Trong nền kinh tế hàng hoá, có nhiều doanh nghiệp, nhiều đơn vị tổ chức kinh tế hoạt động kinh doanh trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau. Có ngành tạo ra sản phẩm hàng hoá cho xã hội như nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, có ngành chỉ làm nhiệm vụ lưu thông phân phối, lại có ngành chỉ làm nhiệm vụ lưu thông phân phối, lại có ngành chỉ thuần tuý cung cấp dịch vụ (vận tải, bưu chính viễn thông). Ngân hàng (NH) là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. NH bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó NH thương mại (NHTM) thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản,thị phần, số lượng các NH. Hoạt động của NHTM trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng và dịch vụ NH và được coi là một loại định chế tài chính đặc biệt của nền kinh tế thị trường. Người ta cho rằng NHTM ra đời trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá phát triển tới một trình độ nhất định, đồng thời qua quá trình tồn tại và phát triển hàng nhiều thế kỷ, hệ thống NHTM ngày càng được hoàn thiện, NHTM trở thành một trong những định chế không thể thiếu của nền kinh tế thị trường, hoạt động của NHTM đã và sẽ góp phần to lớn trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vì vậy nghiên cứu họat động của NHTM và tác động của nó tới tăng trưởng kinh tế giúp chúng ta có thể nhìn nhận những đóng góp cũng như những mặt còn yếu kém của hệ thống NH nói chung và NHTM nói riêng tới nền kinh tế Việt Nam (VN), từ đó đưa ra những khuyến nghị và giải pháp nhằm đối mặt với những thách thức của quá trình hội nhập kinh tế thế giới hiện nay.
18 trang |
Chia sẻ: phuongt97 | Lượt xem: 715 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Tài liệu Ngân hàng thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kiện thị trường tài chính còn sơ khai, tín dụng NH là kênh chủ yếu cung ứng vốn cho chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế trong suốt 20 năm qua. Dư nợ tín dụng NH tăng trung bình khoảng 25%/năm và hiện chiếm khoảng 50% GDP.
Căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Chính phủ, nhiệm vụ của ngành NH, từng NH đã xây dựng và thực thi chính sách tín dụng riêng phù hợp, góp phần đáng kể vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cùng với nguồn vốn ngân sách, tín dụng NH đã góp phần vào việc thực hiện thành công nhiều chương trình, dự án lớn của quốc gia và của các ngành kinh tế mũi nhọn, nhất là khu vực công nghiệp – xây dựng và khu vực nông nghiệp. Đây là hai nhóm ngành đóng góp lớn nhất cho tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Nhận thức sâu sắc quan điểm kinh tế nhiều thành phần và vai trò của các khu vực kinh tế, hệ thống NH VN đã có những chuyển biến căn bản về hoạt động tín dụng, tỉ trọng cho vay khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã tăng từ khoảng 20% năm 1989 lên khoảng 50% trong giai đoạn hiện nay. Nhờ đó, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã mở rộng sản xuất kinh doanh, đóng góp ngày càng nhiều cho tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động. Hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp khoảng 31% giá trị sản xuất công nghiệp và 26% GDP, tạo công ăn việc làm cho 26% lao động trong nước. Ngành NH đã coi đổi mới hoạt động tín dụng NH là khâu quan trọng trong đổi mới quản lý kinh tế, từng bước xóa bỏ phương thức quản lý bao cấp sang quản lý theo chế độ hạch toán kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sử dụng vốn NH. Các doanh nghiệp đã phát huy tinh thần tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh, giảm dần sự ỷ lại và trông chờ vào sự bao cấp của Chính phủ. Ngành NH cũng đóng góp đáng kể vào việc phát huy nội lực, huy động các nguồn vốn trong nước cho sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển, góp phần chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từ nền kinh tế khép kín và phụ thuộc vào nhập khẩu sang nền kinh tế mở định hướng xuất khẩu, tăng dần khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp VN.
3. NHTM trong việc tham gia phát triển thị trường chứng khoán
Trên thị trường sơ cấp, nhằm phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng, nhu cầu vốn dài hạn thông qua phát hành trái phiếu của các NHTM là rất lớn. Việc các NHTM phát hành trái phiếu có ý nghĩa quan trọng: một mặt, nó góp phần tăng hàng hoá cho thị trường chứng khoán, mặt khác nó là một kênh dẫn vốn quan trọng cho các NHTM.
Với tiềm lực tài chính mạnh và khả năng sử dụng vốn ngắn hạn đầu tư dài hạn, các NHTM có thể đóng vai trò là nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu, đặc biệt là đối với trái phiếu Chính phủ, vốn đòi hỏi tầm nhìn đầu tư trung và dài hạn. Với độ tín nhiệm cao và tiềm lực tài chính mạnh, các NHTM có ưu thế lớn khi tham gia bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ.
Hoạt động kinh doanh trái phiếu của NHTM trên thị trường thứ cấp thực chất là hoạt động chiết khấu, tạo thanh khoản cho thị trường.
4. Góp phần thực thi các chính sách tiền tệ của NH trung ương để ổn định kinh tế
NH trung ương đề ra các chính sách tiền tệ nhằm hai mục đích: ổn định kinh tế và can thiệp tỷ giá hối đoái. Để các chính sách này có thể tác động tới nền kinh tế, NHNN phải sử dụng các công cụ tác động tới hoạt động của hệ thống NHTM:
Các NHTM duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc (tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi) của NH trung ương để đảm bảo tính thanh khoản. Khi NHNN quy định thay đổi tỷ lệ dự trữ của NHTM, nó sẽ làm thay đổi số nhân tiền tệ, qua đó giúp điều chỉnh tăng giảm lượng cung tiền, ổn định giá và kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế.
Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của NH Trung ương mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các NHTM, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các NHTM dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ.
Khi NHNN muốn bơm thêm tiền vào lưu thông, nó sẽ bơm qua hệ thống NHTM. Các doanh nghiệp muốn vay nguồn vốn này để đầu tư phải được bộ phận thẩm tra dự án của NHTM thông qua tính khả thi. Vì thế NHTM giúp cho các chính sách thích hợp được sử dụng để chống suy giảm kinh tế, nguồn vốn được phân phối một cách hợp lý nhất, phát huy hiệu quả kích cầu đầu tư, ổn định thị trường tiền tệ, lãi suất, tỷ giá và hỗ trợ vốn khả dụng cho những tổ chức tín dụng có điều kiện mở rộng huy động vốn và tín dụng có hiệu quả đối với nền kinh tế.
5. NHTM là cầu nối kinh tế quốc gia với kinh tế quốc Tế.
Ngày nay, toàn cầu hóa là xu hướng chung của toàn thế giới. Các nước không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác với các nước khác, mọi quốc gia không thể tự sản xuất và cung cấp những thứ mà mình cần. Một nước sẽ nhập khẩu những sản phẩm mà họ chưa sản xuất được đồng thời xuất khẩu những sản phẩm mà họ chiếm ưu thế, do đó các quan hệ thương mại, dịch vụ giữa các nước nảy sinh ngày càng nhiều. Mà hầu hết mỗi nước đều có đồng tiền riêng của mình dẫn đến việc trao đổi các đồng tiền khác nhau, đồng tiền này đổi lấy đồng tiền khác. Từ đó xuất hiện hoạt động thanh toán quốc tế và hình thành thị trường kinh ngoại hối.
Có một số phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu sau: Phương thức chuyển tiền, Phương thức nhờ thu, Phương thức COD & CAD
Trong suốt quá trình phát triển kinh tế đối ngoại của đất nước những năm qua, ngành NH đóng vai trò hầu như duy nhất trong lĩnh vực dịch vụ thanh toán và dịch vụ tín dụng xuất – nhập khẩu
Một trong những hoạt động cơ bản của NHTM là trung gian thanh toán. Với chức năng này NHTM có một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiện nay thanh toán quốc tế đang là một hoạt động quan trọng của các NHTM. Các NHTM cung cấp các phương thức thanh toán quốc tế nhờ đó mà bạn dễ dàng trong việc thanh toán cho một hợp đồng kinh tế nào đó.Trong kinh doanh ngày nay, thanh toán quốc tế đang ngày trở nên phổ biến. Những phương thức thanh toán truyền thống như tiền mặt đã dần được thay thế bằng những phương thức thanh toán hiện đại hơn, nhanh chóng hơn đó là nhờ có hệ thống NHTM. Thử hình dùng nếu bạn có quan hệ đối tác làm ăn với các thương nhân nước ngoài mà bạn không có các phương thức thanh toán quốc tế thì sẽ như thế nào? Hẳn là sẽ không thể kinh doanh được. Và đương nhiên nếu không có hệ thống NHTM thì cũng sẽ không có nhà cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế cho doanh nghiệp, điều đó cũng có nghĩa là việc lưu thông vốn giữa các nước sẽ gặp khó khăn.
II. Những tồn tại ảnh hưởng xấu tới tăng trưởng
Đứng trên góc độ quản lý, để các NH yếu là tiềm ẩn nguy cơ cho nền kinh tế và sự tăng trưởng các ngành khác.
1. Năng lực tài chính còn hạn chế, khả năng thanh khoản, sử dụng vốn chưa hiệu quả
Dù hệ số an toàn vốn tối thiểu của hầu hết NHTM (NHTM) đều đạt theo chuẩn yêu cầu của NHNN, nhưng bình quân quy mô vốn chủ sở hữu của 10 NHTM lớn nhất VN mới chỉ đạt khoảng 500 triệu USD. Ngoài hệ thống NHTM quốc doanh có số vốn điều lệ thuộc loại trung bình so với các NH trong khu vực, các NHTM có quy mô vốn nhỏ đều nằm trong tình trạng cần tăng vốn để đáp ứng yêu cầu hoạt động. Điều này làm cho khả năng thanh khoản và tính bền vững của hệ thống chưa cao. NH vốn là một lĩnh vực nhạy cảm bởi nó liên quan tới dòng tiền chảy trong nền kinh tế, nó là trung gian giữa nguời có tiền và nhà đầu tư vay vốn, nếu NH mất tính thanh khoản, rơi vào khủng hoảng thì người dân sẽ hoảng loạn và toàn bộ nền kinh tế khủng hoảng theo phản ứng dây chuyền.
Trong 32 NHTM ở VN, chỉ có khoảng 79% NH sử dụng hiệu quả đầu vào, không ít NH sử dụng nguồn vốn huy động ngắn hạn để cho vay dài hạn chưa hợp lý. cơ cấu hệ thống tài chính còn mất cân đối, hệ thống NH vẫn là kênh cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu. Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn vay huy động ngắn hạn chuyển cho vay trung và dài hạn chiếm tới khoảng 50% tổng số vốn huy động ngắn hạn.
Để nâng cao năng lực tài chính của các NHTM bằng việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, điều chỉnh lãi suất tiền gửi trung và dài hạn hợp lý. Ngoài ra, các NH cần cơ cấu đầu tư vốn trong điều kiện mới theo hướng, giảm dần tỷ trọng cho vay ngắn hạn, tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn, phát triển cho vay tiêu dùng đối với các cá nhân trong nền kinh tế.
2. Tính bền vững của hệ thống chưa cao, kém sức cạnh tranh, dịch vụ chưa phát triển, các NH chủ yếu cung cấp dịch vụ tín dụng, thanh toán và chuyển tiền.
Việc hệ thống NH thiếu tính bền vững không chỉ do năng lực tài chính còn hạn chế mà còn vì giữa các NH chưa có tính liên kết cao. Sự lỏng lẻo trong liên kết giữa các NH khiến cho lãng phí tiền bạc, giảm cơ hội tiếp cận tín dụng tiêu dùng cho người dân và quy mô tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế, hạn chế sự minh bạch về thông tin, không bảo đảm an toàn cho hoạt động NH. Tuy số lượng NHTM lớn nhưng với quy mô NHTM hiện nay, rất khó có thể đương đầu với thách thức ngày càng lớn hơn trên thị trường. Quy mô tổng tài sản còn rất nhỏ, dịch vụ sản phẩm NH nghèo nàn, năng lực cạnh tranh kém là những nét cơ bản của hệ thống NH trong nước. Đứng trên góc độ quản lý, để các NH yếu là tiềm ẩn nguy cơ cho nền kinh tế và sự tăng trưởng các ngành khác.
Theo các chuyên gia ngành tài chính, dự kiến đến năm 2010, trên thị trường tài chính VN sẽ khó tránh khỏi việc sát nhập và mua lại giữa các NH lớn và nhỏ, đây là xu thế tất yếu.
Cũng chính vì mục tiêu phát triển bền vững trên thị trường tài chính trong thời gian tới thì những đơn vị quy mô nhỏ cần phải liên kết để tạo sức mạnh cho mình, nếu chỉ có một mình, khó xây được nền tảng vững chắc, Thị trường chắc chắn hình thành xu thế "liên kết tăng sức mạnh". Chính vì thế, ABBank đã và đang từng bước nâng cao năng lực tài chính, hợp tác với nhiều đối tác chiến lược. Hiện ngoài cổ đông chính là Tập đoàn EVN, ABBank còn hợp tác với Công ty cổ phần Bách Việt và đang trong quá trình tìm kiếm thêm cổ đông chiến lược khác.
Vì theo lộ trình cam kết với WTO, kể từ ngày 1/4, các NH con 100% vốn ngoại sẽ được phép thành lập và hoạt động tại thị trường tài chính VN. Và đến năm 2010, các NH nước ngoài hoạt động tại VN sẽ được đối xử bình đẳng như các NH trong nước, nếu không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt để nâng cao năng lực cạnh tranh, các NH nhỏ sẽ khó tồn tại khi có sự lấn sân ngày càng sâu của NH ngoại. Nếu tỷ lệ khống chế nhà đầu tư nước ngoài trong NHTM VN được tăng lên, sự phụ thuộc của các NHTM vào nhà đầu tư nước ngoài rất lớn nhất là khi các NHTM không ngừng tăng vốn và có thể sáp nhập.
Ở các nước trên thế giới, một khi thị trường tài chính phát triển thì việc sáp nhập và mua lại là một hiện tượng bình thường. Thế nhưng do ở VN vẫn còn quá mới mẻ nên có thể các NH chưa quen với hiện tượng này.
Ngoài dịch vụ thẻ mới được chú trọng trong thời gian gần đây, các dịch vụ khác như quản lý tài sản, quản lý đầu tư chưa phát triển. Theo thống kê của NHNN (NHNN), hiện các NH nước ngoài có thể cung cấp khoảng 1.000 dịch vụ khác nhau cho khách hàng, trong khi các NH VN chỉ có chưa đầy 100 dịch vụ. Hiện nay 90% các doanh nghiệp nông nghiệp, nông thôn, nông dân vẫn khó tiếp cận các dịch vụ NH.
Các NHTM cần tăng cường hiện đại hoá công nghệ NH và hệ thống thanh toán, nghĩa là cần tăng mức vốn đầu tư để trang bị kỹ thuật. Tuy nhiên, các dự án đầu tư công nghệ cần tính toán kỹ lưỡng để sử dụng công suất phù hợp với chiến lược mở rộng kinh doanh của NH.
3. Công tác quản trị tài sản nợ - có, quản trị rủi ro còn hạn chế
Năng lực kinh doanh còn yếu, sức đề kháng với thị trường chưa có nhưng tính tuân thủ, một trong những yêu cầu hàng đầu của các định chế tài chính chưa đầy đủ. Chính sách và thực thi quản trị rủi ro chưa được đặt lên hàng đầu, có NH sẵn sàng bỏ qua những quy định của pháp luật, quy chế của NHNN, quy định nội bộ chỉ vì mục tiêu kinh doanh trước mắt, rồi tự trói chính mình vào các rủi ro tiềm ẩn. Nguyên nhân sâu sa là công tác quản trị tài sản nợ tại các NHTM còn yếu, các NH chưa thực sự làm chủ được nguồn vốn huy động với đặc điểm về loại tiền, kỳ hạn thực tế luôn biến động trong bối cảnh lạm phát cao, đồng USD xuống giá và TTCK suy giảm.
Năm 2007 có gần 50 tổ chức tín dụng có tốc độ tăng trưởng dư nợ trên 50% và gần 30 tổ chức tín dụng có tốc độ tăng trưởng dư nợ trên 100%. Nhiều tổ chức tín dụng chưa xây dựng hệ thống đánh giá xếp hạng tín dụng nội bộ cho các nhóm khách hàng theo thông lệ.
Vấn đề đặt ra là trong bối cảnh hệ thống kiểm soát rủi ro tài chính còn quá yếu kém, nền kinh tế đều đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, thì việc mở cửa quá nhanh liệu có phải là không thận trọng. Rủi ro đối với hệ thống NH VN có thể tăng lên do các NH nước ngoài nắm quyền kiểm soát một số tổ chức tài chính trong nước thông qua hình thức góp vốn, mua cổ phần, liên kết kinh doanh; một số tổ chức tài chính trong nước sẽ gặp rủi ro và có nguy cơ thua lỗ, phá sản do sức cạnh tranh kém và không có khả năng kiểm soát rủi ro khi tham gia các hoạt động NH quốc tế. Mở cửa thị trường tài chính trong nước cũng làm tăng rủi ro do những tác động từ bên ngoài, cơ hội tận dụng chênh lệch tỉ giá, lãi suất giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế giảm dần. Hệ thống NH VN cũng phải đối mặt với các cơn sốc kinh tế, tài chính quốc tế và nguy cơ khủng hoảng. Trong trường hợp đó, thị trường vốn chưa phát triển sẽ khiến hệ thống NH phải chịu mức độ thiệt hại lớn hơn do rủi ro gây lên.
Vấn đề đặt ra là cần thực hiện quản trị NHTM từ chiều rộng sang chiều sâu theo hướng nâng cao năng lực quản trị rủi ro thông qua việc hoàn thiện bộ máy tổ chức quản trị nội bộ, thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra và chế độ báo cáo thường xuyên.
4. Chất lượng nguồn nhân lực NH kém, chính sách chưa thỏa đáng dẫn tới chảy máu chất xám:
Một trong những động lực của tăng trưởng kinh tế phải kể tới nguồn lao động. Cũng như lao động trong nước nói chung, lao động trong ngành NH cũng đang vấp phải những yếu kém đặc biệt là về chất lượng.
Theo dự báo của Bộ Tài chính, đến năm 2010, “cầu” nhân lực các lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán, kiểm toán và thẩm định giá vào khoảng 13.500 “sản phẩm”. Trong đó, lĩnh vực chứng khoán cần 5.000, kiểm toán cần khoảng 3.000, thẩm định giá cần 500... Nhưng những phản hồi của nhà tuyển dụng cho thấy : Hầu hết sinh viên được đào tạo từ các trường, học viện chưa đáp ứng được yêu cầu công việc, do chương trình đào tạo lạc hậu, trình độ giảng viên thấp và phương pháp giảng dạy cũ. Hậu quả lớn nhất của việc tạo ra nguồn nhân lực yếu kém trong ngành NH không chỉ nằm ở chỗ tạo ra áp lực về việc làm (lao động khó tìm việc) mà còn cản trở cho việc chọn lựa những lao động thực sự có trình độ chuyên môn.
Không quá khi nói nhân lực kém chất lượng cũng là một trong những dạng cực kỳ nguy hiểm vì nó ảnh hưởng tới năng suất lao động và từ đó làm giảm tăng trưởng kinh tế.
Các chính sách đối với lao động chưa thỏa đáng, đội ngũ nhân viên chất lượng cao chưa được phát huy hết năng lực, bên cạnh đó tồn tại 1 lượng lớn lao động thiếu trình độ chuyên môn, còn tồn tại quá nhiều thời gian nhàn rỗi, gây tốn kém và kìm hãm tốc độ của hệ thống tài chính.
Các doanh nghiệp nước ngoài vẫn có sức hấp dẫn hơn nhiều so với doanh nghiệp trong nước, nhất là được hưởng mức lương cao và ít nhất người lao động cũng học hỏi được nhiều kinh nghiệm quý báu về chuyên môn.
Riêng trong năm 2007, gần 100 cán bộ đã xin nghỉ việc tại NHNN. Sự ra đi của những cán bộ có kinh nghiệm và nắm rõ cơ chế chính sách liên quan tới tài chính, NH là một tổn thất lớn cho ngành NH trong nước nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Kết luận:
Ngành NH cũng nhận thức được rằng thách thức trong quá trình hội nhập là rất lớn và ngày càng phức tạp nhưng nếu đẩy nhanh quá trình gia nhập WTO sẽ giúp ngành NH tận dụng được cơ hội để phát triển, qua đó nâng cao vị thế, sức cạnh tranh của hệ thống NH và của các doanh nghiệp VN trên thị trường quốc tế. Do đó nhiệm vụ phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế trong những năm tới là rất nặng nề. Hội nhập quốc tế sẽ làm tăng uy tín và vị thế của hệ thống NH VN, nhất là trên thị trường tài chính khu vực. hội nhập quốc tế là động lực thúc đẩy cải cách, buộc các NH trong nước phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường, khắc phục những nhược điểm còn tồn tại, đồng thời phải tăng cường năng lực cạnh tranh trên cơ sở nâng cao trình độ quản trị điều hành và phát triển dịch vụ NH. Trong quá trình hội nhập và mở cửa thị trường tài chính trong nước, khung khổ pháp lý sẽ hoàn thiện và phù hợp dần với thông lệ quốc tế, dẫn đến sự hình thành môi trường kinh doanh bình đẳng và từng bước phân chia lại thị phần giữa các nhóm NH theo hướng cân bằng hơnKinh doanh theo nguyên tắc thị trường cũng buộc các tổ chức tài chính phải có cơ chế quản lý và sử dụng lao động thích hợp, đặc biệt là chính sách đãi ngộ và đào tạo nguồn nhân lực nhằm thu hút lao động có trình độ, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh trên thị trường tài chính. Mở cửa thị trường dịch vụ NH và nới lỏng hạn chế đối với các tổ chức tài chính nước ngoài là điều kiện để thu hút đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực tài chính – ngân hàng, các NHTM trong nước có điều kiện để tiếp cận sự hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn, đào tạo thông qua các hình thức liên doanh, liên kết với các NH và tổ chức tài chính quốc tế.Mở cửa thị trường tài chính làm tăng số lượng các NH có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ và trình độ quản lý. áp lực cạnh tranh cũng tăng dần theo lộ trình nới lỏng các qui định đối với các tổ chức tài chính nước ngoài, nhất là về mở chi nhánh và các điểm giao dịch, phạm vi hoạt động, hạn chế về đối tượng khách hàng và tiền gửi được phép huy động, khả năng mở rộng dịch vụ NH, trong khi các tổ chức tài chính VN còn nhiều yếu kém, trình độ chuyên môn và trình độ quản lý còn bất cập, hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh thấp, nợ quá hạn cao, khả năng chống đỡ rủi ro còn kém. Vì thế, các NHTM VN sẽ mất dần lợi thế cạnh tranh về qui mô, khách hàng và hệ thống kênh phân phối.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tai_lieu_ngan_hang_thuong_mai.doc