Tài liệu ôn thi đại học

Nét độc đáo của đoạn thơ này là Tố Hữu đã dùng lối tập Kiều để nói về Tố Nh và tâm sự sâu kín của

ông. Bởi thế, những câu thơ mang tới một liên tởng kép giữa xa và nay, giữa tác giả và nhân vật, giữa ngời

thơ và nhà thơ. Khoảng cách 200 năm biến mất, đờng biên lịch sử bỗng nhòa mờ bởi sức cảm thông kì lạ

của con ngời. Tố Hữu đã nhập hồn vào những câu Kiều để viết về Tố Nh. Có khi ông lại lấy nguyên văn

câu thơ của Nguyễn Du nhng đem lại cho nó một ý nghĩa mới (ví dụ: “Dẫu lìa ngõ ý còn vơng tơ lòng” là

câu thơ Nguyễn Du đặc tả bi kịch của Thuý Kiều khi phải đoạn tình với Kim Trọng. Tố Hữu lại sử dụng

câu thơ ấy để diễn tả tâm sự bối rối của Nguyễn Du, dù không đi theo Tây Sơn nhng lòng ông vẫn hớng

hết về phía nhân dân. Hoặc câu thơ “Biết ai hậu thế khóc cùng Nguyễn Du” Tố Hữu chỉ thêm một chữ

“cùng” rất sáng tạo mà đã gia tăng rất nhiều ý nghĩa cho câu thơ. Không còn là khóc riêng cho Tố Nh mà

là cùng Tố Nh khóc cả cuộc đời khổ đau của những kiếp ngời bị trà đạp). Đó là sự tri kỷ giữa hai con ngời,

dù xa cách nhau về thời gian và cả hai hệ ý thức.

Đoạn thơ trên còn thể hiện quá trình nhận thức từ xúc cảm đến đồng cảm để rồi hòa cảm của Tố Hữu

với Tố Nh. Từ “nghĩ mà thơng” cho đến “khóc cùng”, từ “hai trăm năm lại càng say” đến “tấm lòng thơ

vẫn tình đời thiết tha”. Vĩnh viễn hóa tiếng thơ bởi “tình đời” là mãi mãi. Đó là quá trình nhận thức, khám

phá cái làm nên sức sống và sức mạnh của tiếng thơ Nguyễn Du chính là tình đời, tình ngời, là tấm lòng

nhân đạo mênh mông của nhà thơ lớn. Không phải ngẫu nhiên trong 12 dòng thơ trên tác giả nhắc nhiều

đến những chữ “tơ lòng”, “tình đời”, “nhân tình”. trong sự bồi thấm và ngày càng mở rộng nghĩa của nó:

(từ “tơ lòng” đến “nhân tình”, “tấm lòng thơ” đến “tình đời”).

pdf120 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1204 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tài liệu ôn thi đại học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sự linh động và biến ảo trong nỗi nhớ còn tạo nên bao cung bậc tình cảm khi da diết nồng nàn, lúc thâm trầm sâu lắng. Nỗi nhớ ấy thờng trực trong niềm vui, nỗi buồn, gắn với từng địa danh, đồng hành cùng năm tháng. Qua nỗi nhớ của ngời đi, một Việt Bắc hào hùng mà thơ mộng, nghèo cực mà nghĩa tình hiện lên trong những câu thơ rng rng xúc động. Có lẽ ấn tợng nhất hình ảnh thơ: “Nhớ ngời mẹ nắng cháy lng Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô” Hình ảnh bà mẹ Việt Bắc rất đặc trng với tấm lng riêng biệt: hai chữ “cháy lng” nhói lên nhiềm xót th- ơng vô hạn. Thơ ca Việt Nam đã nhiều lần thổn thức bởi cái lng rất điển hình ấy của ngời mẹ: “Lng còng đổ bóng xuống sân ga” (Nguyễn Bính - Những bóng ngời trên sân ga) “Bóng tròn che lng mẹ Về nhớ anh mẹ khóc” (Ngọc Anh - Bóng cây Kơnia) “Mặt trời của mẹ, con nằm trên lng” - 82 - (Nguyễn Khoa Điềm - Khúc hát ru những em bé lớn trên lng mẹ) Song đắng cay vẫn không che lấp đợc niềm lạc quan yêu đời, tin tởng về tơng lai của ngời Việt Bắc: “Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”. Niềm vui giản dị đơn sơ đợc chắt lọc trong cuộc sống còn nhiều vất vả gian khó: từ tiếng mõ rừng chiều, tiếng chày đêm khuya, trăng lên đầu núi, nắng chiều lng nơng... Vậy mà khi chia xa bỗng thân thơng da diết lạ: Nhớ cồn cào nh nhớ ngời yêu... Phải chăng tình yêu làm đất lạ hóa quê hơng, khiến lúc chia xa, đất ấy hoá tâm hồn. 4. Bình giảng đoạn “Tứ bình”: Đoạn trích này đợc xem là đặc sắc nhất Việt Bắc. 10 câu lục bát thu gọn cả sắc màu 4 mùa, cả âm thanh cuộc sống, cả thiên nhiên con ngời Việt Bắc. “Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng ngời” Phép láy đầu câu “Ta về” nhấn nốt chủ âm xoáy vào câu hỏi ngời ở. Từ “ta” điệp lại trong cấu trúc “ta về ta nhớ” lại nhấn mạnh tình cảm ngời đi. “Ta nhớ hoa cùng ngời”. Hình ảnh hoa và ngời xuất hiện kế liền bên nhau trong nỗi nhớ của ngời đi làm ta liên tởng tới câu ca “Ngời ta hoa đất” Tố Hữu lựa chọn thật đắt hình ảnh đối xứng : hoa - ngời. Hoa là vẻ đẹp tinh tuý nhất của thiên nhiên, kết tinh từ hơng đất sắc trời, tơng xứng với con ngời là hoa của đất. Bởi vậy đoạn thơ đợc cấu tạo: câu lục nói đến thiên nhiên, câu bát nói tới con ngời. Nói đến hoa hiển hiện hình ngời, nói đến ngời lại lấp lóa bóng hoa. Vẻ đẹp của thiên nhiên và con ngời hòa quyện với nhau tỏa sáng bức tranh thơ. Bốn cặp lục bát tạo thành bộ tứ bình đặc sắc, trong đó nỗi nhớ đằm sâu làm tơi rói sắc màu tâm trạng: Trớc hết đó là nỗi nhớ mùa đông Việt Bắc - cái mùa đông thủa gặp gỡ ban đầu, đến hôm nay vẫn sáng bừng trong kí ức. “Rừng xanh hoa chuối đỏ tơi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lng” Câu thơ truyền thẳng đến ngời đọc cảm nhận về một màu xanh lặng lẽ, trầm tĩnh của rừng già. Cái màu xanh ngằn ngặt đầy sức sống ngay giữa mùa đông tháng giá. Cái màu xanh chứa chất bao sức mạnh bí ẩn “Nơi thiêng liêng rừng núi hóa anh hùng”. Màu xanh núi rừng Việt Bắc”: “Rừng giăng thành lũy thép dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù” Trên cái nền xanh ấy nở bừng bông hoa chuối đỏ tơi, thắp sáng cả cánh rừng đại ngàn làm ấm cả không gian, ấm cả lòng ngời. Hai chữ “đỏ tơi” không chỉ là từ ngữ chỉ sắc màu, mà chứa đựng cả một sự bừng thức, một khám phá ngỡ ngàng, một rung động rất thi nhân. Câu thơ gợi nhớ hình ảnh thơ trong “Cuộc chia ly màu đỏ” của Nguyễn Mĩ: “Cái màu đỏ nh cái màu đỏ ấy Sẽ là bông hoa chuối đỏ tơi Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn ngời” Có thể thấy cái màu đỏ trong câu thơ Tố Hữu nh điểm sáng hội tụ sức mạnh tiềm tàng chốn rừng xanh đại ngàn, lấp lóa một niềm tin rất thật, rất đẹp. Trên cái phông nền hùng vĩ và thơ mộng ấy, hình ảnh con ngời xuất hiện thật vững trãi, tự tin. Đó là vẻ đẹp của con ngời làm chủ núi rừng, đứng trên đỉnh trời cùng tỏa sáng với thiên nhiên, “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lng”. Chỉ một nét chấm phá: “Nắng ánh dao gài”, nhà thơ đã lột tả vẻ đẹp của con ngời Việt Bắc từ dáng vẻ đến tâm hồn. - 83 - Cùng với sự chuyển mùa (mùa đông sang mùa xuân) là sự chuyển màu trong bức tranh thơ: Màu xanh trầm tĩnh của rừng già chuyển sang màu trắng tinh khôi của hoa mơ khi mùa xuân đến. Cả không gian sáng bừng lên sắc trắng của rừng mơ lúc sang xuân. Ngày xuân mơ nở trắng rừng” Trắng cả không gian “trắng rừng”, trắng cả thời gian “ngày xuân”. Hình ảnh này khá quen thuộc trong thơ Tố Hữu, hình ảnh rừng mơ sắc trắng cũng đi vào trờng ca “Theo chân Bác” gợi tả mùa xuân rất đặc trng của Việt Bắc: “Ôi sáng xuân nay xuân 41 Trắng rừng biên giới nở hoa mơ” Cái sắc trắng tinh khôi bừng nở mỗi độ xuân về làm ngơ ngẩn ngời ở, thẫn thờ kẻ đi. Ngời đi không thể không nhớ sắc trắng hoa mơ nơi xuân rừng Việt Bắc, và lại càng không thể không nhớ đến con ngời Việt Bắc, cần cù uyển chuyển trong vũ điệu nhịp nhàng của công việc lao động thầm lặng mà cần mẫn tài hoa: Nhớ ngời đan nón chuốt từng sợi giang Hai chữ “chuốt từng” gợi lên dáng vẻ cẩn trọng tài hoa dờng nh bao yêu thơng đợi chờ mong ngóng đã gửi vào từng sợi nhớ, sợi thơng kết nên vành nón. Cảnh thì mơ mộng, tình thì đợm nồng. Hai câu thơ lu giữ lại cả khí xuân, sắc xuân tình xuân vậy. Tài tình nh thế thật hiếm thấy. Bức tranh thơ thứ 3 chuyển qua rừng phách - một loại cây rất thờng gặp ở Việt Bắc hơn bất cứ nơi đâu. Chọn phách cho cảnh hè là sự lựa chọn đặc sắc, bởi trong rừng phách nghe tiếng ve ran, ngắm sắc phấn vàng giữa những hàng cây cao vút, ta nh cảm thấy sự hiện diện rõ rệt của mùa hè. Thơ viết mùa hè hay xa nay hiếm, nên ta càng thêm quí câu thơ của Tố Hữu: “Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình” ở đây có sự chuyển đổi cảm giác rất thú vị: Tiếng ve kêu - ấn tợng của thính giác đã đem lại ấn tợng thị giác thật mạnh. Đây cũng là trờng hợp câu thơ của Khơng Hữu Dụng. “Một tiếng chim kêu sáng cả rừng” Tiếng chim kêu trong thơ Khơng Hữu Dũng mang chức năng đánh thức, thắp sáng cả một miền rừng, thì tiếng ve kêu trong thơ Tố Hữu còn mang ý vị đồ họa không những không gian mà cả thời gian. Sự chuyển mùa qua sự chuyển màu trên thảo mộc cỏ cây: Những ngày cuối xuân, cả rừng phách còn là màu xanh, những nụ hoa còn náu kín trong kẽ lá. Khi tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên, những nụ hoa nhất tề đồng loạt trổ bông, đồng loạt tung phấn, cả rừng phách lênh láng sắc vàng. Chữ “đổ” đợc dùng thật chính xác, tinh tế. Nó vừa gợi sự biến chuyển mau lẹ của sắc màu, vừa diễn tả tài tình từng đợt ma hoa rừng phách khi có ngọn gió thoảng qua, vừa thể hiện chính xác khoảng khắc hè sang. Tác giả sử dụng nghệ thuật âm thanh để gọi dậy màu sắc, dùng không gian để miêu tả thời gian. Bởi vậy cảnh thực mà vô cùng huyền ảo. Trên nền cảnh ấy, hình ảnh cô em gái hiện lên xiết bao thơ mộng, lãng mạn: “Cô em gái hái măng một mình” nghe ngọt ngào thân thơng trìu mến. Nhớ về em, là nhớ cả một không gian đầy hơng sắc. Ngời em gái trong công việc lao động hàng ngày giản dị: hái măng. Rất tự nhiên song là cả một công phu dựng cảnh: Rừng phách vào hè, những trận ma đầu mùa gọi dậy những búp măng non, vừa nhu nhú lên mặt đất, trong lớp áo tơi mỏng kia, là nõn măng ngọt giòn. Những ngón tay khéo léo của em gái bóc lớp áo măng mỏng tang, hái lấy đọt măng non, nom thật mềm mại uyển chuyển. Vẻ đẹp lãng mạn thơ mộng ấy còn đợc tô đậm ở hai chữ “một mình” nghe cứ rng rng xao xuyến lạ, bộc lộ thầm kín niềm mến thơng của tác giả. Nhớ về em, nhớ về một mùa hoa... - 84 - Khép lại bộ tứ bình là cảnh mùa thu. Đây là cảnh đêm thật phù hợp với khúc hát giao duyên trong thời điểm chia tay giã bạn. Hình ảnh ánh trăng dọi qua kẽ lá dệt lên mặt đất một thảm hoa trăng lung linh huyền ảo. Ta nhớ tới câu thơ: “Tiếng suối trong nh tiếng hát xa Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa” Dới ánh trăng thu, tiếng hát ân tình càng làm cho cảnh thêm ấm áp tình ngời. Đại từ phiếm chỉ “Ai” đã gộp chung ngời hát đối đáp với mình làm một, tạo một hòa âm tâm hồn đầy bâng khuâng lu luyến giữa kẻ ở, ngời đi, giữa con ngời và thiên nhiên. Mỗi câu lục bát làm thành một bức tranh trong bộ tứ bình. Mỗi bức tranh có vẻ đẹp riêng hòa kết bên nhau tạo vẻ đẹp chung. Đó là sự hài hòa giữa âm thanh, màu sắc... Tiếng ve của mùa hè, tiếng hát của đêm thu, màu xanh của rừng già, sắc đỏ của hoa chuối, trắng tinh khôi của rừng mơ, vàng ửng của hoa phách... Trên cái nền thiên nhiên ấy, hình ảnh con ngời hiện lên thật bình dị, thơ mộng trong công việc lao động hàng ngày. 5. Nhớ về Việt Bắc là nhớ cảnh nhớ ngời. Nhng quan trọng nhất là nhớ về Việt Bắc, quê hơng cách mạng, Việt Bắc kháng chiến hào hùng. Vẻ độc đáo của một Việt Bắc đứng lên là hình ảnh cả núi rừng đánh giặc. “ Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây Núi giăng thành luỹ sắt dày Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù. Mênh mông bốn mặt sơng mù Đất trời ta cả chiến khu một lòng” Chữ rừng rải kín những câu thơ, rải kín vùng Việt Bắc, tạo thế hiểm của trờng thành lũy thép vây bọc quân thù. Rừng núi tình nghĩa, rừng núi kiên cờng. Con ngời ngọt ngào, chung thuỷ, giản dị bao dung trong cuộc sống hàng ngày cũng là con ngời hào hùng quyết liệt trong chiến đấu. Những câu thơ phơi phới bốc men say dựng tả không khí Việt Bắc ngày kháng chiến: cách mạng quả là một ngày hội của quần chúng, của con ngời và cả thiên nhiên. “Những đờng Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập nh là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bớc chân nát đá, muôn tàn lửa bay Nghìn đêm thăm thẳm sơng dày Đèn pha bật sáng nh ngày mai lên” Tiết tấu ngân nga dìu dặt ở những đoạn trên, đến đây vặn mình chuyển điệu trở nên gấp gáp sôi nổi, ở đây, tác giả phá vỡ tính cân xứng để tạo ra tiết tấu phi đối xứng : “Nghìn đêm thăm thẳm sơng dày (2/4) Đèn pha bật sáng nh ngày mai lên” (4/1/3) Giọng thơ trở nên gắt, mạnh, dồn dập nh âm hởng bớc chân hành quân vũ bão. Hệ thống từ vựng mở căng cờng độ diễn tả; Nát đá, thăm thẳm, bật sáng. Những hình ảnh kì vĩ kế tiếp trùng trùng, điệp điệp: Bộ - 85 - đội, dân công nờm nợp những nẻo đờng kháng chiến. Bố cục hình thơ từ cận cảnh phóng xa vào viễn cảnh: Đèn pha bật sáng nh ngày mai lên Tất cả tạo một bức tranh sử thi hoành tráng để ca ngợi sức mạnh của chủ nghĩa yêu nớc, của nhân dân anh hùng, của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống ngoại xâm. Kháng chiến thắng lợi, chúng ta về lại thủ đô. Trong suy nghĩ của Tố Hữu và mỗi chúng ta lúc đó nổi bật lên hình ảnh về quê hơng cách mạng: Đoạn thơ cuối kết tinh tình cảm kỉ niệm, nỗi nhớ niềm thơng, ân nghĩa thủy chung trong hai tiếng thiêng liêng: Việt Bắc: “ở đâu u ám quân thù Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi ở đâu đau đớn giống nòi Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền. Mời lăm năm ấy, ai quên Quê hơng cách mạng dựng nên cộng hòa” Màu sắc trữ tình đã chuyển sang lí trí trong những câu thơ mang dáng vẻ khẳng định chân lí kiểu châm ngôn. Việt Bắc thành đầu mối qui tụ t tởng tình cảm của cả dân tộc. Việt Bắc không còn là một địa danh mà đã trở thành một biểu tợng chung cho sức mạnh kháng chiến, cho linh hồn cách mạng, cho ý chí toàn dân, một Việt Bắc bình dị mà thiêng liêng. III. Nghệ thuật đậm tính dân tộc Thơ ca cách mạng đã tìm đợc vẻ đẹp khá toàn bích trong thành công của bài thơ Việt Bắc. Tiếng thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu đã mợn đợc hình thức cấu tứ giã bạn, kết cấu theo lối đối đáp giao duyên và thể loại lục bát đậm đà tính dân tộc. Nhờ vậy Tố Hữu đã thơ hoá sự kiện chính trị hiệu quả không ngờ. Những câu thơ cân xứng trầm bổng, ngọt ngào vừa thể hiện đợc tình cảm đối với cách mạng, vừa khơi rất sâu vào cội nguồn dân tộc, vừa nói đợc vấn đề rất to lớn của thời đại, vừa chạm đợc vào chỗ sâu thẳm trong tâm hồn dân tộc: truyền thống ân nghĩa, thủy chung. Việt Bắc đã đạt tới tính dân tộc, tính đại chúng. Đó là sức sống trờng tồn của bài thơ. Định hớng đề - gợi ý giải Đề 1: Bình giảng đoạn “Tứ bình” (xem phần bài giảng) Đề 2: Bài thơ Việt Bắc gợi nhớ đến lối cấu tứ cảnh chia tay và lối hát đối đáp trong ca dao, dân ca. Em hãy kể một số ví dụ về những bài ca dao, dân ca có cách cấu tứ nh vậy ? Lối hát đối đáp và cách cấu tứ cảnh chia tay thờng đợc sử dụng rất phổ biến trong ca dao, dân ca ở mọi miền, nh hát trống quân, hát quan họ, hát xoan, hát phờng vải... Một số câu ca dao quen thuộc có cách cấu tứ nh vậy: Mình về có nhớ ta chăng Ta về ta nhớ hàm răng mình cời Mình về ta chẳng cho về Ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ Thuyền về có nhớ bến chăng Bến thì một dạ khăng khăng nhớ thuyền. - 86 - Đề 3: Có ngời cho rằng ở bài thơ Việt Bắc, đối đáp chỉ là hình thức kết cấu bên ngoài, còn ở chiều sâu bên trong lại là dòng độc thoại nội tâm. Em có tán thành nhận xét ấy không, và nếu có thì hãy chứng minh điều đó. Bài thơ đợc kết cấu theo lối đối đáp quen thuộc trong ca dao, dân ca. Nhng ở đây không chỉ là lời hỏi, lời đáp mà còn là sự hô ứng, đồng vọng của cùng một tâm trạng. Lời đáp không chỉ nhằm giải đáp cho những điều đặt ra trong lời hỏi mà còn là sự mở rộng, làm phong phú thêm những ý tình đợc gợi ra trong lời hỏi. Có khi nh ở đoạn cuối của bài thơ, cả lời hỏi và lời đáp đã hòa làm một để trở thành bản hợp ca đồng vọng, ngân vang những tình cảm chung. Nhìn sâu hơn vào kết cấu của bài thơ, chúng ta thấy đối thoại chỉ là lớp kết cấu bên ngoài, còn ở chiều sâu bên trong chính là lời độc thoại trữ tình của chủ thể đắm mình trong hoài niệm về quá khứ gian khổ mà tơi đẹp trong cách mạng và kháng chiến với những nghĩa tình thắm thiết - tình nghĩa của nhân dân với cách mạng, của ngời cán bộ với Việt Bắc, của miền ngợc với miền xuôi, của cả dân tộc với lãnh tụ... Vì thế hai hình tợng kẻ ở và ngời đi cùng với lời hỏi và lời đáp có thể đợc bộc lộ đầy đủ và sâu sắc trong cách đối thoại, hô ứng. Sự thống nhất của tâm trạng trữ tình cũng đ- ợc thể hiện rất rõ trong việc sử dụng hai đại từ “mình” và “ta” trong bài thơ. Đề 4: Nhận xét về cách sử dụng hai đại từ “mình” và “ta” trong bài thơ Việt Bắc. Một thủ pháp nghệ thuật độc đáo góp phần tạo nên sự phân đôi - thống nhất của tâm trạng chủ thể trữ tình trong bài thơ Việt Bắc là việc sử dụng hai đại từ “mình” và “ta”. Trong tiếng Việt hai đại từ “mình” và “ta” thờng để chỉ ngôi thứ nhất (chủ thể phát ngôn), nhng nhiều khi còn dùng trong những trờng hợp đối t- ợng giao tiếp là ngời thân thiết, gần gũi, hoặc chỉ chung cả hai. Trong bài thơ Việt Bắc - cũng giống nh cao dao dân ca - có sự chuyển hóa rất linh hoạt. “Mình” thờng để chỉ ngôi thứ hai với cách gọi biểu lộ quan hệ thân thiết (thờng để chỉ ngôi thứ hai với cách gọi biểu lộ quan hệ thân thiết (thờng chỉ dùng trong quan hệ tình yêu, vợ chồng). Trong bài Việt Bắc từ “mình” phần lớn đợc dùng theo cách này: Mình về mình có nhớ ta. Mình về mình có nhớ không Mình về rừng núi nhớ ai... Nhng trong những câu: “Mình đi mình có nhớ mình” và “Mình đi mình lại nhớ mình” thì mình ở đây lại có sự chuyển hóa đa nghĩa, vừa là chủ thể, vừa là đối tợng giao tiếp, dờng nh cả hai đã hòa nhập làm một. Chúng ta cũng có thể thấy sự chuyển nghĩa ở đại từ “ta” trong bài thơ. Ta thờng để chỉ ngôi thứ nhất, nhng trong nhiều trờng hợp lại để chỉ chung cả chủ thể và đối tợng giao tiếp. “Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây” “Lòng ta ơn Bác đời đời”. Đề 5: Bình giảng 20 dòng đầu của Việt Bắc Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn nhất, tiêu biểu nhất của nền thi ca hiện đại. “Ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng, nhà thơ của lý tởng cộng sản”. Tập thơ “Việt Bắc”, là đỉnh cao của thơ Tố Hữu đồng thời cũng là thành tựu hàng đầu của thơ ca kháng chiến chống Pháp, trong đó bài thơ “Việt Bắc” đợc coi là kết tinh sở trờng nghệ thuật của ngòi bút Tố Hữu. Đó là khúc hát ân tình của ngời kháng chiến đối với quê hơng, đất nớc với nhân dân cách mạng đợc thể hiện bằng một nghệ thuật vừa cổ điển vừa hiện đại mà cốt lõi là truyền thống ân nghĩa đạo lý thủy chung của dân tộc. Đợc coi là ngời sinh ra để thơ hoá những vấn đề chính trị, thơ Tố Hữu luôn bám sát các sự kiện cách mạng. Men theo năm tháng những bài thơ của Tố Hữu, ta có thể tái hiện lại những chặng đờng hào hùng - 87 - của cách mạng Việt Nam. Thơ ông quả là “cuốn biên niên sử bằng thơ” nh có nhà nghiên cứu đã đánh giá. “Việt Bắc” không phải là ngoại lệ. Tháng 7/1954 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi hoà bình đợc lập lại, miền Bắc nớc ta hoàn toàn giải phóng, một trang sử mới mở ra cho đất nớc. Tháng 10/1954 cơ quan Trung ơng của Đảng và Nhà nớc chuyển từ căn cứ địa về thủ đô. Trong thời điểm lịch sử ấy, bài thơ “Việt Bắc” đã ra đời. “Việt Bắc” không còn là tình cảm riêng của Tố Hữu mà còn tiêu biểu cho tình cảm của ngời kháng chiến miền xuôi đối với chiến khu cách mạng, với đất nớc, với nhân dân. Một sự kiện chính trị đã chuyển hoá thành thơ ca theo cách “Tâm tình hoá, là một đặc trng của lối thơ trữ tình chính trị Tố Hữu. 20 câu thơ đầu tiên của “Việt Bắc” thể hiện rất rõ đặc trng nghệ thuật này. Đoạn thơ mở đầu bằng những câu thơ ngọt ngào: Mình về mình có nhớ ta Mời năm năm ấy thiết tha mặn nồng. Câu thơ mở ra cảnh giã biệt, một hoàn cảnh đặc biệt để bộc lộ cảm xúc trữ tình dạt dào. Cảnh giã biệt vẫn quen thuộc trong thơ ca dân gian và cổ điển truyền thống đã đợc Tố Hữu khéo vận dụng để diễn tả tâm trạng mang tính thời đại. Cuộc chia tay lớn của cán bộ Đảng, Chính phủ với Việt Bắc đợc thu vào cuộc chia tay của một đôi trai gái: ngời ở lại rừng núi chiến khu là cô gái Việt Bắc, ngời về xuôi là anh cán bộ cách mạng. Chuyện chung đã hoá thành chuyện riêng chuyện cách mạng của dân nớc trở thành chuyện tình yêu của lứa đôi, cuộc chia tay đầy bịn rịn lu luyến giữa những ngời đã từng gắn bó sâu nặng dài lâu: “Mời lăm năm” “thiết tha mặn nồng” đợc Tố Hữu thể hiện bằng một thể thơ giàu tính dân tộc. Thể lục bát, cách kết cấu đối đáp, sử dụng đại từ nhân xng “Mình”, “Ta” quen thuộc trong thơ ca dân gian, có khả năng “biểu hiện một cách thuận tiện, phù hợp với điệu hồn chung của cộng đồng ngời Việt” “Rung lên cái sợi tơ lòng chung của những tấm lòng Việt”. Tất cả những yếu tố đó đã diễn tả thật xúc động tình cảm quyến luyến thiết tha trong một cuộc chia tay đặc biệt: cha xa đã nhớ, để chia mà không xa, cách mà không biệt. Mình về mình có nhớ ta” đã là chuyện chung thuỷ, riêng t. Nhng đến: “Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn” thì không còn là chuyện của tình yêu lứa đôi mà đã là chuyện ân nghĩa thủy chung của đạo lý dân tộc. Câu thơ lục bát điệp hai lần từ “mình” nghe nh lối tâm tình thơng mến mà day dứt. Băn khoăn lớn nhất của ta và mình trong cuộc chia tay là ân tình thủy chung. Cái độc đáo ở chỗ: một câu hỏi về thời gian, một câu hỏi về không gian. Chỉ một khổ thơ đã gói gọn một thời cách mạng, một trời cách mạng. Tác giả đã chọn tình yêu một đôi trai gái làm một góc nhìn để bao quát toàn cảnh Việt Bắc với “Mời lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” Từ thuở cách mạng còn trứng nớc đến khi trởng thành vững vàng đó là điểm nhìn nghệ thuật rất Tố Hữu ngời thi sĩ luôn khơi nguồn cảm hứng từ những sự kiện lớn của cách mạng. Tiếp theo câu hỏi của ngời ở là tiếng lòng của ngời đi Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bớc đi áo chàm đa buổi phân li Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay Ngời đi đã nghe câu hỏi, lòng tràn đầy bâng khuâng “bồn chồn” một tình cảm thơng nhớ “thiết tha”. Tâm trạng lúc chia tay đợc diễn tả thật đắt qua sự luyến láy của ngôn từ và cả ở nhạc điệu của câu thơ: Hai câu đầu là nhịp 2/2 hối hoàn của lục bát đến đây đã vặn mình chuyển điệu 3/3: “áo chàm đa/ buổi phân ly - 88 - Cầm tay nhau/ biết nói gì / hôm nay Cái xao xuyến bồi hồi của lòng ngời đã cồn cào nổi sóng trên câu thơ thể hiện cách thần tình chút ngập ngừng chứa chan tình thơng mến, tạo ra một khoảng lặng đầy biểu cảm để chuỗi câu hỏi tiếp theo vang lên dồn dập, tha thiết hơn. Mời hai câu lục bát còn lại là lời của ngời ở, cấu tạo bằng sáu câu hỏi nh khơi sâu vào kỷ niệm. Mỗi câu hỏi đều gợi lại những gì tiêu biểu nhất của Việt Bắc qua những hình ảnh chọn lọc gợi cảm: Ma nguồn, suối lũ, mây mù,Những hình ảnh chọn lọc vừa chân thực vừa thơ mộng; “Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son” Những câu thơ có khả năng diễn biến những khái niệm trừu tợng thành hình ảnh đầy cảm giác sống động cụ thể “mối thù nặng vai”. Nghệ thuật nhân hoá cũng tạo nên sự sống động cho hình ảnh thơ: “Mình về rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già” Tình cảm của ngời ở đối với ngời đi xem ra đợc thể hiện sâu kín hơn cả trong câu thơ này, chỉ 14 chữ mà chứa đựng biết bao quyến luyến nhớ thơng: Ngời đi rồi cả một miền rừng trở nên hoang vắng, trám không ngời nhặt, măng không ai hái, cả núi rừng cũng mong nhớ đến thẫn thờ. Nh một thông lệ trong cuộc chia tay giữa những ngời thân thiết, ngời ta thờng đẩy thời gian về quá khứ để cha xa đã nhớ, cha biệt đã thơng. Để trên nền xúc cảm này, dòng hồi tởng những kỉ niệm thân thơng ùa về mãnh liệt. “Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa” Nhìn thoáng qua, tổ chức các câu thơ đều lặp lại ở phép láy đầu 6 câu: Mình đi, mình về. “Đi”, “Về” vốn ngợc chiều trái hớng, song ở đây lại đồng nhất một phơngPhải chăng niềm tin giản dị mà rất thực của cả ngời đi và ngời ở đã thổi vào câu chữ, làm nên chút choáng ngợp bối rối của ngôn từ, thể hiện mạch ngầm văn bản trong chiều sâu thơ ca: Ra đi để hẹn về. Việt Bắc đã trở thành quê hơng thứ hai của ngời cán bộ kháng chiến. Những kỷ niệm đợc gợi nhớ đều là những kỷ niệm của cuộc sống chung, tình cán bộ với nhân dân chia ngọt sẻ bùi, chung gian lao, chung mối thù Nếu không khéo rất dễ sa vào cái gọi là “liệt kê kỉ niệm” câu thơ sẽ trôi tuột đi, không thể lu đọng lại trong lòng ngời đọc. Cái làm nên chất thơ của bài “Việt Bắc” cũng nh của đoạn thơ này chính là nhạc điệu. Chính nhạc điệu đã làm cho các kỷ niệm trở nên ngân nga, trầm bổng réo rắt, thấm sâu vào tâm t. Những yếu tố làm nên chất nhạc kỳ diệu ấy không chỉ ở những câu lục bát rất chuẩn về thanh luật mà còn ở nghệ thuật tiểu đối đợc sử dụng với tần số cao trong các câu thơ. Nó không chỉ có khả năng biểu đạt rất xúc động nỗi lòng sâu kín bồi hồi của ngời đi kẻ ở, mà còn tạo ra sự tơng xứng về cấu trúc, vẻ đẹp nhịp nhàng của ngôn từ. Ma nguồn suối lũ / những mây cùng mù Miếng cơm / mối thù Trám / măng Hắt/ son Nhớ / mình Tân / đa Những hình ảnh thơ đã thực sự cất lên chất thơ nhờ nhạc điệu đầy quyến luyến, trầm bổng, ngân nga qua những câu thơ sóng đôi lối đối xứng tiểu đối, nó mang vẻ đẹp cổ điển uyên bác. Đặc biệt câu hỏi cuối đoạn thơ có thể tách riêng ra bởi sự thâm thúy, hàm súc: “Mình đi mình có nhớ mình Tân Trào Hồng Thái mái đình cây đa” - 89 - Đại từ “mình”, “ta” vốn đợc sử dụng trong đối đáp thơ ca dân gian nay đợc Tố Hữu sử dụng đầy biến ảo: Khi mình là Ta, khi “ta” là “mình”, cái ngầm ý hai ta là một đã rõ. Nhng ở đây một câu lục mà tới ba lần lặp lại chữ mình: “Mình đi, mình có” là chỉ ngời về, “nhớ mình” là chỉ ngời ở. Câu hỏi đầy ý nhị mà sâu kín: Mình quên “ta” cũng là quên chính “mình” đó. Cũng nh ở phần sau, Tố Hữu lại nhấn theo lối bồi thấn trong câu thơ trả lời khẳng định sắt son. “Mình đi mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nớc nghĩa tình bấy nhiêu” Nhà thơ đã khai thác rất đắt chữ “Mình” trong tiếng Việt. “Mình” vừa là bản thân vừa là ta, “Mình” cũng là ngời thân thiết có thể xem nh chính mình vậy. Đại từ nhân xng đợc sử dụng vừa thống nhất vừa biến hoá khiến “Việt Bắc” cất lên nh tiếng lòng đồng vọng bản hoà âm tâm hồn của kẻ ở ngời đi. Sự đổi chỗ trong tổ chức câu thơ: “Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” đợc viết thành: “Tân trào Hồng Thái mái đình cây đa” chứng tỏ tên riêng và danh từ chung đều đã đồng nhất hoàn toàn về ý nghĩa - Việt Bắc quê hơng cách mạng. Nỗi nhớ về chiến khu Việt Bắc “Tân Trào, Hồng Thái”, đã chuyển hoá thành nỗi nhớ quê hơng “Mái đình cây đa” những hình ảnh đã đi vào tâm thức ngời Việt từ ngàn đời “trong thơ Tố Hữu, cái riêng, cái chung nh không còn ranh giới, cái cũ cái mới lồng vào nhau, (Nguyễn Văn Hạnh) mà đây là một trờng hợp điển hình “Việt Bắc” là bài ca tâm tình, ngọt ngào đằm thắm rất tiêu biểu cho hồn thơ, cho phong cách thơ của Tố Hữu. Vẫn là tiếng nói của tình cảm tình yêu nhng là tình yêu đối với quê hơng đất nớc, đối với cách mạng đối với nhân dân. Trong câu chuyện với một nhà nghiên cứu văn học ngời Pháp Tố Hữu tâm sự rằng: “mình phải lòng đất nớc và nhân dân của mình. Và đã nói về đất nớc về nhân dân nh nói về ngời mình yêu”. Cho nên tình yêu biến thành tình nghĩa “Việt Bắc” đã trở thành tiếng hát ân tình chung của những ngời kháng chiến, của cả dân tộc trong một thời điểm lịch sử đáng ghi nhớ. Đoạn thơ trên là những câu thơ hay nhất của bài thơ “Việt Bắc”. Đề 6: Tham khảo đề 10 câu 1 phần giới thiệu đề thi. Mục đích  Thấy đợc sự thơng cảm của tác giả với nàng Kiều, sự đồng cảm, trân trọng đối với Nguyễn Du  Thấy đợc tính dân tộc trong thơ Tố Hữu qua những đặc sắc nghệ thuật của bài thơ. Kiến thức cơ bản I. Giới thiệu chung Kỷ niệm 200 năm ngày sinh thi h

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfon_van_thi_dai_hoc_2010_day_du_0843.pdf
Tài liệu liên quan