Vì sao Mác khẳng định: Sản xuất ra của cải vật chất là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của lịch sử nhân loại?
- Trong đời sống xã hội có rất nhiều những hoạt động khác nhau như hoạt động chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế, Khoa học kỹ thuật, văn hoá nghệ thuật. Nhưng để thực hiện được mục đích của các hoạt động đó thì trước hết đòi hỏi con người phải tồn tại, phải sống. Muốn tồn tại, muốn sống thì bắt buộc con người hàng ngày phải tiêu dùng những tư liệu sinh hoạt cần thiết như cơm ăn, áo mặc, nhà ở, tư liệu sản xuất . tất cả những tư liệu sinh hoạt đó không phải là những sản phẩm do tự nhiên hay thượng đế ban phát mà nó là sản phẩm của quá trình lao động sản xuất của con người tạo ra. Vì vậy Mác khẳng đinh rằng quá trình lao động sản xuất ra của cải vật chất là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và sống còn của lịch sử nhân loại.
129 trang |
Chia sẻ: phuongt97 | Lượt xem: 620 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tài liệu ôn tập môn Kinh tế chính trị (Có đáp án), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hống ngân sách, ngân hàng, kho bạc, dự trữ quốc gia cùng với toàn bộ tài sản của nền kinh tế quốc dân thành phần kinh tế nhà nước được hình thành dựa trên sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất và vốn. Thành phần kinh tế nhà nước nước ta có cả một quá trình phát triển lâu dài với những bước thăng trầm nhưng nó là thành phần kinh tế quan trọng nhất, chủ yếu nhất trong toàn bộ nền kinh tế quá độ ở nước ta.
Thành phần kinh tế nhà nước luôn luôn được Đảng và nhà nước ta khẳng định nó là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân vì:
+ Thành phần kinh tế nhà nước nắm trong tay những ngành kinh tế then chốt và mũi nhọn nhất, những ngành kinh tế này tạo ra sức mạnh kinh tế để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế đồng thời sức mạnh của các ngành kinh tế mũi nhọn đó nó cho phép thành phần kinh tế nhà nước dẫn dắt các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế phát triển theo cong đường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhà nước ta đã lựa chọn (ngành năng lượng, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, ngân hàng..)
+ Kinh tế nhà nước có một nguồn vốn lớn từ ngân sách nhà nước , lại nắm trong tay một lực lượng lao động đông đảo, được đào tạo chuyên môn.
+ Kinh tế nhà nước có mối quan hệ kinh tế trong và ngoài nước rộng lớn vì vậy nó tạo điều kiện để cho thành phần kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo cả trong kinh tế nội điạ và trong kinh tế quốc tế.
Mặc dù kinh tế nhà nước có vị trí và vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân như đã phân tích nhưng trong một thời gian khá dài do vận động và điều tiết thành phần kinh tế nhà nước bằng cơ chế kế hoặch hoá tập trung quan liêu bao cấp nên hiệu quả hoạt động của thành thành phần kinh tế nhà nước chưa cao, tình trạng các doanh nghiệp nhà nước làm ăn lãi giả lỗ thật mang tính phổ biến vì vậy nhà nước chủ yếu phải bù lỗ. Từ khi nước ta tiến hành đổi mới nền kinh tế cho đến nay Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến việc điều chỉnh tổ chức lại quá trình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước cũng như các bộ phận kinh tế thuộc thành phần kinh tế nhà nước.
Nghị quyết đại hội đảng 8 và 9 nhấn mạnh xắp xếp đổi mới hoạt động của hệ thống doanh nghiệp nhà nước cũng như các tổ chức kinh tế tài chính thuộc sở hữu nhà nước là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và cấp bách để nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước Đảng và nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương biện pháp mà trong đó quan trọng nhất là giải quyết vấn đề sở hữu. Đảng ta chủ trương đánh giá lạo tất cả hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp nhà nước và chia ra thành 2 bộ phận là doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh và các doanh nghiệp hoạt động mang tính chất phúc lợi xã hội. Đối với các doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu kinh doanh thì từng bước tiến tới giao toàn quyền chủ động cho các doanh nghiệp từ hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm đến hạch toán tài chính. những doanh nghiệp có khả năng phát triển nhà nước có thể hỗ trợ hoặc tiếp tục đầu tư, những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả thì có thể chuyển hình thức sở hữu nhà nước xuống tập thể và thậm chí sử dụng các biện pháp bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước. Đối với những doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả thì cho phá sản theo luật doanh nghiệp.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay để giải quyết tốt vấn đề sở hữu trong các doanh nghiệp nhà nước Đảng và nhà nước ta chủ trương tiến hành cổ phần hoá một bộ phận lớn các doanh nghiệp nhà nước để biến doanh nghiệp từ một chủ sở hữu là nhà nước thành doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu dưới hình thức các cổ đông. với nhưng doanh nghiệp có vị trí vai trò quan trọng nhà nước có thể nắm cổ phần không chế và duy trì dưới hình thức doanh nghiệp nhà nước, còn những doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn thì nhà nước sẽ trở thành những cổ đông thậm chí đối với những doanh nghiệp nhà nước không cần thiết tham gia thì trong quá trình cổ phần hoá nhà nước sẽ rút khỏi vai trò đối với doanh nghiệp.
Đối với các hoạt động vì mục tiêu phúc lợi xã hội hoặc vì an ninh quốc phòng của đất nước thì nhà nước tiếp tục bao cấp, rót vốn nhưng dựa trên cơ sở hạch toán, kiển toán và luôn luôn đề cao mục tiêu hiệu quả.
Còn đối với các tổ chức kinh tế tài chính thuộc sở hữu nhà nước như hệ thông ngân hàng, kho bạc dự trữ quốc gia thì nhà nước cũng tiến hành phân cấp cho các tổ chức nhà nước ở từng địa phương và vùng lãnh thổ nhưng vẫn có sự kiểm soát và quản lý thống nhất của nhà nước trung ương.
Kinh tế nhà nước với đặc điểm, vai trò và xu hướng vận động như đã phân tích có thể khẳng định đây là thành phần kinh tế quan trọng nhất trong toàn bộ cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của nước ta hiện nay.
* Kinh tế tập thể:
- Thành phần kinh tế tập thể bao gồm các hợp tác xã, các tổ hợp sản xuất kinh doanh tồn tại trong mọi lĩnh vực, mọi ngành của nền kinh tế quốc doanh.
- Thành phần kinh tế tập thể được hình thành dựa trên sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất và vốn thông qua nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và từ thấp đến cao.
- Kinh tế tập thể ở nước ta ra đời đầu tiên trong quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền bắc thông qua phong trào hợp tác hoá và nó trở thành phổ biến thông qua phong trào hợp tác hoá và nó trở thành phổ biến trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân sau khi đất nước thống nhất và cả nước tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Kinh tế tập thể ở nước ta có một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân đặc biệt trong thời kỳ cạnh tranh chống Mỹ cứu nước kinh tế tập thể đã trở thành hậu phương lớn của tiền tuyến lớn. Nhưng sau khi đất nước hào bình thống nhất cả nước phát triển nền kinh tế theo mô hình kinh tế tập thể đặc biệt ở nông thôn nhưng dựa trên quan điểm quản lý tập trung duy ý chí không cải tiến hoặc thay đổi phương thức hoạt động nên thành phần kinh tế tập thể ngày càng bộc lộ những mặt hạn chế khuyết tật và đi đến tan rã.
Từ khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng và nhà nước ta cũng đặc biệt quan tâm đến việc kiện toàn đổi mới hoạt động kinh tế tập thể hoặc kinh tế hợp tác bằng việc đưa ra chỉ thị khoán 10 và khoán 100 trong nông nghiệp. Đặc biệt từ nghị quyết đại hội đảng 7 Đảng và nhà nước ta đã nhận thức một cách đúng đắn và thực tiễn hơn đối với quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Vì vậy đã tiên hành chủ trương giao khoán đất rừng đòi cho các hộ nông dân để xây dựng quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Từ 1/1997 nhà nước ta ban hành luật hợp tác xã kiểu mới và phát triển mạnh mẽ hình thức kinh tế trang trại thì thành phần kinh tế tập thể nói chung và kinh tế hợp tác trong mọi lĩnh vực đã có một bước phát triển hết sức mới. Hiện nay kinh tế hộ gia đình ở nông thôn là một bộ phận quan trọng của kinh tế tập thể, nó giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc sản xuất ra nông phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước và đưa nước ta trở thành nước thứ 2 xuất khẩu lương thực trên thế giới?
Với những đặc điểm và vai trò của kinh tế tập thể như đã phân tích nghị quyết đại hội đảng 9 của đảng cộng sản việt nam nhấn mạnh kinh tế tập thể phải cùng với kinh tế nhà nước trở thành nền tảng của nên kinh tế quốc dân trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
* Thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ
Thành phần kinh tế này dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ về tư liệu sản xuất và sức lao động của bản thân những người sản xuất nhỏ như nông dân cá thể ở nông thôn, thợ thủ công cá thể và tiểu thương buôn bán nhỏ. Thành phần kinh tế này có quy mô nhỏ bé hoạt động phân tán kỹ thuật thủ công, tuy vậy nó lại có khả năng tham gia vào những hoạt động kinh tế dịch vụ ở mọi vùng lãnh thổ tạo ra công ăn việc làm tại chỗ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và đóng góp một phần không nhỏ trong thu nhập quốc dân của nền kinh tế. Thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ dễ bị phân hoá trong quá trình hoạt động vì mục đích của họ là lợi ích cá nhân do đó đòi hỏi nhà nước và thành phần kinh tế nhà nước cần phải giúp đõ dẫn dắt trong quá trình hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
* Thành phần kinh tế tư bản tư nhân:
Thành phần kinh tế này dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động là chính. Thành phần kinh tế này tồn tại dưới các hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty tư nhân một chủ thể. Thành phần kinh tế này hoạt động trong nhiều lĩnh vực củ nền kinh tế quốc dân. Nó có nguồn vốn tương đối lớn, kỹ thuật sản xuất tương đối hiện đại, tiên tiến, hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận vì vậy nó có trình độ tổ chức quản lý tương đối cao.
Thành phần kinh tế tư bản tư nhân ở Việt nam tồn tại trong quá trình cải tạo XHCN và bắt đầu hình thành trong quá trình đổi mới nền kinh tế. Thành phần kinh tế này có một vai trò hết sức to lớn trong nền kinh tế quá độ ở nước ta bởi vì nó có thể tham gia hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực, tạo ra một khối lượng việc làm lớn cho xã hội, tạo ra một doanh thu chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng sản phẩm xã hội. Sản phẩm của Thành phần kinh tế tư nhân góp phần làm tăng uy tín thương hiệu sản phẩm Việt nam trên thương trường thế giới.
Nhưng do đặc điểm Thành phần kinh tế tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất và lấy lợi nhuận làm mục tiêu hoạt động do đó t Thành phần kinh tế này có xu hướng phát triển theo con đường tư bản vì vậy đòi hỏi nhà nước cần phải có sự tổ chức quản lý hướng dẫn một cách chặt chẽ. Nhưng để phát huy sức mạnh của thành phần kinh tế này thì hội nghị Ban chấp hành lần thứ 5 khoá 9 (2002) đã đưa ra một nghị quyết về việc phát triển Thành phần kinh tế tư nhân trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam hiện nay.
* Thành phần kinh tế tư bản nhà nước:
Đây là thành phần kinh tế được hình thành dựa trên sở hữu hỗn hợp thông qua việc kết hợp giữa nhà nước việt nam với các nhà tư bản tư nhân trong và ngoài nước. Thành phần kinh tế này tồn tại dưới các hình thức xí nghiệp liên doanh, liên kết, các xí nghiệp công tư hợp doanh. Thành phần kinh tế này có nguồn vốn lớn kỹ thuật sản xuất hiện đại tiên tiến, có kinh nghiệm tổ chức quản lý cao, có quan hệ kinh tế quốc tế rộng rãi. Thành phần kinh tế này xuất hiện đầu tiên ở nước ta trong quá trình cải tạo hoà bình đối với giai cấp tư sản dân tộc và đặc biệt được mở rộng sau khi nước ta ban hành luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam (12/87)
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước có một vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế quá độ đặc biệt là đối với những nước có nền kinh tế kéo phát triển như Việt nam đi lên chủ nghĩa xã hội lại không trải qua phát triển tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy Lê Nin có nhấn mạnh Thành phần kinh tế tư bản nhà nước nó là cầu nối (nó tạo ra những điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng) để cho các nước có nền kinh tế kém phát triển đi lên Chủ nghĩa xã hội mà không cần trải qua chủ nghĩa tư bản.
ở nước ta bước vào thời kỳ quá độ từ một xuất phát điểm hết sức thấp, nền kinh tế thiếu hụt toàn bộ cơ sở vật chất kỹ thuật cho một nền sản xuất lớn do đó phát triển Thành phần kinh tế tư bản nhà nước sẽ giúp cho chúng ta khắc phục được những mặt thiếu hụt về nguồn lực, đồng thời là cơ hội để tạo ra một trường học cho lao động Việt Nam học tập, rèn luyện cả về kỹ thuật và phương thức tổ chức quản lý một nền sản xuất lớn.
Để phát huy vai trò của thành phần kinh tế này đảng và nhà nước ta ngày càng nhận thức rõ sự cần thiết khách quan phải mở rộng và thúc đẩy thành phần kinh tế này cũng đồng thời rút ra được những mặt hạn chế trong cơ chế chính sách của nước ta để không ngừng đổi mới bổ sung cho phù hợp với thông lệ của khu vực và quốc tế.
* Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài:
Từ nghị quyết đại hội lần thứ 9 thì trong nền kinh tế nước ta xuất hiện một thành phần kinh tế mới gọi là thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt nam. Thành phần kinh tế này dựa trên sở hữu 100% vốn của các đối tác nước ngoài, tồn tại dưới các hình thức doanh nghiệp đầu tư trực tiếp trong các khu công nghiệp xuất khẩu, khu chế xuất, khu kinh tế tự do (mở). Thành phần kinh tế này có đặc điểm
+ Vốn lớn, kỹ thuật hiện đại, trình độ tổ chức quản lý mang tính quốc tế, hoạt động hoàn toàn vì mục tiêu lợi nhuận và bóc lột lao động làm thuê. ở nước ta trong giai đoạn quá độ hiện nay việc hình thành và phát triển thành phần kinh tế này có ý nghĩa rất quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. Về mặt lý luận nó khẳng định tính chất đa sở hữu đa loại hình hoạt động trong nền kinh tế quá độ nước ta nó giúp Việt nam ngày càng khẳng định được mình để có thể tham gia vào hội nhập khu vực và quốc tế. Còn về mặt thực tiễn việc phát triển này giúp cho Việt nam khắc phục tình trạng thiếu hụt rất quan trọng về nguồn lực qua đó thu hút nguồn đầu tư ngày càng lớn (nhất là dòng vốn FDI) để thực hiện mục tiêu tăng trưởng phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đất nước ta.
*Phân tích mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam
- Nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ là một nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên nhiều quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất vì vậy giữa các thành phần kinh tế luôn luôn tồn tại mối quan hệ vừa thống nhất vừa mâu thuẫn nhau.
Tính thống nhất giữa các thành phần kinh tế được thể hiện ở chỗ
+ Tất cả các thành phần kinh tế trong quá trình hoạt động không biệt lập với nhau mà gắn bó đan xen và phụ thuộc vào nhau thông qua các mối quan hệ kinh tế vì tất cả các thành phần kinh tế này là bộ phận hợp thành nền kinh tế thống nhất.
+ Tất cả các thành phần kinh tế trong quá trình hoạt động mặc dù có đặc điểm khác nhau (sở hữu), mục đích hoạt động cũng có thể khác nhau và xu hướng vận động cũng có thể khác nhau nhưng tất cả các thành phần kinh tế này đều chịu sự quản lý thống nhất của nhà nước Việt Nam.
Tất cả các thành phần kinh tế dù có đặc điểm khác nhau trong quá trình hoạt động nhưng nó đều chịu sự tác động khách quan của các quy luật kinh tế và các phạm trù kinh tế khách quan.
+ Tất cả các thành phần kinh tế tham gia vào quá trình sản xuất hàng hoá thì sản phẩm đều thông qua một thị trường thống nhất dưới sự tác động của quy luật cung cầu và sự biến động của giá cả vì mục tiêu hiệu quả kinh tế.
Bên cạnh tính thống nhất thì giữa các thành phần kinh tế cũng luôn luôn tồn tại mối quan hệ mâu thuẫn đó là:
+ Do đặc điểm mỗi thành phần kinh tế được hình thành dựa trên một quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất vì vậy tất yếu quan hệ lợi ích giữa các thành phần kinh tế là mâu thuẫn với nhau.
+ Mỗi một thành phần kinh tế có một quy mô và sức mạnh kinh tế không giống nhau vì vậy trong quá trình hoạt động giữa các thành phần kinh tế tồn tại một mối quan hệ cạnh tranh và mâu thuẫn nhau.
+ Giữa các thành phần kinh tế ở nước ta tồn tại một mối quan hệ mâu thuẫn trong xu hướng phát triển bởi vì một số thành phần kinh tế thuộc sở hữu nhà nước hoặc tập thể thì xu hướng phát triển là đi lên chủ nghĩa xã hội nhưng ngược lại thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ, tư bản tư nhân vì mục tiêu chạy theo lợi nhuận nên xu hướng phát triển lại theo con đường tư bản.
Như vậy giữa các thành phần kinh tế luôn luôn tồn tại mối quan hệ vừa thống nhất vừa mâu thuẫn như đã phân tích. Để tạo điều kiện cho tất cả các thành phần kinh tế ở nước ta không ngừng phát triển để tạo ra sức mạnh tổng hợp cho nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ quá độ hiện nay đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải :
+ Nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ để cho tất cả các thành phần kinh tế yên tâm và có động lực trong quá trình hoạt động.
+ Nhà nước cần phải quản lý nền kinh tế theo pháp luật và tạo điều kiện để cho các thành phần kinh tế đều bình đẳng với nhau về quyền lợi nghĩa vụ.
+ Để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa thì Đảng và nhà nước phải tạo điều kiện để kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần.
Phần mới học
2-3-2003
Chương XIII
công Nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1. Vì sao nói công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta?
Để xây dựng một nền kinh tế thì trong lịch sử tất cả các quốc gia đều phải tạo lập ra cho mình một cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê Nin thì cơ sở vật chất kỹ thuật của một phương thức sản xuất đó là một hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất phù hợp với trình độ kỹ thuật, công nghệ mà lực lượng lao động của xã hội có thể sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu của toàn xã hội.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người ở các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản, cơ sở vật chất kỹ thuật thường là thủ công – lạc hậu.
Còn cơ sở vật chất kỹ thuật của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được Các Mác khẳng định đó là một nền đại công nghiệp cơ khí hoá ngày càng phát triển cả về mặt quy mô và trình độ.
Còn cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội (giai đoạn đầu của phương thức cộng sản chủ nghĩa) được Mác khẳng định đó là một nền sản xuất lớn, hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hoá cao, dựa trên trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại và nó được hình thành một cách có kế hoạch và thống nhất trong phạm vi tất cả nền kinh tế quốc dân.
* Nước ta bước vào thời kỳ quá độ tư một xuất phát điểm hết sức thấp, đó là một nền nông nghiệp mang nặng tính tự cấp tự túc, kỹ thuật thủ công năng suất thấp, do đó chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội thiếu hẳn một cốt vật chất cho một nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa đó là nền đại công nghiệp cơ khí vì vậy Đảng và nhà nước ta khẳng định: nhiệm vụ quan trọng và cơ bản nhất trong thời kỳ quá độ ở nước ta là phải tưng bước tạo lập ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Muốn thực hiện được nhiệm vụ đó thì phải tiến hành công nghiệp hoá. vì vậy ngay tư nghị quyết đại hội Đảng 3 (1960) Đảng ta đã nhấn mạnh: công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Từ Đại hội đảng 3 cho đến nay quan điểm này vẫn được đảng và nhà nước ta nhất quán. nhưng nghị quyết đại hội Đảng 7 trên cơ sở phân tích tình hình thực tiễn trong nước và quốc tế, để tránh nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế nước ta so với nền kinh tế khu vực và thế giới đại hội đảng 7 chỉ rõ quá trình chông nghiệp hoá ở nước ta cần phải gắn kết với việc hiện đại hoá để sản xuất ra những sản phẩm có tính cạnh tranh trên thị trường trong nước, khu vực và quốc tế, từ đó quan điểm này đước đại hội đảng ta và đặc biệt đại hội đảng 9 nhất quán và nhấn mạnh, xem đó là nhiệm vụ trung tâm và xuyên suốt thời kỳ quá độ ở nước ta.
2. Phân tích quan điểm và các mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghiã xã hội.
* Các quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
- Trước đây ở nước ta và thế giới tồn tại phổ biến một quan điểm công nghiệp hoá là một quá trình tạo lập ra cơ sở vật chất – kỹ thuật cho nền kinh tế gắn kết với việc chuyển lao động từ thủ công sang nửa co khí và cơ khí.
- Nhưng từ đầu thế kỷ 20 cho đến nay dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ thì trên thế giới lại xuất hiện những quan điểm mới về công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Theo quan điểm của liên hiệp quốc thì công nghiệp hoá đó là một quá trình phát triển kinh tế mà trong đó một bộ phận nguồn lực của quốc gia ngày càng lớn được huy động vào việc phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn và hiện đại nhằm sản xuất ra những tư liệu sản xuất, vật phẩm tiêu dùng có khả năng đảm bảo cho nền kinh tế quốc dân phát triển với một nhịp độ tăng trưởng ngày càng cao và tạo ra được sự công bằng tiến bộ trong nền kinh tế xã hội.
- Nước ta từ khi bước vào thời kỳ đổi mới cho đến nay (1986) kết hợp cả những quan điểm, quan niệm truyền thống trước đây của Việt Nam và thế giới cũng với việc vận dụng những quan điểm hiện đại của thế giới vào điều kiện cụ thể của Việt Nam thi ngay từ đại hội đảng 7 đảng ta đã đưa ra một quan điểm:
+ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam đó là một quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ việc sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một chách phổ biến lao động cùng với những công nghệ, phương tiện và phương pháp tiến tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng xuất lao động xã hội ngày càng cao.
+ Quan điểm mới về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt nam có những nét khác với quan điểm trước đây về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đó là
. Trước đây công nghiệp hoá, hiện đại hoá được tiến hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp. Còn ngày nay công nghiệp hoá, hiện đại hoá được thực hiện theo cơ chế mới đó là cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước.
. Trước đây công nghiệp hoá được hiểu là nhiệm vụ chủ yếu của nhà nước và được thực hiện thông qua 2 khu vực quốc doanh và tập thể là chủ yếu nhưng ngày nay công nghiệp hoá được xác định là nhiệm vụ của toàn đảng toàn dân và tất cả các thành phần kinh tế.
. Chiến lược công nghiệp hoá trước đây là hướng nội hay nói cách khác công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu. Nhưng ngày nay chiến lược công nghiệp hoá ở nước ta chủ yếu là hướng ngoại hay nói cách khác tiến hành công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Trong điều kiện nền kinh tế Việt nam mở cửa với khu vực và thế giới nhằm phát huy lợi thế so sánh của Việt Nam, khai thác các nguồn ngoại lực từ bên ngoài để thực hiện các mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
* Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong thời kỳ quá độ hiện nay.
Có thể quan niệm mục tiêu quan trọng nhất và trọng tâm nhất của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam là từng bước tạo lập ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ở Việt nam.
Nhưng mục tiêu cụ thể và những định hước trước mắt của công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà nghị quyết đại hội đảng 9 đã đưa ra đó là:
+ Từng bước phấn đấu thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
+ Thực hiện việc phân công lại lực lượng lao động xã hội tạo điều kiện để hình thành những ngành sản xuất công nghiệp mới, những lĩnh vực kinh tế, dịch vụ mới theo hướng chuyển lao động nông nghiệp sang công nghiệp – dịch vụ và thực hiện phân công lao động tại chỗ bằng cách gắn công nghiệp hoá, hiện đại hoá với nông nghiệp – nông thôn.
+ Nghị quyết đại hội đảng 9 đưa ra mục tiêu có gắng phấn đấu để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
3. Phân tích những nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ hiện nay:
- Căn cứ vào những mục tiêu và các quan điểm định hướng cho nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong thời kỳ quá độ hiện nay thì kể các trước kia, hiện nay Đảng ta luôn luôn nhấn mạnh có 2 nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đó là:
+ Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý
+ Đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá để trang bị kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân
a) Xây dưng cơ cấu kinh tế hợp lý:
Để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý trong nền kinh tế bao giờ cũng gắn liền với quá trình thực hiện phân công lại lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hoá lao động và những ngành sản xuất và trong nội bộ từng ngành sản xuất gắn liền với các vùng lãnh thổ của nền kinh tế quốc dân.
Phân công lao động xã hội có tác dụng rất to lớn bởi vì nó tạo ra nhũng đòn bẩy đối với sự phát triển khoa học công nghệ. Nhưng để thực hiện được việc phân công lao động xã hội có hiệu quả cần quan tâm những vấn đề sau đây.
+ Tỷ trọng lao động cả về mặt tuyệt đối và tương đối trong lĩnh vực nông nghiệp phải giảm xuống còn tỷ trọng lao động trong những ngành công nghiệp và dịch vụ phải tăng lên cả tương đối lẫn tuyệt đối.
+ Tỷ trọng lao động trí tuệ ngày càng phải chiếm ưu thế so với lao động giản đơn trong tổng lực lượng lao động xã hội.
+ Tốc độ tăng lao động trong các ngành phi sản xuất vật chất hoặc dịch vụ phải tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng lao động trong những ngành sản xuất.
Từ những quan điểm như đã phân tích thì đi đôi với quá trình phân công lạo lao động xã hội ở nước ta một cơ cấu kinh tế mới được xem là hợp lý ở nước ta phải là:
Đó là một cơ cấu bao gồm tổng thể các quan hệ kinh tế hay các bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân, gắn với vị trí, trình độ công nghệ, quy mô tỷ trọng tương ứng với từng bộ phận và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận với nhau, gắn với điều kiện kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định.
Cơ cấu kinh tế ở nước ta được cấu trúc thành 4 nhóm
- Cơ cấu ngành kinh tế: đây là một cơ cấu phản ánh mối quan hệ tương tác giữa các ngành kinh tế chủ yếu của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành kinh tế được xem xét trên phạm vi vĩ mô đó là nền kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia và ở Việt nam hiện nay được xác định đó là cơ cấu công – nông nghiệp và dịch vụ. Cơ cấu kinh tế này cũng được xem là cơ cấu của các trung tâm đầu mối của nền kinh tế nước ta nhờ như Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh.
Còn cơ cấu ngành kinh tế ở
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tai_lieu_on_tap_mon_kinh_te_chinh_tri_co_dap_an.doc