi và mải mê sờ bề mặt đồ vật, thích gãi, bị
hấp dẫn bởi những rung lắc hoặc tiếng ồn do chính
mình tạo ra). Hầu như trẻ không có những trò chơi có
tính tượng trưng, trò chơi bắt chước, trò chơi chứa
đựng những tình huống xã hội quen thuộc.
* Cảm giác và vận động biến đổi
Có tình trạng giảm hoặc tăng phản ứng đối
với những kích thích về giác quan ở nhiều trẻ tự kỉ,
chúng hay làm những việc như: quay một đồ vật, đu
đưa người, đập tay, xoay tròn, miệng và họng phát ra
tiếng kêu, mút lưỡi... Ngược lại, trẻ lại thường dửng
dưng với môi trường âm thanh, đặc biệt là âm thanh
ngôn ngữ (không trả lời khi gọi tên) và thích thú với
những tiếng động hoặc âm thanh đặc biệt như tiếng
máy hút bụi, tiếng nước chảy, tiếng nhạc hoặc hát,
tiếng giấy bị vò nhàu... Một số tiếng động làm trẻ
hoảng sợ, kinh hãi, cáu giận chủ yếu do làm trẻ bị bất
ngờ.
Khi có một mình, hay thấy trẻ quan sát bàn tay
hoặc một đồ vật mà nó cầm nắm trong tay khá lâu. Rất
thích các đồ vật quay: con quay, đồng tiền xu, bánh xe...
Đôi khi, trẻ giữ một vật nhỏ trong tay rất chặt. Thường
đó là một đồ chơi mà trẻ không dùng để chơi nhưng
dường như bị gắn dính vào.
Có cả những biểu hiện lạ trong lĩnh vực vị
giác (khó khăn, cầu kì trong ăn uống, sở thích lạ như
thích ăn giấm), thị giác (bị hấp dẫn bởi một màu sắc,
hình dạng, vật lấp lánh, ánh phản chiếu...). Trẻ tự kỉ có
thể mải mê sờ mó một đồ vật có bề mặt mấp mô, uốn
lượn; lắng nghe tiếng động của nước trong đường ống
hoặc bị hấp dẫn bởi ánh sáng của tia mặt trời. Cũng
có trẻ say mê với những cảm giác cơ thể.
Dửng dưng với chia li, trẻ không sợ bóng tối
nhưng lại thể hiện sự sợ hãi có tính ám sợ với một số
đồ vật nào đó.
Vận động có thể bị hạn chế, đông cứng, bất
động, thiếu chủ động. Ngược lại trẻ có thể bị kích
động, vận động không ngừng nghỉ với tư thế và điều
hòa vận động lạ lùng (vẻ giật cục, máy móc). Dáng đi
nặng nề. Trẻ thường bước đi bằng mũi bàn chân và có
cảm tưởng như nó lướt trên mặt đất.
Trẻ tự kỉ thường có những vận động định
hình, nhất là khi bực mình. Thường thấy những đu đưa
thân mình, xoay tròn cơ thể, cánh tay cử động nhiều,
những hành động lạ của bàn tay. Có thể có những
hành động như đập đầu vào tường, tự cào cấu và cắn
mình.
* Không chịu được thay đổi.
Mối quan tâm lo lắng đáng kể của trẻ là tránh
tất cả những thay đổi trong thu xếp đồ đạc, những biến
đổi trong thói quen gia đình. Với trẻ bình thường
những quy định, nghi thức đôi khi chỉ mang tính chất
chơi thì lại có tầm quan trọng đặc biệt đối với trẻ tự kỉ,
làm trẻ hoảng sợ nếu như có sự thay đổi. Những lối đi
phải giống hệt nhau, các hoạt động phải được thực
hiện theo đúng một trật tự. Một người lạ đến thăm có
thể làm khởi phát những sợ hãi... Mọi thứ với trẻ phải
không được thay đổi.
* Khá năng trí tuệ suy giảm
Trẻ tự kỉ thường có mức độ trí tuệ chung thấp
hơn trẻ bình thường và trí tuệ không thuần nhất: mặt tri
giác thị giác, tri giác không gian và trí nhớ thường tốt
hơn khả năng suy luận và xử lí các thông tin. Phần lớn
trẻ có mức trí làm thấp hơn 70 và mức trí tuệ chung
thấp hơn 55 mặc dù cũng có trẻ tự kỉ trí tuệ bình
thường. Thường có sự thiên lệch kết quả về phía thực
nghiệm không dùng lời và mức độ không thuần nhất
lớn.
- Những biểu hiện ban đầu
Tìm hiểu các trường hợp bệnh tự kỉ cho thấy
các triệu chứng xuất hiện vào năm đầu tiên nhưng
những biểu hiện không ồn ào và không đặc trưng.
Những dấu hiệu thường thấy ở trẻ nhỏ có nguy cơ mắc
bệnh tự kỉ là:
* Giai đoạn từ 0 đến 6 tháng.
Khác với những đứa trẻ khác, trẻ rất ngoan,
không khóc, không bao giờ đòi hỏi. Bé dường như làm
cho mọi người quên lãng.
Trẻ thờ ơ không khóc khi mẹ hoặc người thân
đi khỏi, cũng không có phản ứng gì khi có người khác
lại gần.
Có rối loạn trương lực dưới hình thức giảm
trương lực, mềm nhẽo. Không có những biểu hiện của
đối đáp trương lực khi 2 - 3 tháng, tức là không có sự
đáp lại phù hợp đối với những tác động qua lại về mặt
trương lực cơ khi được mẹ và người khác ôm ấp.
Ngược lại, cũng có khi trẻ có thái độ căng cứng, tăng
trương lực với những điệu bộ hoa chân múa tay không
ngừng. Không có tư thế thích hợp, thỏa đáng khi được
người khác ôm trong vòng tay.
Hầu như không có những biểu hiện để người
khác có thể dự đoán trước được về hành vi, cử chỉ. Cụ
thể như rất hiếm khi có những hành động làm cho
người khác nghĩ là trẻ muốn được bế lên khi nó nằm
trong nôi.
Thường xuyên rời bỏ cái nhìn của người khác.
Đây là một biểu hiện sớm của sự lẩn tránh cái nhìn,
một đặc trưng của trẻ mắc chứng tự kỉ.
Trẻ hay bị lác mắt.
Rối loạn giấc ngủ theo hướng mất ngủ một
cách yên lặng: trẻ không động đậy mắt mở to nằm
trong giường.
Rối loạn về ăn uống: không bú mút, biếng ăn.
Lúc ăn sữa chảy ra khỏi miệng do trương lực môi
miệng kém.
Không chủ động mỉm cười lúc 2 - 3 tháng; vẻ
mặt nghiêm trang và cứng đờ.
* Giai đoạn từ 6 đến 12 tháng.
Những biểu hiện đã có ở giai đoạn trước như
đã nói ở trên ngày càng rõ và làm ảnh hưởng tới mối
quan hệ qua lại giữa mẹ và bé. Sự thiếu đối đáp
trương lực trở nên rõ rệt, trẻ không dang tay ra khi
người khác ôm.
Trẻ không biểu hiện thái độ bằng cử chỉ, nét
mặt. Trẻ bị giảm trương lực, mềm nhẽo hoặc ngược
lại là tăng trương lực, cứng đờ cùng với vẻ từ chối tiếp
xúc khá rõ với người khác.
Có những hoạt động rập khuôn, định hình và
nhất là hoạt động này được trẻ làm một cách dai dẳng
cả khi người lớn đến bên cạnh trẻ (khác với trò chơi
với bàn tay quan sát được lúc 5 - 6 tháng ở trẻ bình
thường: chỉ tạm thời và dừng ngay khi có người đến
bên giao tiếp với trẻ).
Trẻ lẩn tránh cái nhìn của người khác rõ ràng
hơn.
Thiếu sự thể hiện bằng nét mặt, cử chỉ.
Thường không có hiện tượng phát âm và nói
bi bô.
Có vẻ nghiêm trang. Không có phản ứng khi
có mặt người lạ và có biểu hiện thờ ơ khi người thân đi
khỏi cũng như khi gặp lại người quen. Không có phản
ứng sợ hãi khi có mặt người lạ vào lúc 8 tháng tuổi
(trong khi với trẻ bình thường, biết sợ người lạ lúc 5 - 6
tháng tuổi).
Đôi khi có những phản ứng có tính ám sợ đối
với một số thức ăn nhất định. Một số trẻ từ chối không
ăn những thức ăn cứng;
- Tình trạng sau 3 - 4 tuổi
Sau 3, 4 tuổi, biểu hiện lâm sàng dần dần
thay đổi. Sự cô độc và thu mình của trẻ giảm đi, có
những lúc nó cầu xin và bấu níu vào cha mẹ, nhưng
cũng có lúc bất ngờ tránh xa. Cũng có một vài dấu hiệu
về lo hãi chia li nhưng không có biểu hiện xúc cảm
thích hợp.
Hành động định hình tăng lên, trẻ có thể nôn
nóng làm ngắt, dừng một cái máy, mở và đóng vòi
nước; thường tìm cách chơi với nước. Có thể trở nên
hoạt bát, mạnh dạn, bất ổn định và bất ngờ lao vào
nguy hiểm. Sự lặp lại lời người khác như tiếng vang
vẫn còn. Đôi khi trẻ dùng một số từ và tìm cách giao
tiếp. Có thể hứng thú đến mức say mê đối với một số
tình huống hoặc đối tượng, nhưng cũng có những ám
sợ tăng cường.
Trẻ có thể bất ngờ có được một số hiểu biết
đòi hỏi trí nhớ tốt, ví dụ như có trẻ nhớ được nhiều tên
trong cuốn danh bạ.
Trẻ chống đối, rối loạn, thể hiện nhiều nét đặc
trưng của tự kỉ.
d. Chữa trị
Chữa trị cho trẻ tự kỉ ngày nay rất được quan
tâm. Có nhiều cách chữa trị tùy theo những hiểu biết
khác nhau về nguyên nhân của tự kỉ. Tuy vậy có thể
khái quát thành các hướng sau:
Phương pháp chữa trị về hành vi: Vận dụng lí
thuyết về sự học nhờ điều kiện hóa (conditionnement
opérant), làm ức chế những hành vi bệnh và làm phát
triển ngôn ngữ. Cách làm này cũng đã đạt được một
số kết quả tích cực nhưng hiệu quả giảm khi ngừng
chữa trị, có thể được kết hợp với các biện pháp giáo
dục.
Phương pháp giáo dục và sư phạm: Phối hợp
giữa dạy chuyên biệt trong những lớp học dành riêng
cho trẻ tự kỉ với những tác động giáo dục ở nhà do cha
mẹ trẻ thực hiện. Cách làm này cần: đánh giá sự phát
triển của trẻ thông qua một bảng tổng kê để tạo ra một
chân dung tâm lí làm cơ sở cho việc giáo dục; nghiên
cứu một kế hoạch giáo dục với những mục tiêu xác
định cho nhà chuyên môn và cha mẹ. Việc chữa trị cần
căn cứ vào mức độ tiến triển, thiết lập mạng đánh giá
với sự cộng tác của gia đình. Phương pháp này có lợi
ở chỗ làm tăng đáng kể thời gian dành cho con em
của cha mẹ. Cha mẹ có thể nhận ra một vài tiến bộ
của trẻ và lấy lại hy vọng.
Cũng có thể giáo dục hòa nhập trẻ tự kỉ trong
những lớp dành cho trẻ bình thường.
Chữa trị về y học. Cần phải rất thận trọng,
tuyệt đối không sử dụng thuốc hướng tâm cho trẻ em.
Bệnh không thể chữa trị bằng thuốc, thuốc chỉ có thể
dùng chút ít trong những trường hợp bị kích động
nhiều, mất ngủ hoặc tự làm bản thân bị thương để
giảm nhẹ những đau khổ cho trẻ và gia đình.
Tâm lí trị liệu phối hợp với giúp đỡ gia đình, tổ
chức hoạt động tập thể cho trẻ và tạo điều kiện cho trẻ
học tập cũng là một cách chữa trị.
2.5. Loạn tâm cộng sinh (loạn tâm sớm)
a. Mô tả
Đây là loại loạn tâm trẻ em hay gặp. Dấu hiệu
biểu hiện đầu tiên thường vào khoảng giữa 1,5 tuổi và
3 tuổi. Theo cha mẹ của trẻ thì rối loạn xuất hiện sau
một sự cố trong đời sống của trẻ: bị ngã khi chưa biết
đi vòng, vắng cha hoặc mẹ, chia li với người thân, nằm
viện, thay đổi chỗ ở...
Tính khí của trẻ thay đổi và thoái lùi. Nó ít nói,
trở nên lo lắng, dễ cáu kỉnh, có những cơn giận dữ bất
ngờ hoặc những lo hãi không có nguyên nhân rõ ràng.
Ngôn ngữ dần dần kém đi, ít liên kết, lời nói thường
thiếu tự nhiên hoặc không có âm sắc.
Trẻ bất ổn cực độ và không có bất kì hoạt
động có tổ chức nào, không quan tâm tới những đồ
chơi yêu thích nữa và quẳng chúng ra xa.
Quan hệ với những người thân rất bất
thường: tránh xa cha hoặc mẹ và gắn chặt với người
kia, nhất là mẹ. Trẻ kêu khóc để đòi bằng được bế, ôm
ẵm nhưng ngay khi được bế nó lại có phản ứng chống
đối bất ngờ, có thể cào và cắn, đòi tách xa ra, như là
mẹ trở nên nguy hiểm.
Trẻ thường xuyên mất ngủ, có những cơn lo
hãi ban đêm. Thường biểu hiện những ám sợ lạ lùng:
sợ những đồ vật không động, ổ khóa, cầu thang...
Hỏi cha mẹ về những ngày tháng đầu tiên của
trẻ thường được cha mẹ cho biết là bé khó được an ủi,
mất ngủ, khó ăn uống, đã có những lúc biểu hiện tránh
xa khi được bế ôm để an ủi dỗ dành.
b. Tiến triển
Có thể có những thời kì trẻ bình tĩnh hơn, ủ rũ
hoặc khóc không thể tiếp xúc được. Thường là trẻ
không thể đến trường học được, làm cho gia đình kiệt
sức và chán nản vì sự thay đổi tính khí, kêu gào và kích
động liên tục.
Trong quá trình tiến triển của bệnh, trẻ loạn
tâm có thể có tình trạng thu mình theo kiểu tự kỉ, một
số trẻ biểu hiện những dấu hiệu phá hủy và tìm kiếm
cảm giác. Khá giống với trẻ tự kỉ, trẻ loạn tâm cộng
sinh cũng có biểu hiện luân phiên sán lại gần và tránh
xa người thân một cách hung tính, làm cho việc phân
biệt hai loại trẻ này không dễ dàng. Về lâu dài, trẻ có
thể có thoái lui dần dần, ngôn ngữ rất hạn chế, vô cảm,
có những hành vi lặp lại và một loạt các khiếm khuyết
khác.
c. Chữa trị
Có thể sử dụng tất cả các cách như với chữa
trị cho trẻ tự kỉ.
Với trẻ loạn tâm sớm, việc thiết lập quan hệ
với trẻ là rất khó. Khá giống với trẻ tự kỉ ở thời kì phản
ứng hung bạo sau 3 - 4 tuổi, sự hung hăng, những
cơn lo hãi bất ngờ, tình trạng bất ổn về vận động của
trẻ làm cho việc chữa trị không dễ đàng. Khó nhất là
phải làm sao thực hiện được đồng bộ các cách chữa
trị và tránh phân biệt, tách biệt trẻ.
2.6. Bệnh ranh giới (pathologies limites/
borderline)
Bệnh ranh giới là thuật ngữ do Misès (Pháp)
đưa ra năm 1990 để chỉ những rối loạn tâm lí của
những trẻ em được coi là thiếu hài hòa trong phát
triển.
a. Mô tả
Trẻ mắc rối loạn này có những biểu hiện: rối
loạn giấc ngủ, rối loạn ăn uống nhưng kiểm soát được
cơ thắt, kích động, thu mình, hung tính, chậm ngôn
ngữ và gặp khó khăn trong học tập. Thường xuyên có
bất ổn, không thể lường trước được hành vi của trẻ, có
biểu hiện thoái lui. Có triệu chứng của nhiễu tâm như
ám sợ và nghi thức ám ảnh.
Phần lớn các trẻ này gia đình có rối loạn
nặng, xung đột. Đôi khi cha hoặc mẹ có biểu hiện rối
loạn tâm lí.
- Quan hệ với xung quanh
Cách quan hệ không thống nhất, khác, thậm
chí đối lập nhau. Đứa trẻ có thể phụ thuộc, cáu kỉnh
hoặc trái lại, xa cách, đơn độc, thu mình. Phản ứng với
các sự kiện theo cùng một cách, hoặc thái quá, hoặc
vô cảm.
Một số trẻ biểu hiện hung tính và có những
cơn cáu giận với hành vi xung động. Những trẻ khác
thể hiện sự thiếu hứng thú, trạng thái tình cảm trống
rỗng, trầm cảm. Thường chúng ít nói, giao tiếp sơ sài.
Với cha mẹ, khi thì trẻ có thái độ độc tài có lúc lại trơ lý
và thụ động. Thường thấy sự chăm lo săn sóc của một
người mà trẻ gắn bó có thể làm thay đổi đáng kể hành
vi của trẻ, nhưng nếu có gián đoạn thì sẽ dẫn đến rối
loạn. Để được an toàn, trẻ mắc bệnh ranh giới phải
được ở trong một tình huống quen thuộc, cái mới hoặc
yếu tố lạ làm trẻ lo hãi.
- Về vận động
Vận động nhìn chung bình thường nhưng đi
lại vụng về, có các tư thế lạ, có khiếm khuyết về phối
hợp vận động tinh tế. Hình ảnh về cơ thể thường
không tốt, hiểu biết kém về cơ thể bản thân, có rối loạn
định hướng không gian.
- Rối loạn trí tuệ
Thường có chậm phát triển ngôn ngữ, rối
loạn về tiếp thu mặc dù chỉ số khôn (QI/IQ) tổng thể có
khi gần đạt tới mức bình thường. Trẻ gặp khó khăn khi
tổng hợp và các ý nghĩ không rành mạch rõ ràng;
không có biểu tượng về thời gian và về tổ chức không
gian. Ví dụ, trẻ rất khó xác định các mốc theo diễn tiến
của tuần hoặc của ngày, khó định hướng khi đi lại. Trẻ
thường gặp khó khăn trong học tập.
Bị nhầm lẫm, khó tách biệt giữa cái tưởng
tượng với cái có thực. Đôi khi cũng có hiện tượng hư
giác.
- Rối loạn tình cảm
Trẻ thường có lo hãi chia li, sợ bị lấy cắp hoặc
bị trừng phạt vì những suy nghĩ của nó. Những trẻ này
ức chế, lo buồn, tỏ ra thất vọng.
b. Căn nguyên tâm lí
Bệnh ranh giới được cho là hậu quả của rối
loạn quan hệ qua lại giữa mẹ và con ngay từ những
ngày đầu của cuộc sống của trẻ và rối loạn quá trình
hình thành cái Tôi.
Rối loạn quan hệ trong gia đình cũng là
nguyên nhân. Tâm lí gia đình không ổn định, trẻ
thường được chứng kiến và có thể là nguyên nhân của
những xung đột... Các rối loạn của trẻ được duy trì,
phát triển và trầm trọng hơn theo mức độ của những
căng thẳng gia đình.
c. Chữa trị
Đối với những dạng rối loạn nhẹ có thể dùng
trị liệu tâm lí cho trẻ và những nâng đỡ, hỗ trợ gia đình.
Trong trường hợp trẻ gặp nhiều khó khăn khi
học tập ở trường và gia đình ít khả năng hỗ trợ thì cần
có kế hoạch chăm sóc tổng thể giống như đối với
những trẻ loạn tâm.
Created by AM Word2CHM
TÂM BỆNH HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI MẦM NON à Chương 2. CÁC RỐI LOẠN TÂM LÍ
CỦA TRẺ EM LỨA TUỔI MẦM NON
1.Hãy nêu các rối loạn triệu chứng và hành vi
của tâm lí trẻ em.
2. Hãy phân tích các biểu hiện, nêu nguyên
nhân và cách chữa trị các rối loạn tâm vận động ở trẻ
em.
3. Có những rối loạn ngôn ngữ nào ở trẻ em?
Nêu biểu hiện, nguyên nhân và cách chữa trị các rối
loạn đó.
4. Nêu các hình thức rối loạn nhận thức và
biểu hiện của chúng. Có những nguyên nhân nào dẫn
đến rối loạn nhận thức? Có thể chữa trị rối loạn nhận
thức như thế nào?
5. Hãy nêu các biểu hiện của hành vi khóc
nức, hung hăng và bỏ trốn. Phân tích những vấn đề
tâm bệnh lí của các rối loạn này.
6. Nêu các biểu hiện và nguyên nhân của rối
CÂU HỎI ÔN TẬP
loạn giấc ngủ ở trẻ.
7. Hãy nêu các biểu hiện và nguyên nhân tâm
lí của đái dầm và ỉa đùn ở trẻ em.
8. Có những rối loạn chức năng tiêu hóa - ăn
uống nào ở trẻ em? Nêu các biểu hiện và những vấn
đề tâm lí đặc trưng cho các rối loạn này.
9. Nêu triệu chứng và nguyên nhân của
chứng lùn tâm sinh.
10. Nêu những nguyên nhân chính của chậm
phát triển trí tuệ ở trẻ em. Phân tích đặc điểm tâm lí
của trẻ mắc hội chứng Down.
11. Hãy mô tả những biểu hiện của ám sợ và
ám ảnh ở trẻ em.
12. Nhiễu tâm ảnh hưởng như thế nào đến
việc học của trẻ?
13. Trình bày những đặc điểm tâm tí của trẻ
trầm cảm tuổi mầm non.
14. Phân tích những đặc điểm đặc trưng của
trẻ tự kỉ. Có thể phát hiện sớm những dấu hiệu của
bệnh tự kỉ ở trẻ em thông qua những biểu hiện nào?
15. Nêu những biểu hiện của loạn tâm sớm
của trẻ.
16. Bản chất của bệnh ranh giới là gì? Hãy
nêu các biểu hiện của bệnh ranh giới ở trẻ.
BÀI TẬP THỰC HÀNH
1. Đến các cơ sở giáo dục mầm non, quan
sát trẻ trong các hoạt động và trao đổi với các giáo viên
để tìm ra trẻ có bất thường về tâm lí.
Cũng có thể tìm trong đời sống những đứa trẻ
có biểu hiện tâm lí bất thường.
2. Quan sát hoạt động của trẻ này, mô tả chân
dung tâm lí và làm rõ những biểu hiện rối loạn.
3. Gặp gỡ, trao đổi với cha mẹ của bé và quan
sát quan hệ của bé với cha mẹ để tìm hiểu về: + Đặc
điểm tâm lí của cha mẹ.
+ Cách ứng xử của cha mẹ với con.
+ Cách quan hệ của bé với cha mẹ.
4. Phối hợp với một chuyên gia tâm lí để đánh
giá tình trạng rối nhiễu của trẻ.
5. Dựa vào tính chất rối nhiễu tâm lí của trẻ,
dự kiến những tư vấn hoặc can thiệp cần thiết về mặt
tâm lí - sư phạm dành cho trẻ tại lớp mẫu giáo.
6. Dự kiến những tư vấn hoặc can thiệp cần
thiết về mặt tâm lí - sư phạm dành cho trẻ và gia đình
của trẻ ở nhà.
7. Nếu có điều kiện, thử áp dụng những tư
vấn và can thiệp này với trẻ và gia đình và rút ra những
nhận xét cần thiết trong quá trình chữa trị.
Created by AM Word2CHM
TÂM BỆNH HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI MẦM NON
Tâm bệnh trẻ em là một lĩnh vực rất phức tạp,
bị chi phối bởi nhiều yếu tố, nhiều nguyên nhân khác
nhau, có những nguyên nhân đến nay vẫn chưa rõ. Để
phòng ngừa tâm bệnh lí trẻ em xuất hiện, cần biết đến
một số yếu tố nguy cơ dẫn đến rối loạn tâm lí ở trẻ em.
Với nhà chuyên môn, nắm bắt được các yếu tố này còn
giúp cho việc chẩn đoán và chữa trị. Nội dung về chữa
trị không đi vào các kĩ thuật chữa trị rất đa dạng, phong
phú hiện nay, mà nói đến quy trình
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tam_benh_hoc_tre_em_lua_tuoi_mam_non_nguyen_thi_nhu_mai.pdf